Xuyên vào câu chuyện trong sách 3

Chương 17 : chương 4.3

Cecily vẫn đứng nguyên chỗ cũ, con dao nằm nguyên trong tay phải. Cô nhìn thẳng, rồi giơ dao phi đi. Nó cắm ngoài tường, ngay ngoài vòng đích. Nói chuyện với Tessa không làm cô thoải mái hơn; nó còn làm tình hình thêm tệ. Ở Tessa có một nỗi buồn lẩn quất bí bách khiến Cecily cảm thấy dễ nổi nóng và căng thẳng. Dù giận Will lắm, nhưng cô không thể nào không cảm nhận được rằng Tessa cũng lo sợ cho anh; ấy là một nỗi khiếp sợ sâu kín trong lòng mà cô ấy không chịu nói ra, và Cecily rất muốn biết nó là gì. Sao cô có thể bảo vệ anh mình khi cô không biết cái gì đe dọa anh? Sau khi lấy lại dao, cô giơ nó ngang vai và phi đi. Lần này nó bay xa vòng tròn hơn, khiến cô bực bội thở dài mộ tiếng. “Uffern nef *!” Cô lầm bầm bằng tiếng Wales. Mẹ cô hẳn sẽ hoảng hốt lắm, nhưng mà bà đâu có ở đây. (*) Tiếng Wales, nghĩa là quỷ tha ma bắt. “Năm,” một giọng nói ề à vang từ hành lang bên ngoài vào. Cecily giật mình quay lại. Một bóng đen ngoài cửa tiến vào và cô nhận ra Gabriel Lightwood, với mái tóc nâu rối và đôi mắt xanh sắc lạnh như thủy tinh. Anh ta cao ngang Will, có khi còn cao hơn, và gầy hơn. “Tôi không hiểu ý anh, anh Lightwood.” “Cách ném của cô,” anh ta nói và nhẹ nhàng vung tay. “Tôi chấm năm điểm. Kĩ thuật và kĩ năng của cô có lẽ cần luyện thêm, nhưng rõ ràng cô có năng khiếu. Cô chỉ cần luyện tập thôi.” “Will đang dạy tôi,” cô nói khi anh ta tới gần hơn. Khóe miệng anh ta hơi nhếch. “Ờ.” “Có vẻ anh có thể dạy tốt hơn, nhỉ?” Anh ta dừng lại, rút con dao khỏi tường. Nó lóe sáng khi được anh ta xoay trong tay. “Tôi có thể,” anh ta nói. “Tôi được học từ người giỏi nhất, và tôi đã huấn luyện cô Collins và cô Gray...” “Tôi nghe rồi. Tới khi anh chán. Một người không tận tâm có vẻ không thể là thầy giáo tốt.” Cecily vẫn nói khác sáo như cũ; cô nhớ Gabriel đã đỡ cô đứng lên lúc ở nhà Lightwood, nhưng cô biết Will không ưa anh ta, và giọng anh ta sặc mùi chảnh chọe cành cao. Gabriel chạm đầu ngón tay vào mũi dao. Một giọt máu ứa ra. Tay anh ta bị chai, mu bàn tay lốm đốm tàn nhang. “Cô đã thay đồ đi săn ra.” “Nó dính toàn máu không hà.” Cô nhìn anh ta một lượt. “Có vẻ anh chưa thay. Vẻ kỳ cục bỗng thấp thoáng trên gương mặt Gabriel rồi biến mất, nhưng cô đã thấy anh trai mình giấu cảm xúc quá nhiều lần nên nhận ra ngay “Tôi không có quần áo ở đây,” anh ta nói, “và cũng không biết mình sẽ ở đâu. Tôi tưởng có thể trở về ở một trang viên của nhà mình, nhưng...” “anh tính ở lại Học Viện?” Cecily ngạc nhiên hỏi khi hiểu ra vấn đề. “Charlotte nói sao?” “Chị ấy sẽ đồng ý.” Gương mặt Gabriel thoáng biến đổi, vẻ dằn dỗi đột nhiên xuất hiện thay