Mấy ngày này Triệu Phổ và Lô Đa Tốn đều bề bộn trăm việc, từ việc bình ổn triều đình và các vùng huyện trấn khác, khởi phục các chức quan lại và khôi phục quyền lực thống trị, khiển phái tiền lương rồi quân nhu, điều động dân phu và cả phụ chiến tăng quân... Chính sự nhiều vô kể khiến họ bận tối ngày. Nhưng sau khi nếm trải mùi vị bị phế khỏi tướng vị, cách quyền một thời gian dài, thì dù có bận mấy hai người họ vẫn cảm thấy tốt hơn hẳn, họ nguyện gánh chịu mọi vất vả. Định Thừa Tông xem ra lại nhàn hạ hơn hai người Triệu Lô, thực tế hắn cũng bận rộn như Triệu Lô nhị, chỉ là hắn đang bận những việc bí mật, không dễ để kẻ khác phát hiện ra. Trong nha phủ của hắn, mỗi này đều có binh đội mật gián xuất thần liên tục ra vào, đến một khắc đêm khuya cũng không ngừng. Dương Hạo thực đã chuyển toàn bộ lực lượng mật giám chủ yếu về nội cảnh nước Tống, tình hình và lòng dân khắp nơi, thái độ của quan địa phương với triều đình mới, chính luật mới hay tình hình tiền tuyến cũng như các phe phái tướng lĩnh trấn thủ các nơi, nơi nào nên dụng binh, kẻ nào đáng bị xử lý, người đáng được đề bạt, kẻ cần phải tăng cường giám sát... Tất cả đều được thu thập tấu báo tới đây, việc giám xét các quan lại đều có tốt lẫn xấu, trung thần gian nhân khó mà phân biệt. Dương Hạo bên ngoài rộng lượng bác ái, nhưng bên trong thực phải tốn biết bao công sức. Hắn buộc phải tốn công sức như vậy, nếu không giang sơn này khó mà giữ được, chỉ trong nháy mắt quyền lực sẽ hoàn toàn tan biến. Điều tra những việc mờ ám bất chính như vậy, giao cho chính đại ca thân thiết của mình thì Dương Hạo mới có thể yên tâm được. Mặc dù Đinh Thừa Tông bận rộn luôn tay nhưng hắn cũng vẫn hài lòng, huynh đệ của mình làm bá chủ thiên hạ mới thực là việc đại hỷ. Lúc này lại thêm một tin vui nữa truyền tới, Diễm vương phi đã hạ sinh, hơn nữa lại là một vị hoàng tử. Trước đó không lâu, Oa Oa và Diệu Diệu cũng đã cùng hạ sinh, Oa Nhi sinh được một tiểu công chúa, Diệu Diệu lại sinh một hoàng tử, Dương Hạo lại có thêm tiêu hoàng tử, đã liên tục đón mừng hỷ sự, bây giờ Diễm vương phi hạ sinh thêm hoàng tử nữa, Dương Hạo lại có tới ba tiểu hoàng tử. Quả thực là điều đáng vui mừng, ở thời đại này, dù là bậc đế vương hay dân thường, cái sự ấu nhi chết non là việc thường xuyên xảy ra, có thêm con cháu thì lại càng yên tâm. Hắn vốn muốn có một nhi tử nối dõi, nhưng Dương Hạo cũng không có nhiều tử tôn nối dõi cho lắm nên hắn không tiện mở miệng. Chờ đến khi huynh đệ mình có thêm nhiều con nối dõi, hắn dự định sẽ xin Dương Hạo một đứa làm người nối dõi cho mình. Thực vậy, bấy giờ đối với người ta mà nói, nối dõi tông đường cực kỳ quan trọng, dù có nhìn xa trông rộng, tài cao đến mấy nhưng vẫn lo lắng không nguôi việc có con cháu phụng dưỡng lâm chung, chăm lo cúng tế. Sau