Nghe viên lại già nói vậy, tiểu lại không cười nữa, thi lễ một cái rồi chạy đi, chuyện này có bí thư các xử lý, mình làm tròn chức trách là được, chạy thêm một chuyến cũng không chết ai. Viên tiểu lại kia chạy đi rồi, những người khác tụ cả lại bên cạnh lão lại, hỏi chuyện xa xưa, lão lại không từ chối: - Lão phu sắp về quê dưỡng lão, nhưng đường của các ngươi còn dài, chúng ta làm cái việc hầu hạ người ta, nghĩ ít làm nhiều, bớt nghe ngóng chuyện không liên quan đó là đạo giữ mạng, còn nữa, hãy ghi nhớ các loại quy củ, dù là mới hay cũ... Lại nói tiểu lại kia chạy hơn ba trăm bậc thang tới bí thư các, đem chuyện ở đại môn bẩm báo cho một viên quan trẻ, viên quan trẻ nghe xong ngạc nhiên lắm, hắn không nhớ Đại Tống có quy củ nào như vậy. Tiểu lại cũng không nói là lão lại bảo với mình, tình hình đã kể xong, cáo lỗi trở về, ở trong quan thự, chuyện nhắc nhở người khác rất ít xảy ra trừ khi là quan hệ tới mức nào đó, vì đôi khi nhiều lời một câu gây ra phiền toái không đáng có. Viên quan trẻ nghĩ mãi không ra có quy củ nào như vậy, cho rằng đám binh sĩ nhà quê kia đang cố ý gây chú ý với bệ hạ, là trò nịnh bợ thôi, không thấy ai chú ý đến mình, thế nào chúng cũng tự giải tán. Trong triều đường cách đó không xa không khí căng thẳng, Triệu Trinh mặt đanh lại, cầm tấu sớ của Dư Tĩnh, đi qua đi lại, chỉ mặt bách quan: - Nông Trí Cao chịu tội đã là định cục, nhưng ba vạn tinh nhuệ của trẫm thì làm sao quay về được đây, chẳng lẽ muốn họ đi qua vùng dịch? Cái nguy hiểm này trẫm không dám mạo, trẫm hỏi các ngươi ai dám? Hôm nay phải thảo luận cho ra nhẽ, ngày nào đại quân chưa về Đông Kinh thì trẫm chưa yên tâm. - Khởi bẩm bệ hạ, đại quân xuất, tất nhiên là máu chảy thành sông, huống hồ lần này là hùng sư tinh nhuệ của chúng ta, cho nên đi tới đâu đầu người lông lốc tới đó, vạn địch chiến tử không chỗ chôn thây, phương nam khí hậu ẩm thấp nóng nực, thi thể thối rữa, dễ xảy ra dịch bệnh. - Thành Ô Sào lại là vùng hai quân sinh tử tương tranh, xem từ chiến bao có thể thấy, một hẻm núi nhỏ động viên tới mười vạn quân sĩ dân phu, quyết chiến hàng tháng trời, ngay voi chiến cũng xuất trận, sự thảm liệt ra sao khỏi nói cũng biết. - Nay dựa vào tướng sĩ anh dũng, Địch soái không ngại gian khổ tới ky mi châu giương thiên uy hiển hách của Đại Tống, Vân tướng quân một mình cầm chân Nông tặc, ấy là đạo thần tử đó. - Chiến đấu lâu ngày, lại gặp mưa lớn hoành hành, mưa xong thời tiết chuyển ấm, dịch bệnh bùng phát, vi thần đoán chừng Địch soái cũng đã dự liệu được tình huống này diễn ra, cho nên mới mạo hiểm phân binh, để mình Vân tướng quân ở lại, muốn lập kỳ công, chỉ là không ngờ tới bệnh dịch bùng phát nhanh chóng như thế, đây chẳng phải lỗi con người, mà là thiên phạt, chúng ta phải bàn bạc kỹ hơn, không thể quyết định qua loa đại khái. Bàng Tịch chắp tay nói một hồi tràng giang đại hải, nghe rất thấu tình đạt lý, rốt cục ý nghĩa ở đúng một câu cuối, chưa đưa ra được bất kỳ quyết định gì: Nhưng mục đích Bàng Tịch đạt được rồi, Triệu Trinh quả nhiên là thích những lời cải lương tình cảm tha thiết đó, không hung hăng như vừa rồi nữa, đau khổ nhắm mắt lại: - Đại quân của trẫm nay tác chiến trong mưa gió, bôn ba chốn man hang, mỗi lần nghĩ tới là lòng trẫm như dao cắt, dè đâu xảy ra chuyện như thế,, không những nằm ngoài dự liệu tướng sĩ tiền phương, cũng nằm ngoài dự liệu của trẫm. Chẳng lẽ tại vì trẫm không đủ đức hạnh, không xứng đáng được nhận đại thắng, nếu như có thể dùng chiếu thỉnh tội để trời cao miễn đi tai họa này, trẫm không ngại hạ mười đạo chiếu chỉ, trẫm sẵn lòng tắm rửa tịnh thân mấy năm tự tu tỉnh. Bách quan liền làm một tràng than khóc, muốn thỉnh tội thay hoàng đế, không khác gì trò phường chèo. Hàn Kỳ đi ra cười lớn: - Bệ hạ cần gì phải sầu lo, chuyện này cũng chẳng phải lửa cháy ngang mày, chỉ cần Địch soái trú ở ky mi châu một năm, đợi dịch bệnh tan đi là bình an trở về, lần xuất chinh này là đại thắng triều ta, chẳng qua đại quân về muộn một năm thôi, cũng cần có cường quân trú lại biên cương