thế vẻ cứng cỏi lúc trước. “Anh trai tôi ở đây mà.” “Ờ,” Cecily nói. “Anh tôi cũng sống tại đây luôn.” Gabriel ngừng một lát, gần như thể anh ta chưa từng nghĩ tới chuyện đó. “Will,” anh ta nói. “Cô quả thật rất giống cậu ta. Thật...khó chịu.” Anh ta lắc đầu như để xua đi cảm giác bối rối. “Tôi vừa gặp anh cô,” anh ta nói. “Chạy như bay xuống sân cứ như thể bị Tứ Kỵ Mã* đuổi ấy. Chắc cô không biết có chuyên gì đâu nhỉ?” (*) Tứ Kỵ Mã (Four Horsemen of the Apocalypse) là nhân vật trong Kinh Thánh, gồm Chiến Tranh, Chết Chóc, Bệnh Dịch và Nạn Đói, nếu xuất hiện sẽ báo trước ngày tàn của thế giới. Vào thời điểm thành phố Luân Đôn dường như lắng dịu khi ngày làm việc kết thúc, khu East End lại bừng dậy. Will đi qua các con phố với hai bên là những quầy bán quần áo và giày dép cũ. Những người bán đồ ve chai và thợ mài dao đẩy xe qua các con hẻm, cất tiếng rao bán hàng hóa. Mấy tay đồ tể đứng ngoài cửa, tạp dề lấm tấm máu, thịt lợn treo lủng lẳng ngay cửa sổ. Phụ nữ vừa phơi đồ vừa í ới gọi nhau trên phố, bằng giọng mang hơi hướng dân gốc vùng Bow Bells*, làm Will nghe mà cứ tưởng họ nói tiếng Nga. (*) chỉ những người sống ở vùng nghe thấy tiếng chuông của nhà thờ St. Maryle-Bow; họ có khẩu âm, thổ ngữ riêng, và tiếng Anh của họ thường được coi là tiếng Anh của tầng lớp lao động. Mưa phùn lất phất lảm ướt mái tóc Will khi anh đi qua quầy bán buôn thuốc lá giờ đã đóng cửa và rẽ vào một con phố nhỏ hơn. Anh có thể thấy ngọn tháp của nhà thờ Whitechapel xa xa. Bóng tối tụ ở đó, sương dày mềm mại và có mùi sắt cùng rác thải. Một máng xối hẹp chạy ngay giữa phố, ăm ắp thứ nước bốc mùi thối hắc. phía trước đó là một ô cửa, với hai bên là ngọn đèn khí đốt. Khi đi ngang qua, Will đột nhiên chui vào đó và thò tay. Có một tiếng hét, rồi anh lôi một người mảnh mai, mặc áo choàng đen về phía mình-Cecily, với chiếc áo choàng nhưng khoác vội bên ngoài bộ đồ đi săn. Mái tóc đen xổ xuống nơi vành mũ, và đôi mắt xanh giống hệt anh đang nhìn anh, và cô bực bội gắt. “Thả em ra!” “Em làm gì lại đi theo anh tới khu xóm liều của Luân Đôn vậy, con nhỏ ngốc nghếch này?” Will khẽ lắc tay cô. Mắt cô nheo lại. “Sáng nay thì ‘cariad’, mà tối đã ‘con nhỏ ngốc nghếch’ rồi hả?” “Những con phố này nguy hiểm lắm,” Will nói. “Và em chẳng biết gì về chúng. Em còn không thèm dùng chữ rune che mờ. Tuyên bố mình chẳng sợ gì khi sống ở nông thôn là một chuyện, nhưng đây là Luân Đôn.” “Em chẳng sợ Luân Đôn,” Cecily bướng bỉnh nói. Will cúi tới sát hơn, gần như rít lên bên tai cô. “Fyddain wneud unrhyw dda yn ddweud wrthych i fynd adref?” Cô bật cười. “K, anh có bảo em về nhà cũng chẳng ăn thua đâu. Rwyt ti fy mrawd ac rwy eisiau