Đêm giao thừa đến trong tiếng pháo rộn ràng của nhân gian. Cùng đến trong đêm giao thừa là những bông tuyết bay tán loạn đầy trời. Tuyết rơi mỗi lúc càng lớn, hậu hoa viên Thanh Vân điện rất yên tĩnh, trừ lúc thỉnh thoảng nghe được loáng thoáng tiếng pháo nổ từ ngoài cung truyền đến, thì cũng chỉ nghe thấy âm thanh bông tuyết lả tả bay xuống. Không bao lâu sau, cả hoa viên đều bị tuyết phủ lên một lớp dày như được khoác lên một chiếc áo choàng nhung màu trắng bạc. Đến bữa cơm tối, Quý phi nương nương đạp tuyết mà đến, cùng Chu Tử ăn cơm tối. Quý phi nương nương và Chu Tử đều không phải là người thích nói chuyện, ở trên bàn cơm thì càng trầm mặc, chỉ yên lặng dùng cơm. Trong phòng Chu Tử rất ấm áp. Kể từ sau khi được Triệu Trinh đưa vào trong cung, nàng vẫn luôn ở trong hậu hoa viên của Thanh Vân điện. Vì an toàn của Chu Tử, Quý phi nương nương không cho phép Chu Tử tùy ý rời khỏi Thanh Vân điện, cũng không cho bất cứ ai tiến vào Thanh Vân điện, cho nên Chu Tử toàn mặc áo gấm rộng thùng thình và quần bông thật dày, dù sao nàng cũng chỉ quanh quẩn trong Tiểu lâu Thanh trúc và trong hậu hoa viên của Thanh Vân điện thôi, nên không sợ gặp được người lạ chỉ trích nàng y phục không chỉnh tề. Sau bữa tối, Chu Tử cùng Cao Quý phi ngồi trên giường La Hán tán gẫu. Hàn huyên được một lát, tính trẻ con của Chu Tử nổi lên, thẳng lưng quỳ lên giường, quay đầu mở cánh cửa sổ sau giường La Hán, muốn nhìn bông tuyết tung bay đầy trời một chút. Lúc này đã gần chạng vạng, tuyết không còn rơi nhanh nữa, nhưng bông tuyết lại to hơn, tựa như từng đám lông ngỗng, từ trên trời cao là đà bay xuống. Nhìn từng bông tuyết to, trong lòng Chu Tử lại nhớ Triệu Trinh. Nàng nhớ rõ, vào dịp Tết âm lịch năm ngoái, Triệu Trinh vẫn còn đang ở Tây Bắc dẹp loạn, mãi đến mười lăm tháng hai mới trở về Vương phủ ở Kim Kinh. Chu Tử còn nhớ rõ ngày đó, cả phủ đều cùng nhau ra cổng nghênh đón Triệu Trinh, lúc đứng dậy, nàng len lén liếc nhìn Triệu Trinh một cái, lại phát hiện Triệu Trinh cũng đang nhìn nàng. Ánh mắt hai người chạm vào nhau, tim Chu Tử liền bắt đầu đập nhanh. Cho tới bây giờ, Chu Tử vẫn còn nhớ như in cảm giác lúc đó, nàng đoán rằng, có lẽ bắt đầu từ lúc đó, Triệu Trinh trong lòng đã có chút thích mình rồi! Nàng còn nhớ rõ chuyện xảy ra tiếp theo vào đêm hôm đó: Lúc bấy giờ Chu Tử cảm thấy mệt muốn chết, lại còn bực bội giận dỗi Triệu Trinh vì chuyện uống canh tránh thai. Nhưng bây giờ nhớ lại, đó cũng là khoảng thời gian mà Chu Tử cảm thấy hạnh phúc nhất trong cuộc đời: Triệu Trinh quấn quít, thương yêu nàng, không cho nàng rời khỏi nội viện Tùng Đào Uyển một bước. Tại sao khi mất đi, người ta mới biết điều đó vô cùng quý báu? Nước mắt Chu Tử chậm rãi tràn mi. Nàng sợ Quý phi nương nương thấy mà đau lòng, cho nên lặng lẽ dùng tay áo lau đi. Quý phi nương nương cũng đang ngắm nhìn bông tuyết ngoài trời. Hiện tại Kim Kinh đã có những trận tuyết rơi lớn như vậy, không biết tuyết ở Bắc Cương càng rơi nhiều thế nào nữa! Mặc dù hơn một nửa binh lính cấp dưới