một lúc hoan hỉ cực độ, Đinh Thừa Tông liền đích thân viết một phong thư, báo tin cho Dương Hạo, đồng thời phái người truyền tin đến Đường gia, gọi Đường gia tới thăm Hưng Châu. Hắn vừa làm xong việc, đang đặt lưng ngồi xuống nghỉ ngơi, chưa kịp uống hết chén trà thì Mã Diệc đã cấp tốc đi vào, mang theo một mật kiện trình lên cho hắn. Đinh Thừa Tông vội đặt chén trà xuống, sau khi nghiệm xem phong thư vẫn còn phong dấu, hắn mới bỏ ra đọc cẩn thận. "Bẩm, không ngoài dự liệu của quan gia, tên Vương Tiểu Pha này cũng có mưu đồ riêng, quan gia thu phục được thiên hạ, hắn tại Thục quốc liền lay động bất định, cứ kéo dài không chịu quy phục, chỉ e là có mưu đồ tự lập riêng". "Ha ha, chỉ là một tên tọa trấn Quan Trung nhãi nhép mà cũng phải khiếp sợ. Bây giờ Ngải Nghĩa Hải đang chỉ huy quân binh tiến tới, tên Vương Tiểu Ba e là không dám lộng quyền. Ừm, hắn đã hạ cờ đầu hàng triều đình, sự vụ quan tước ắt có Triệu tướng và Lô tướng lo liệu, mà nhất định phải làm cho thật thỏa đáng. Các thủ hạ chúng ta phái đi giám sát hắn đã rút về, bây giờ lại thiếu người rồi!". "Đúng vậy". Tri huyện Đan Dương? Đinh Thừa Tông nhíu mày: "Các quan lại trong triều đều quy thuận quan gia, hắn chẳng qua chỉ là một tên quan huyện phụ mẫu lại dám ngang nhiên buông lời nhường vị hỗn xược. Hừm, mỗi ngày không hoang lạc thưởng tửu, gào khóc kêu la thì tụ họp tri kỷ rồi khiển trách mắng mỏ như kẻ điên dại...". Mã Diệc vội đáp: "Đại nhân, có cần phái người đến trừng trị hắn...". Đinh Thừa Tông nghĩ một lúc, lắc đầu nói: "Cứ mặc hắn, lúc cấp bách nhiều trọng vụ này, không cần lo việc khác. Chẳng qua chỉ là một tên điên cuồng, cứ mặc hắn náo loạn. Các ngươi có nghe nhìn thấy cũng mặc hắn không hành động gì, cứ để hắn lộ rõ bộ mặt phản tặc. Ta đã dự tính cả, với kẻ này, ta tin rằng Triệu tướng và Lô tướng sẽ giải quyết ổn thỏa". Đinh Thừa Tông lấy tay vuốt cằm, như đã suy tính kỹ mà nói: "Tuy nhiên, qua việc này cũng có thể nhìn ra được, giang sơn này thực vẫn chưa được bình ổn. Lũng Hữu là nơi chúng ta khoái đao trảm loạn, nhanh chóng cổ vũ tinh thần để trấn đoạt được. Tình hình tại đó phức tạp, vốn là nơi chủng tộc phồn đa, việc tăng cường cai trị, trấn an địa phương không phải là việc dễ dàng giải quyết trong chốc lát, nó cần phải trấn trị trong thời gian đài. Giang sơn rộng lớn của nước Tống là do quan gia mượn danh nghĩa "Kỳ Vương" đoạt lại, vậy sự việc càng thêm phức tạp, e rằng phải mất ít nhất mấy năm trời mới có thể ổn định được. Chúng ta cứ thu thập mật tin các nơi cho đầy đủ, đợi quan gia trở về Biện Lương, chúng ta sẽ bắt tay vào xử trị mọi việc". Mã Diệc lại nói: "Vâng, chỉ không biết đại thúc... Khi nào thì đại thúc mới dừng việc bắc phạt?". Mắt nàng sáng rực lên, đột nhiên tung tăng nhảy nhót mà nói: "Chi bằng... Ta