Sau khi dừng tại Chamelle Plaza một lát, và lần thứ hai Katya lỡ cơ hội gặp mặt người bạn của Sabria, họ lại vào xe và phóng thẳng ra làn đường tốc độ cao trên đường cao tốc. Nayir chăm chú quan sát những mối nguy hiểm trên đường - những tay tài xế chen ngang mà không hề xi-nhan, những cậu thanh niên buồn chán cố trình diễn bất cứ pha nguy hiểm nào họ nghĩ ra, đu người trên cánh cửa xe, lê chân trên mặt đường nhựa. Tệ nhất, theo suy nghĩ của Katya, là việc ô-tô của những cậu thanh niên kia áp sát bên xe của người ta đến mức làm gãy gương chiếu hậu nếu không phản ứng nhanh. Bọn họ chỉ làm vậy khi có phụ nữ ngồi trong xe, cửa sổ để mở, và có vẻ như có cơ hội để ném vào một mẩu giấy có ghi những gia vị thiết yếu đối với viễn tưởng của một người đàn ông: số điện thoại di động để người phụ nữ đó gọi cho anh ta, nếu cô ta có thấy anh ta hấp dẫn từ ngực trở lên ở vận tốc 120 km trên giờ. Katya từng nhận được những cục giấy như thế, nên khi ở trong xe của Nayir cô đóng cửa sổ lại. Nayir, người không tin vào việc sử dụng điều hòa nhiệt độ, có lẽ vì vài lý do về sự thuần khiết theo quan điểm của người Bedouin, cũng phải mở điều hòa khi cô ngồi trong xe, và đến mức gần như lạnh cóng. Tháng trước cô đã đi chung xe với anh hai lần và cả hai lần đó cô đều phải đề nghị anh tắt điều hòa đi. Cô hình dung hai đầu ngực của mình lộ rõ dưới lớp vải mỏng manh của chiếc áo sơ-mi và tấm áo trùm - một nỗi khiếp sợ, không biết anh có nhận thấy hay không nữa. Nayir đã rất kiềm chế việc nhìn cô chăm chăm, nhưng điều đó không có nghĩa là anh không thấy gì. Việc ở một mình cùng anh ngày càng không dễ dàng. Đáng lẽ cả hai đang phải háo hức bàn luận về kế hoạch đám cưới, nhưng họ đã đồng ý với nhau từng chi tiết cụ thể rồi. Giờ thì sự im lặng trong xe càng nặng nề bởi những lo âu và những cái nhìn lúng túng. Suy nghĩ của Katya đang giằng xé cô. Cô phải làm việc mười đến mười hai tiếng một ngày, thậm chí cả những ngày cuối tuần, hầu như không có thời gian để đi chợ, nấu ăn, hay giặt giũ. Tất cả những công việc đó bố cô đều không nề hà đảm nhận hết, cũng như ông không hề thấy sự nam tính của mình bị xúc phạm. Nhà cô trở thành một đống lộn xộn. Ayman chỉ rửa bát mỗi tháng một lần, nếu bị ép buộc, nhưng hầu như cậu luôn khôn ranh tránh mặt bố Katya, người duy nhất có thể buộc cậu phải làm việc. Thời gian rảnh của cô hầu hết đều tập trung vào việc tìm kiếm Sabria, xử lý các bằng chứng thu thập được ở căn hộ của cô ấy, và gây xáo trộn để che giấu những bằng chứng có thể liên quan đến Ibrahim. Cô vẫn phải lo cả việc theo dõi người bạn của Sabria tại Chamelle nữa. Và mặc dù cô thấy hài lòng khi tham gia điều tra vụ Thiên sứ bởi sự thoải mái trong không gian làm việc riêng trong phòng họp, cô không hề được miễn giảm trách nhiệm tại phòng thí nghiệm. Cô vẫn phải phụ trách việc điều phối công việc cho bốn kỹ thuật viên nữ, những người, nói một cách dễ thấy nhất, vẫn còn kém cỏi và thiếu động lực với một công việc chẳng hứa hẹn sự phát triển nào. Trong khi những tạp âm chói tai của những suy nghĩ này đạt đến đỉnh cao, Katya nghe thấy những khúc nhạc cô độc của sự ngờ vực rền rĩ từ xa xôi: cô không phù hợp để làm vợ và làm mẹ. Cô và Nayir đã bàn bạc về việc họ sẽ sống cùng bố cô cho đến khi tìm được một căn hộ thích hợp riêng. Chiếc thuyền của anh quá nhỏ đối với cuộc sống của hai người. Như vậy là cuộc hôn nhân đã thực sự đặt thêm gánh nặng của một người nữa lên cuộc sống gia đình vốn đã mệt mỏi của cô. Thậm chí đến khi nào công việc ở cơ quan bớt bận bịu, thì cô vẫn phải làm việc theo ca chín tiếng