của Triệu Trinh là cấm quân Kim Kinh, quân phòng thủ ở Bắc Cương, đội quân Kiêu Kỵ và Tân Quân đều ở phía Bắc đã lâu, nhưng dù sao vẫn có một phần quân đội riêng là quân phòng thủ của Nam Cương, đến từ Nam Cương, không biết có thể thích ứng với cái lạnh của phương Bắc hay không!. Thời tiết như vậy, thật không biết có ảnh hưởng gì đến chiến sự của Trinh nhi hay không! Trinh nhi bây giờ ra sao, hẳn là hắn đã nhận được áo bông Chu Tử làm rồi, không biết mặc trên người có vừa không, không biết có đỡ lạnh hay không!? Nghĩ đến Chu Tử, ánh mắt Quý phi không khỏi nhìn về phía Chu Tử, thấy nàng hướng về phía cửa sổ, ngưng mắt nhìn ra bên ngoài, vội hỏi: "Chu Tử, bên ngoài tuyết lớn, cẩn thận kẻo lạnh!" Chu Tử vội đóng cửa sổ lại, quay đầu cười với Quý phi: "Nương nương, nô tỳ cảm thấy trong phòng có chút nóng, muốn hít thở không khí!" "Nóng thì uống chút nước đi!" Cao Quý phi lệnh cho Hoàng Oanh bưng lên một chén nước lê đường phèn chưng cách thủy, tự mình trông chừng Chu Tử uống, lúc này mới yên tâm. Đêm dần buông, Chu Tử và Quý phi nương nương cũng không bận việc gì, ngồi trên giường La Hán, tựa vào đệm lớn tán gẫu. Sau không biết thế nào, lại nói đến tên cho tiểu bảo bảo trong bụng Chu Tử. Với đề tài này, Chu Tử cảm thấy rất hứng thú, nàng cười hì hì nói: "Nương nương ngài đặt tên cho bảo bảo đi, Vương gia nhất định sẽ rất vui mừng!" Cao Quý phi suy nghĩ thật lâu sau, mới nói: "Nếu là bé trai, thì gọi là Triệu Hi, hoặc là Triệu Tử, hoặc là Triệu Giác..." Bà liền bảo Hoàng Oanh đi chuẩn bị giấy và bút lông, nghĩ nên ghi lại trên giấy xem sao. Hoàng Oanh còn chưa đem giấy và bút đến, Cao Quý phi đã bắt đầu nghĩ tên cho bé gái: "Nếu là bé gái, thì gọi là Triệu Châu? Ta và Trinh nhi nhất định sẽ xem nó như châu như bảo!" Lại nói: "Hoặc gọi là Triệu Chỉ (*)? Hoa lan bên sông, bạch chỉ bên bờ, xanh mướt thơm nồng, ý này rất hay!" (* Chỉ hoặc Bạch chỉ: Một loại cỏ thơm, rễ làm thuốc 白芷) "Ừm, Triệu Hạm ( hoa sen) cũng không tồi, Một đóa hoa sen, hương thơm nhẹ nhàng, Triệu Hạm cũng tốt!" Chu Tử cười híp mắt nghe Quý phi đặt tên cho bảo bảo, thấy thật vui. Hoàng Oanh và Nhũ Yến bày giấy bút lên bàn, Cao Quý phi viết hết toàn bộ những cái tên mình nghĩ ra trên giấy, gọi Chu Tử đến chọn cùng mình. Cuối cùng, Cao Quý phi tạm thời chọn vài cái tên đã ghi xuống. Nếu là bé trai, thì gọi là Triệu Hi hoặc Triệu Tử; nếu là bé gái, thì gọi Triệu Châu hoặc Triệu Hạm. Cao Quý phi đề bút viết xuống những cái tên này, chờ Triệu Trinh về sẽ để hắn chọn. Hai người lại bàn đến nhũ danh cho bảo bảo. Quý phi nói với Chu Tử: "Nhũ danh của đứa bé đương nhiên phải để người làm mẹ là ngươi chọn là tốt nhất!" Chu Tử nghĩ nghĩ một chút nói: "Nương nương, gọi Bánh Bao Nhỏ (Tiểu Bao Tử) được không?" "Phụt —" Quý phi nương nương vừa nhấp một ngụm nước lê chưng đường phèn thì liền phun ra, "Cái đồ tâm hồn ăn uống này!" Cao Quý phi cười lớn. Bên này mấy người Hoàng Oanh tiến lên dọn dẹp liên tay. Chu Tử chớp chớp đôi mắt to, rất vô tội nhìn bà: "Nương nương, bảo bảo