cũng đến Tam Quan để giúp đỡ đại thúc đi". Đinh Thừa Tông cười đáp: "Hồ đồ, con chỉ là thân phận nữ nhi, tới đó thì giúp được việc gì? Lẽ nào bảo con điều binh khiển tướng, xông pha trận mạc? Việc mật báo này lại không thể thiếu con được, nếu con làm việc này tốt, đại thúc Dương Hạo của con càng được nhẹ nhõm, như vậy là giúp được việc lớn rồi, lớn hơn cả việc con tới Tam Quan. Còn phía bắc...". Đinh Thừa Tông trầm lắng: "Con yên tâm, tới lúc ngừng lại, quan gia hiển nhiên sẽ ngừng lại!". "Ư". Khuôn mặt Mã Diệc sụp xuống, vẻ mặt càng ủ rũ. Nàng đã quen với việc quanh quẩn bên cạnh Dương Hạo. Lúc Dương Hạo luận đàm chính sự, tiếp gặp quan viên, nàng đều trốn ở nơi bí mật thầm chăm chú theo dõi từng cử chỉ, lời nói của Dương Hạo. Nàng không quan tâm đến thứ khác, chỉ cần nhìn thấy hình dáng của hắn, nghe thấy tiếng hắn, trong lòng lấy làm mãn nguyện, an bình lắm rồi. Cũng giống như một con mèo con, trốn ở một nơi mà chủ nhân không nhìn thấy, chủ nhân cứ bận rộn qua lại, con mèo lại nằm cúi xuống mà nhìn. Tuy có chút lơ là như không chú ý đến, nhưng chỉ cần chủ nhân vừa rời khỏi là nó lập tức bật dậy, vội vàng chạy theo sau. Nàng đã không thể rời khỏi hắn được nữa, giống như cá không thể sống thiếu nước. Lần trước khi tiến hành mai phục Biện Lương cùng với Chiết Tử Du, Đinh Ngọc Lạc và Trúc Vận, nàng vẫn chưa có cảm giác nhớ nhung mãnh liệt đến như vậy. Thứ nhất, là do từ bé nàng đã được đại thúc Dương Hạo kể về câu chuyện bất dạ chi thành, đó chính là thành Biện Lương, nàng mong chờ được đến đó tận mắt trông thấy thành. Thứ hai nữa, có thể do nàng vẫn còn nhỏ tuổi, thích những nơi náo nhiệt, lại được đi cùng Trúc Vận tỷ tỷ, người mà nàng nói chuyện hợp ý hơn cả. Nhưng bây giờ chỉ có một mình nàng, Trúc Vận tỷ tỷ đã được gả cho đại thúc, còn nàng vẫn là nàng, một chú chó con nhỏ bé không chút nổi bật... * * * Da Luật Hưu Ca cấp báo tin đến U Châu, Tiêu Xước biết tin mà thất kinh, mặt mày tái sắc. Quân Tống thất bại bỏ chạy từ U Châu về phía nam, hao tốn binh lực gần tới gần mười vạn quân, trận chiến ở Quân Tử quan lại thiệt hại mất ba vạn nhuệ binh. Không tính đến đám quân thương vong, chỉ qua hai trận đại thắng, quân Tống đã tổn hao mất mười ba vạn quân, như vậy binh lực quân Liêu cũng có thể ngang ngửa với Tống, nhưng bất thành ở trận chiến sông Tiểu Đường, ba vạn quân Liêu tinh nhuệ đã bị thất bại, tháo chạy về chưa được tới một vạn người. Hoàng đế Đại Tống bấy giờ lại nhường vị giang sơn, số binh mã vốn bày bố ở Quan Trung để phòng bị quân Tây Hạ có thể được điều về phía bắc. Cùng lúc đó, binh mã Tây Hạ cũng kết hợp đi cùng tuyến với đội quân binh đó, như thế chỉ xét từ mặt binh lực cũng đã vượt xa quân Liêu, huống hồ giờ lại hợp nhất quân binh bộ và kỵ binh dũng mãnh, vừa phòng ngự tốt vừa tấn công, có