mynd efo chi.” Will chớp chớp mắt khi nghe cô em gái nói. Anh là anh trai em và em muốn đi cùng anh. Anh đã nghe quen Jem nói những lời tương tự thế, và dù khó mà tưởng tượng Cecily có điểm nào giống Jem, nhưng cô quả có tương đồng với Jem một điểm: cực kì cứng đầu. Khi Cecily muốn gì, đó không phải là một mong ước vẩn vơ mà là quyết tâm sắt đá. “Em không thèm quan tâm xem anh đi đâu sao?” Anh nói. “ Nếu anh đi xuống địa ngục thì sao?” “ Em luôn muốn thấy địa ngục,” Cecily bình thản nói. “Không phải mọi người đều có mong ước đó sao?” “Hầu hết chúng ta dành cả đời để đấu tranh tránh xa nó,” Will nói. “ Nếu em nhất quyết muốn biết thì anh xin nói: Anh tới sới ifrit để mua thuốc phiện từ những kẻ quỷ tha ma bắt phóng đãng, ưa bạo lực. Chúng có thể sẽ để mắt tới em em, và quyết định bán em đi.” “Anh không ngăn chúng à?” “Đó còn tùy xem chúng định trả anh bao nhiêu.” Cô lắc đầu. “Jem là parabatai của anh,” cô nói. “Anh ấy là người anh em được Clave trao cho anh. Nhưng em là em gái ruột của anh. Sao anh có thể làm bất cứ điều gì vì anh ấy nhưng lại chỉ muốn em về nhà?” “Sao em biết anh đi mua thuốc phiện cho Jem?” “Em không ngốc, Will.” “Ừ, thế mới tiếc chứ,” Will lầm bầm. “Jem...Jem là tất cả phần tốt đẹp của con người anh. Anh không mong em hiểu. Anh nợ cậu ấy điều này.” “Vậy em là gì?” Cecily hỏi. Will thở dài. “Em là điểm yếu của anh.” “Còn Tessa là trái tim anh,” cô nói, không hề giận mà chị trầm ngâm ngẫm nghĩ. “Em đã bảo rồi, em không ngốc đâu,” cô bổ sung khi thấy vẻ hoảng hốt của anh. “Em biết anh yêu chị ấy.” Will dặt tay lên đầu, như thể câu nói của cô làm anh bị thiên đầu thống. “Em còn nói với ai nữa không? Đừng đấy, Cecily. Không ai được biết, và cứ thế đi.” “Làm gì có ai để em nói.” “Ừ, cứ vậy, nghe chưa?” Giọng anh lại nghiêm khắc. “Chắc em phải thấy xấu hổ lắm vì anh trai em... có tình cảm không nên có với vợ sắp cưới của parabatai...” “Em không xấu hổ vì anh. Will. Dù anh có thấy thế nào, anh cũng không hành động theo cảm tính, và có lẽ tất cả chúng ta đều khao khát điều chúng ta không thể có.” “Ồ?” Will nói. “Vaayjbem khao khát cái gì mà em không thể có nào?” “Anh trở về nhà.” Một lọn tóc đen dính vào má cô vì hơi ẩm, khiến cô trông như đang khóc, dù Will biết cô không hề. “Học Viện đã là nhà của anh rồi.” Will thở dài và ngửa đầu dựa vào mái tò vò đá. “Anh không thể đứng ngoài này tranh cãi với em cả đêm, Cecy. Nếu em quyết tâm theo anh đến địa ngục, anh không thể ngăn em.” “Cuối cùng anh cũng hiểu ra rồi đấy. Em biết anh mà; dù sao chúng ta cũng là anh em.” Will kìm cảm giác muốn lắc cho cô tỉnh ra thêm lần nữa. “Em sẵn sàng chưa?” Cô gật đầu, và Will giơ tay gõ cửa.