vừa mềm vừa tròn lại còn thơm ngào ngạt, gọi là Bánh Bao Nhỏ, Sủi Cảo Nhỏ, Nắm Viên Nhỏ... linh tinh này đó, không phải rất đáng yêu sao?" Cao Quý phi cười đến không ngừng được, liền nói: "Được được được! Chờ Vương gia nhà ngươi về, tự ngươi nói với hắn đi! Ha ha!" Đêm giao thừa này, Cao Quý phi và Chu Tử vẫn không thể thức qua đêm được, cuối cùng Cao Quý phi ngủ lại ở chỗ Chu Tử. ... Đêm giao thừa, đầm lầy Khám Trạch – nơi tiếp giáp giữa Bắc Cương và Ô Thổ quốc, Triệu Trinh đang cưỡi ngựa dẫn theo một đội thân binh thị sát các đại quân doanh. Triệu Trinh vừa dẫn quân đến Bắc Cương, liền dựng đại doanh ở đây, sau đó bắt đầu bắt đầu di chuyển dân chúng, thiết lập vườn không nhà trống. Chờ khi đại quân Ô Thổ ra trận, phát hiện thứ chúng phải đối mặt là hệ thống phòng ngự tường đồng vách sắt của nước Đại Kim, vô luận thế nào cũng không có nổi một miếng mà gặm. Đại quân Ô Thổ lại tấn công liên tục, thế nào cũng sẽ không đánh mà lui. Tiếng trống đầu tiến công khí thế như hổ, tiếng thứ hai suy yếu, tiếng thứ ba cạn kiệt. Hiện tại, sẽ là lần tiến công đầu tiên của Đại Kim. Ô Thổ quốc từ xưa đến nay đều chịu ảnh hưởng rất lớn của Đại Kim, bọn họ cũng muốn chiến thắng vào mùa xuân này. Mấy lần mạnh mẽ tấn công, binh sĩ người người đều kiệt sức, ngựa thì hết hơi. Quân do thám báo lại, nói doanh trại Đại Kim đang vui mừng đón giao thừa, bày bàn tiệc rượu lớn. Đại quân Ô Thổ nghe thấy thế liền lơi lỏng. Vì vậy cũng bắt đầu nhộn nhịp uống rượu ăn thịt mừng đón giao thừa, chuẩn bị dưỡng sức ngày mai tái chiến. Chỉ trong nửa đêm, Triệu Trinh thị sát toàn bộ quân doanh, cuối cùng xác định từ binh lính đến tướng lĩnh, tất cả đều chuẩn bị tốt, lúc này mới hài lòng quay về. Quân đội Đại Kim chính là đang áp dụng chiến thuật mê hoặc. Nhìn mặt ngoài, Triệu Trinh đến đâu, đều vui vẻ nâng chén ăn thịt cùng binh lính. Trên thực tế, thịt là ăn thật, nhưng rượu lại toàn là nước lã. Lúc này còn chưa đến giờ Dần, nhưng bởi vì bão tuyết lớn, chung quanh thoạt nhìn một mảnh tuyết trắng. Quân doanh Đại Kim nối liền theo một mảnh, thoạt nhìn thì im ắng, không chút tiếng động, dường như tất cả đều ngủ say. Giờ Dần vừa đến, đại quân của Đại Kim bắt đầu xung phong! Đêm giao thừa này, quân Ô Thổ quốc bất ngờ không kịp đề phòng, bị đánh tả tơi tan tác, lập tức rút lui hai trăm dặm về phía Bắc của đầm lầy Khám Trạch. Đội quân Đại Kim thừa dịp ồ ạt tiến công, mùng sáu tháng giêng lại một lần nữa đánh bại quân Ô Thổ, "trực đảo Hoàng Long", đánh thẳng vào thành Chính Kinh là kinh đô của Ô Thổ quốc. Ngày mười tám tháng giêng, Triệu Trinh thống lĩnh đại quân của Đại Kim bao vây thành Chính Kinh. Lần này tiểu quốc Ô Thổ quốc tự cao tự đại bắt đầu hoảng sợ, vội vàng phái sứ giả đến Kim Kinh xin cầu hòa với Đại Kim. Thế lực trong triều Đại Kim chia làm hai phe, một bên do Thái tử làm chủ, chủ trương đánh bại Ô Thổ quốc, biến Ô Thổ quốc thành thuộc địa của Đại Kim; một bên ủng hộ Nhị hoàng tử Bắc Tĩnh vương, chủ trương nghị hòa, cho rằng đánh một trận này đổi lấy hai