kẻ nào có thể dễ dàng đánh bại được đây chứ? Tình thế thực quá nghiêm trọng, vẻ mặt của Tiêu thái hậu cũng biến sắc nghiêm trọng, ngay đến cả Lao nhi suốt ngày chỉ ham chơi bên cạnh nàng cũng nhận ra vẻ mặt bất an của mẫu thân mình, tiểu hoàng đế rất thông minh cứ nắm lấy tay mẫu thân. "Được, cứ làm như vậy đi, đồng thời hãy truyền lệnh ta cấp cho Ngũ Cáo Phi tám vạn quân bộ và kỵ binh Hán, nhanh chóng đi cứu viện Da Luật Hưu Ca". Tiêu Xước nhẹ giơ tay chỉ vào tấm bản đồ rồi nói: "Những vùng đã chiếm lĩnh được từ tay quân Tống có thể vứt bỏ, nhưng lãnh thổ Liêu Quốc phải giữ cho kỳ được, một tấc đất cũng không được bỏ. Tây lộ hãy lấy Nhạn Môn quan làm ranh giới, nam lộ lấy Ngõa Kiều Quan của Hùng Châu, Ích Tân quan của Phách Châu, Kỳ Câu quan của Trác Châu ba cửa ải này làm ranh giới, quyết không cho quân Tống bước đến nửa bước!". "Tuân chỉ!". Hạ thần bên dưới vội vàng y lệnh phụng chỉ mà đi. Ngũ Cáo Phi cũng là một mãnh tướng của nước Liêu, thời vua Thế Tông từng là võ trạng nguyên của Đại Liêu, dưới trướng hắn đều là binh mã nhà Hán, binh bộ có tới năm vạn, kỵ binh ba vạn quân. Nếu luận về chiến lực lại rất dũng mãnh thiện chiến, không hề thua kém cấm vệ quân trong cung hay quân tộc trướng nhà Liêu. Người Hán ở phía bắc đã sớm hòa nhập vào cuộc sống chung với người Liêu, sống lâu đần thành quen. Người Hán ở vùng U Vân cũng nhanh nhẹn dũng cảm như các dũng sĩ tộc Khiết Đan, đám binh mã dưới tay Ngũ Cáo Phi này trước đây vốn đóng quân ở Tham Thánh Châu, là nơi từng xảy ra đại chiến Trác Lộc giữa hai hoàng đế Viêm Hoàng, giờ là vùng Hà Đông, thị khẩu của Trương gia, thuộc địa phận thượng lưu sông Vĩnh Định. Khi quân Liêu thi hành một nước hai thiết chế, quân Khiết Đan duy trì thiết chế vi dân, chiêu binh thời chiến như lệ thường, quân Liêu ngược lại thiết lập quân thường trực, đám quân người Hán này vì thế mà được rèn thiết quân chặt chẽ. Trong lần bắc phạt trước của Triệu Quang Nghĩa, khi tiến hành chiến đoạt U Châu, vì thế tiến công quá ư lợi hại, quân binh nhà Liêu phái đến đều là đội kỵ binh nghiêm chỉnh quân kỳ, được giáo luyện đầy đủ. Nhưng lần đó, Hán quân của Ngũ Cáo Phi được cử đi cứu viện là lần thứ ba, chưa kịp đến nơi thì Da Luật Hưu Ca đã đánh thắng trận, đánh đuổi quân Tống sợ phải rút khỏi Tam quan. Vậy nên đám binh mã đến sau này đành phải lưu lại U Châu, một là làm quân hộ tống bảo vệ cho thái hậu và hoàng đế, hai là một khi Tam Quan bị công phá, cần có đội bộ binh của quân Hán này trấn thủ vùng địa phương, thiết lập Chính Tạp Phủ. Quân binh của họ không chỉ có đội bộ binh là cánh quân tiên phong, mà tất cả đều là người Hán, có thể dễ dàng móc nối với người Hán quanh những vùng bị chiếm lĩnh. Ví như tình hình nguy hiểm như bây giờ, cũng có thể dễ dàng điều phái đám binh mã này