cho hai vùng Lưỡng Nam ổn định lại, gây dựng được quân đội địa phương, âu là chuyện vẹn toàn. Văn Ngạn Bác nhíu mày: - Đâu đơn giản như thế, làm sao biết được khi nào bệnh dịch mới lui, vũng Lĩnh Nam bốn mùa không phân, chẳng giống đất bắc chỉ cần một mùa đông lạnh là dịch bệnh bị đầy lùi, không ai có thể khẳng định nơi đó còn dịch bệnh không, thần sợ nhất đại quân đem dịch bệnh về đất bắc. - Ngoài ra vi thần muốn hỏi một câu, vì sao Vũ Thắng quân không rút lui, chẳng lẽ bọn họ không sợ dịch bệnh mà Địch soái lại sợ? Không biết an phủ sứ Dư Tĩnh có nói rõ không? Triệu Trình sực nhớ ra, thế là vội vàng lật tấu chương xem, xem tới phần cuối mới thở phào, đưa Trâu Đồng Minh để truyền cho quần thần. - Biện pháp của Vân Tranh chính là điều lệ quản lý vệ sinh, năm xưa nhờ vào nó mà nổi danh ở Tây Hạ, có điều khó sao chép, vì Vũ Thắng quân từ trên xuống dưới đã có thói quen chấp hành nghiêm ngặt điều lệ này, nên mới có thể ở lại vùng dịch, bao vây Nông Trí Cao. Tây quân không làm được điều ấy, khi phát hiện ra bệnh dịch, Vân Tranh đã yêu cầu Quảng Nam quân rút lui, nên họ tránh được kiếp nạn. Văn Ngạn Bác khóe miệng giật giật mấy cái lui xuống, không ai dám tùy tiện quyết định một việc liên quan tới tính mạng toàn quân, phải để hoàng đế quyết. Đại điện yên tĩnh vô cùng, nhưng ở tấu viện lại rất náo nhiệt, số người đi tới xem đám quái nhân Vũ Thắng quân ngày một nhiều, thậm chí còn xuất hiện người bán hàng rong xách giỏ bán quả khô. - Xem kia, nỏ bọn họ đeo trên lưng rất lạ, đao lại gài bên sườn, thế là sao nhỉ? - Nhìn cái tên đeo chùy xích cao lớn như dã thu kia kìa, mắt đỏ như dã thú, chắc là giết nhiều người nên thành như thế, có phải là dân man di không? - Mông bọn họ đều có miếng vá lớn, sương quân thật là nghèo, quần áo lành lặng cũng không có, thật đáng thương. - Nhưng chiến mã của người ta đều là bảo mã đó, chưa tới năm tuổi, chỉ tiếc là lông xơ xác quá, chắc là không được ăn no. Nhìn đám người đứng trơ trơ ra như gỗ, dù xung quanh nói gì cũng không phản ứng, lâu dần đám đông cũng mất hứng thú, Đông Kinh Biện Lương không thiếu trò vui để xem, ở lại đây xem mấy tên binh sĩ, chẳng bằng tới Dịch Mã Kiều ngắm kỹ nữ, không thì tới Tướng Quốc tự xem nữa tử đấu vật, gọi vài cái bánh, một cốc trà, chẳng phải khoan khoái hơn sao. Trên triều đường đùn đẩy một hồi, không ai dám đưa ra ý kiến, đều học Bàng Tịch, nói đây là chuyện trọng đại cần bàn bạc kỹ lưỡng. Phu Văn các học sĩ Vương Xử đột nhiên khởi tấu: - Bệ hạ muốn ra quyết định kỳ thực cũng dễ thôi. Vương Xử chính là lão sư của Triệu Trinh, nhìn Triệu Trinh lớn lên từ nhỏ, ông ta có nhận thức rõ ràng về đứa học sinh này, bản tính nhu nhược do dự tới thời khắc quan trọng đã bại lộ hết ra rồi. Triệu Trinh thấy lão sư ra mặt, mừng rỡ nói nhanh: - Ái khanh có cớ gì hay, mau mau nói. Vương Xử cầm triều vật đứng giữa đại điện, ông già gần bảy mươi tuổi, giọng nói khỏe khoắn hơn cả học sinh: - Địch Thanh xuất thân tội tù, lên tới chức Xu mật phó sứ là dựa vào quân công hiển hách, thân kinh bách chiến, từng đao từng thương kiếm được, vinh diệu không cần nghi ngờ. - Vân Tranh càng nhiều sự tích mang tính truyền kỳ, lão thần phục nhất vẫn là có thể biến sương quân vô dụng thành hùng sư bách chiến bách thắng, không thua sương quân. Loại bản lĩnh này, phóng mắt nhìn khắp triều đường không ai có. - Cả hai đều là rường cột nước nhà, bệ hạ cân nhắc cẩn trọng cũng là nên làm, chỉ là sao không hỏi người từ tiên phương về, bọn họ mới có phán đoán trực quan nhất? Theo như thần đoán tướng sĩ tiền phương hẳn là có quyết định rồi. Triệu Trinh xem lại tấu chương lần nữa, phát hiện Dư Tĩnh nhắc tới người đưa tin là đô ngu hầu Vũ Thắng quân, còn khen ngợi người này mấy câu, vốn tưởng Dư Tĩnh muốn tiến cử nhân tài, giờ liên hệ với lời Vương Xử, liền thấy không đơn giản rồi, nếu chỉ đưa tin, sao cần tướng quân đưa tin, tiền phương chiến sự đang khẩn trương, là lúc cần dùng người mới đúng. Chưa đợi Triệu Trinh lên tiếng, Hàn Kỳ đã hỏi ngự sử trực ban: - Tín sứ tiền phương đâu?