mươi năm hòa bình của Đại Kim là đủ. Hoàng đế phân vân, khó có thể quyết định, vì vậy chờ ý kiến của Triệu Trinh. Tấu chương của Triệu Trinh rất nhanh đã được đưa đến. Hắn cho rằng Ô Thổ quốc mất đi là chưa đủ. Người dân Ô Thổ quốc tính tình hiếu chiến, hay gây sự cũng khó thuần phục, thay vì chiếm lĩnh Ô Thổ, sẽ luôn bị người dân không ngừng phản kháng, không bằng tung một đòn hiểm, bắt Ô Thổ quốc bồi thường thiệt hại chiến tranh cho Đại Kim một khoản tiền lớn, hàng năm phải tiến cống cho Đại Kim, khiến trong vòng hai mươi năm họ cũng không còn sức để tái chiến. Hoàng đế chuẩn tấu. Dưới sự chủ trì của Triệu Trinh, Ô Thổ quốc và Đại Kim ký kết hiệp ước: Một. Ô Thổ quốc trả bốm trăm triệu lượng bạc trắng tiền bồi thường chiến tranh cho Đại Kim quốc, chia ra trả hết trong vòng bốn mươi năm. Hai. Trong vòng hai trăm dặm về phía bắc của đầm lầy Khám Trạch đều thuộc về lãnh thổ của Đại Kim quốc, nước Đại Kim sẽ phái trọng binh đóng quân. Ba. Ô Thổ quốc phải nhận lỗi với Đại Kim quốc, trừng phạt những quan viên chủ chiến. Lúc Cao Quý phi và Chu Tử biết tin, đã là ngày mười sáu tháng hai. Triệu Trinh đang thống lĩnh đoàn quân Đại Kim từng bước rời khỏi Ô Thổ quốc. Triệu Trinh mang quân phòng thủ ở Bắc Cương đóng quân ở phía bắc đầm lầy Khám Trạch, giao cho ái tướng Đinh Sâm Lâm của hắn cùng mưu sĩ Tưởng Đức Hằng mà hắn tín nhiệm nhất chỉ huy. Đồng thời, Triệu Trinh ra chế độ thay quân mới – quân đồn trú Bắc Cương bao gồm: quân phòng thủ Bắc Cương và đội Tân Quân sẽ luân phiên thay quân ba năm một lần. Sau khi hoàn tất xong xuôi, Triệu Trinh chuẩn bị hoàn toàn rút quân khỏi Ô Thổ quốc, đại quân khải hoàn hồi hương. Sắp tiến vào biên giới Đại Kim, đại quân nối đuôi nhau, Triệu Trinh dẫn đầu, cưỡi trên con ngựa quý Ô Vân Đạp Tuyết của hắn, trong lòng rất thư thái. Hắn suy nghĩ: chờ khi về tới Kim Kinh, heo mẹ Chu Tử hẳn đã sinh một chú heo con nho nhỏ rồi! Mặc dù hắn và Chu Tử đều không tính được rốt cục là ở lúc nào và ở nơi nào thì mang thai tiểu bảo bảo, nhưng hai người họ cũng lờ mờ đoán là có lẽ mang thai vào tháng sáu năm ngoái lúc còn ở trên thuyền. Tính như vậy, vậy chờ tháng ba hắn về đến Kim Kinh, Chu Tử hẳn là sắp sanh rồi. Nói không chừng, mình còn có thể tận mắt nhìn bảo bảo được sinh ra ấy chứ! Trong lòng Triệu Trinh tràn ngập vui mừng, cảm thấy trong suốt mấy tháng qua chưa từng có nhẹ nhõm như lúc này. Lúc này, cả nước Đại Kim reo hò vui mừng, đắm chìm trong vui mừng thắng lợi. Trong hoàng cung, Quý phi nương nương và Chu Tử cũng vui mừng vô hạn, ngóng trông Triệu Trinh khải hoàn hồi kinh. Triệu Trinh làm việc luôn chu toàn, hắn bố trí hết thảy, suy tính đủ đường, vì vậy trên mặt trầm tĩnh như nước, nhưng nội tâm thoả thuê mãn nguyện. Thế nhưng, hắn lại quên, trong tự nhiên cái gì quá thì sẽ tận, tạo hóa là không thể đoán trước, những câu đại loại như "Nhân định thắng thiên (*)", nhiều lúc chỉ là một đống phân chó. (đây là nguyên văn của tác giả nhé) (* Nhân định thắng thiên: con người có thể thắng được thiên nhiên.)