lên phía tiền trận. Trầm ngâm trong chốc lát, Tiêu Xước lại hạ chỉ, nghiêm ý trách tội Da Luật Hưu Ca dám kiêu ngạo khinh xuất, làm cho địch có cơ hội áp chế lại đại quân, dễ dàng lật thế thắng bại. Sau đó nàng lại tiếp lời an ủi vài câu, lệnh cho hắn dốc sức chuyển đổi thế trận, ít nhất cũng phải giữ cho kỳ được thế giằng co ở Tam Quan. Sau khi dặn dò hạ thần truyền chỉ, Tiêu Xước lại chậm rãi ngồi xuống phía cẩm đôn, tay ôm lấy tấm ống tay sưởi, hai tay nàng khoanh vào trong ống, nhưng lúc này đôi tay ấy vẫn cứ lạnh ngắt dù đã ủ trong ống. "Dương Hạo hắn... Giờ đã trở thành thiên tử nước Tống, ta tránh được hắn càng xa càng tốt". Tiêu Xước thở dài một tiếng, nét mày nhạt hiện trên mặt nàng, khuôn mặt có chút yếu ớt, mệt mỏi nhưng đôi mắt vẫn không ngừng đảo. Tâm tình nhi nữ trong chốc lát đều bị nàng khống chế hoàn toàn, lúc này chỉ hiện lên vẻ căm giận, lạnh lùng quyết đoán đến mức buốt giá. Từ góc độ nào đó có thể thấy nàng giống hệt với A Cổ Lệ, những nữ nhân sống trên vùng thảo nguyên cũng ngoan cường, cứng cỏi như lạc đà suốt đời vượt qua gió cát sa mạc. Ái tình tương thủy, khi ái tình tới, họ sẽ vứt bỏ tất cả để đi đến với tình yêu, không cần nghĩ đến đối phương có tiếp nhận tình cảm của mình hay không, cũng không nghĩ đến kết quả sẽ ra sao. Còn khi thứ tình yêu "thủy" đó rời khỏi họ, họ sẽ đóng chặt mình lại, cô độc hứng chịu mọi gió cát bão cát sa mạc, kiên cường tiếp tục sống, nếu vui sướng thì cười sảng khoái, khóc hết mình, yêu cũng hết mình giống như mặt nước mùa xuân, khi lại ngậm đắng cay quyết liệt lạnh lùng như băng tuyết mùa đông. Trong dòng máu của họ cũng giống như các nam nhi trên thảo nguyên, dũng cảm cương nghị, yêu ghét phân minh. Quân binh lộ tây của Đại Liêu đang tiến quân tới Nhạn Môn, lúc này họ vẫn chưa biết tin nam tuyến đã thảm bại, tín sứ thành nam đang hộc tốc thúc ngựa như điên như dại đuổi theo quân lộ tây, muốn nhanh chóng báo tin này đến cho họ: "Tống, Hạ đã hợp nhất". Quân lộ tây nước Liêu đã sử dụng binh mã của Điệp Lạt lục viện bộ, cùng với một bộ phận tộc quân, quân Hán, quân Kinh Châu và quân nước Thục. Điệp Lạt lục viện bộ là đội binh mã tinh nhuệ nhất tây tuyến của nước Liêu, thiết chế binh dịch vẫn là dân binh hợp nhất truyền thống, nam đinh của cả bộ tộc đều được nạp vào làm dự binh và binh dịch, có trang bị đầy đủ khí giáp, chiến ngựa cho đến cung tiễn, phủ việt, hỏa thạch đao, kỵ cương. Còn những lộ binh mã khác chỉ có quân Hán là được lĩnh lương thảo, cho nên số lượng quân binh cũng không nhiều. Nhiều nhất là quân binh Kinh Châu, đa số đều là đinh tráng chuyển hộ của Phiền Hán. Riêng bảy huyện có mười bảy đội quân, các phủ, châu, thành của vùng tây Kinh nước Liêu tính ra, tổng số quân binh của Kinh Châu cũng tới hơn hai mươi vạn. Đương nhiên, lượng lớn binh mã như vậy, lương thảo thực cũng không cung cấp đủ. Nhưng quân Liêu có thể nhanh chóng gom được ra một đội quân như thế có thể coi là cực tinh nhuệ rồi, quân Kinh Châu tạm thời chỉ có tám vạn quân xuất binh. Tiết độ sứ Chương Quốc Quân, phò mã trị trung Tiêu Đốt Lý cùng với Lý Trọng Hối đô chỉ huy sứ Mã Bộ quân đều giữ trọng trách quân tiên phong lộ tây cho Đại Liêu, chỉ huy mười vạn đại quân, nhanh chóng tiến công Nhạn Môn quan. Họ muốn chớp lấy thời cơ, nhanh chóng tiến đánh, vì hành động nhanh nhẹn nên tín sứ của Da Luật Hưu Ca không thể đuổi kịp. Giờ Tiêu Đốt Lý và Lý Trọng Hối đã thống lĩnh mười vạn đại quân đằng đằng sát khí tiến đến Nhạn Môn quan. Tuy nhiên quân Tống ở Nhạn Môn quan đã được tăng cường binh mã, lại được bổ xung lượng lớn thiết kỵ Tây Hạ, do đích thân Tào Bân tiếp quản phòng ngự. Qua thám báo biết được động tĩnh của quân Liêu, Tào Bân lập tức định kế chiến đấu: Chủ động xuất quân tiến đánh, chặn địch ngay từ phía ngoài biên ải. Trước đây, khi đối mặt với cường địch, quân Tống rất ít khi sử dụng chiến lược này. Người phương bắc giỏi kỵ chiến, người phương nam lại giỏi việc trấn ngự thành trì. Đây cũng là điều đương nhiên, sở trường của hai bên cũng được hình thành do chính hoàn cảnh vị trí của họ. Cũng giống như binh mã vùng Giang Nam giỏi chiến thủy, nếu bắt họ cưỡi ngựa, đánh bộ binh quả thực là khó khăn. Dù có được luyện tập, cũng không thể hữu dụng, vì khó có binh đội nào chốc lát vừa cưỡi ngựa lại chốc lát đổi sang bơi thuyền? Ngươi giỏi cưỡi ngựa bắn cung, vậy đó là bản lĩnh của ngươi. Ta giỏi phòng ngự thành trì là bản lĩnh của ta. Nếu đến địa bàn của ta, ngươi sẽ khó mà thể hiện tài sức được! Chắc chắn phải dựa theo quy luật của ta, người Hán tinh thông vệc phòng ngự. Đây vốn là phương cách chiến đấu rất thành công của cả xã hội nông canh xuyên suốt từ hơn trăm ngàn năm nay, chứ không coi việc vứt bỏ thế mạnh của mình mà đi bắt chước địch hay liều lĩnh chạy tới biên ải liều mạng với địch mới là dũng cảm. Phòng ngự cũng dũng cảm phi thường hơn nhiều, điều này không có gì là hổ thẹn cả. Quân Liêu cũng quen với cách đánh này của quân Tống, quân lộ tây đã được chuẩn bị đầy đủ hơn hẳn quân lộ nam, lại mang theo vô số binh khí công thành mới đến đây. Uy phong bát diện mà hướng đến đánh phá Nhạn Môn quan. Lúc này, quân trễn giữ Nhạn Môn quan lại đột ngột xuất thành, bỏ lại hiểm quan phía sau mà phục đánh quyết chiến với đối phương. La Khắc Địch thống lĩnh bộ binh chủ lực của quân Tống, bày trận đón chờ địch ở cửa Bắc Nhạn Môn, Trương Sùng Nguy chỉ huy đội kỵ binh tinh nhuệ vòng qua đường khác bao vây chặn đánh từ phía sau địch, sử dụng lối đánh giống như Phan Mỹ dùng ở Nam tuyến, vẫn là chiến lệ lấy binh bộ và kỵ binh hỗn hợp để khắc chế kỵ binh của đối phương. Tiêu Đốt Lý và Lý Trọng Hối đem quân đến Nhạn Môn quan, lập tức chạm trán ngay đại quân của quân Tống, cũng cảm thấy có chút kỳ lạ, nhưng họ vẫn đang hừng hực khí thế chiến đấu, đám quân đông đảo của quân Liêu còn đang khinh thường quân đối phương, không coi chúng ra gì trong mắt mình. Lúc này, lệnh khởi chiến được xuất ra, đại quân của La Khắc Địch mãnh liệt xông lên, hai bên dao thương xung khắc, chém giết lẫn lộn. Sau một hồi lâu, cục diện quân trận hỗn độn, kỵ binh quân Liêu hỗn chiến với bộ binh của quân Tống, bị mất đi khoảng không để lấy điểm cơ động, mất đi ưu thế, lúc này Trương Sùng Nguy mới giương cờ lộ binh, đột nhiên lao tới tấn công từ cánh bên và phía sau địch, quân Tống ở tiền trận lại càng được khích lệ, hung hăng đánh trả, toàn quân hợp lực phản kích. Quân Liêu bị quân Tống bao vây hai bên tả hữu mà xế nhỏ quân, cắt đoạn thành từng đám nhỏ, sau đó dùng bộ binh chủ lực tấn công diệt sạch, nuốt ngọn từng đám quân Liêu đã được chia cắt. Kết quả thắng bại đã được định đoạt ngay từ khi hai cánh quân Tống đột ngột xông tới công kích. Binh trận của bộ binh địch đang triển khai lượng lớn trước mặt quân Liêu, hai bên Tả Hữu lại bị vây cắt bởi đội kỵ binh tinh nhuệ, tình cảnh lúc này của quân Liêu thực giống như một mẫu mạch điền bị cắt phá. Trương Sùng Nguy phía xa thấy chỗ quân Liêu giương kỳ hiệu, biết ngay đây chắc chắn là chỗ của chủ soái. Hắn lập tức thống lĩnh quân đột phá lên trước, tiến thẳng về phía đại kỳ. Quân Liêu lại đang rơi vào thể hỗn loạn, nên không có binh tốt nào chú ý đến việc chặn đường tiến sâu của địch, kết quả bị hắn đánh thẳng vào tận trong lòng quân. Lúc thâm nhập vào Tống doanh vượt qua hai mươi vạn quân để truy sát Triệu Quang Nghĩa, Trương Sùng Nguy đã may mắn hơn Da Luật Hưu Ca. Lúc đó một là vào buổi đêm, đột nhiên có quân xâm nhập khiến cho quân Tống hoảng loạn, hai là Triệu Quang Nghĩa đã sớm chạy trốn cùng với đám nội thị cận vệ. Còn Da Luật Hưu Ca, khi xông đến Tống doanh, chỉ còn thấy trên hoàng kỳ che ô phủ lụa kín, bên trong trống trơn không có ai. Lúc này, chủ tướng nước Liêu là Tiêu Đốt Lý lại không thể chạy đi được, hắn mà đi thì mười vạn quân này làm thế nào? Trương Sùng Nguy xông vào Liêu doanh, giao chiến lại vừa đủ binh lực, chỉ một đao mà dễ dàng trảm được đầu của tiết độ sứ Chương Quốc Quân, phò mã thị trung Tiêu Đốt Lý, lúc này hắn còn chẳng biết họ là quan tướng gì. Nếu lúc sau không bắt được mấy tên binh tốt của địch để tra hỏi thì hắn vẫn chưa biết được thân thế mấy kẻ này. Thực tế là trong quan sử người Hán, họ thích lập công được tán dương, người Liêu lại quá trọng trí khí, đối với những trận chiến thất bại, chỉ đơn giản ghi chép vài điều, tuyệt đối không ghi chép lại tên tuổi những kẻ bại tướng quyền cao đã bỏ mạng hay bị làm tù binh vào sử sách.