hằng ngày. Có lẽ cô sẽ được ngủ ít hơn. Rồi thậm chí là mang thai nữa. Cô không cho rằng điều đó sẽ làm hỏng sự nghiệp của cô, nhưng đôi khi suy nghĩ đó vẫn khiến cô hốt hoảng. Một loạt hiệu áo cưới đã cho cô cơ hội tiếp xúc với những cô dâu trẻ - vẻ xinh xắn, duyên dáng, hiền thục, càng được tôn lên đẹp hơn bởi sự pha trộn giữa nỗi sợ hãi và niềm hứng khởi trên gương mặt họ. Họ thốt lên lời hứa rằng sẽ làm bất cứ điều gì vì đức lang quân. Họ không có công ăn việc làm. Họ vừa học xong phổ thông. Họ là những đứa trẻ sẵn sàng lao mình vào một cuộc sống mà ở đó nhu cầu của chồng là trên hết và không còn điều gì khác quan trọng cả. So sánh như vậy, Katya cảm thấy mình giống như một ngoại lệ, giống những phụ nữ cô đọc được qua một bài báo vào dịp nào đấy ca ngợi sự nỗ lực vì tính độc lập của phụ nữ Ả Rập Xê-Út, bằng cách nêu gương nữ doanh nhân hay nhà từ thiện thành đạt. Hãy nhìn vào những mẫu người hiếm có đó, những người có đủ nghị lực để kết hôn, có sáu đứa con, và có cả sự nghiệp trọn vẹn nữa. Cô hay nghĩ rằng địa vị ngoại lệ đó của mình sẽ được đàn ông có tư tưởng tự do tán thưởng - có vẻ cũng có một số người như vậy - nhưng với người đàn ông truyền thông như Nayir, điều đó chắc chắn là không phù hợp. Và chỉ là vấn đề thời gian trước khi anh phát hiện ra mà thôi. Cô thừa nhận với chính mình, mới đêm hôm trước thôi, rằng cô có thể đã sai lầm khi nhận lời cầu hôn này. Một sự thừa nhận đau đớn. ít nhất cô vẫn còn cơ hội ngăn nó lại trước khi chuyện này đi xa hơn. Nhưng trong số những điều tồi tệ mà cô hình dung mình có thể gây ra, thì việc khiến Nayir thất vọng là điều tồi tệ nhất. Vấn đề hiện giờ là chọn lựa điều thất vọng nào sẽ khiến anh ít bị tổn thương nhất. Đêm hôm qua, cô đã ngồi bên điện thoại và cân nhắc về những việc mình lựa chọn. Chấm dứt vào lúc này đồng nghĩa với một vết thương bởi phát súng bội ước với anh. Không chấm dứt vào lúc này sẽ khiến anh từ từ bị rỉ máu trong những năm sắp tới, và tự thấy mình tù túng, kiệt sức, những giấc mơ tuột khỏi tầm tay qua những kẽ nứt của một cuộc sống bị đổ vỡ. Rốt cuộc, cô gọi cho anh đề nghị chở cô đi. Giờ thì họ đã đến nhà Hussain Sa’ud, người có tên được đóng dấu trên mặt sau của tấm ảnh chụp bàn tay bị chặt đứt đó. Họ bước ra khỏi xe và đối diện với một ngôi nhà xấu xí. Nó bắt chước lối kiến trúc của một tòa lâu đài Bravia, có cửa sổ thụt vào sâu bên trong, có những tháp nhỏ bằng gạch, và cửa chính trông như thể một chiếc cầu kéo của pháo đài. Bản thân ngôi nhà lại quá nhỏ bé so với sự vĩ đại của một tòa lâu đài. Toàn bộ được sơn màu trắng sáng lóa, tương phản với ánh sáng của mái ngói xanh dương. Nó gợi cho Katya nhớ đến ngôi nhà lâu đài Disneyland xấu xí nổi tiếng trên phố Iskandareya. Nayir gõ cửa. Vài phút sau, một cô bé chừng sáu tuổi ra mở. Katya tự giới thiệu và đề nghị được gặp Hussain, rồi cô bé vừa chạy ào vào trong ngôi nhà tối tăm vừa lớn tiếng gọi ông mình. Hai cậu bé thò đầu khỏi căn phòng có tiếng ti-vi ì xèo, tiếng chói tai của trò chơi điện tử. Một người phụ nữ vừa bước vội dọc theo hành lang vừa trùm chiếc khăn qua đầu. Bọn họ đứng đợi trong khi không khí mát rượi lồng lộng thổi qua lối cửa vào. Có cảm giác như cả thế kỷ đã trôi qua trước khi Hussain xuất hiện ở ngưỡng cửa. Ông cao lớn, trông đã già nhưng khỏe mạnh, khuôn mặt tuy mỏng nhưng vẫn nguyên nét điển trai. Ông lớn tiếng gọi ai đó trong vườn châm thêm trà cho mình rồi hướng sự chú ý đến Nayir và Katya. Khi ông bước ra chỗ sáng, Katya thấy mắt ông màu xanh lục “Tôi có thể giúp gì cho anh chị?” Ông hỏi. Lên tiếng trước Nayir, Katya giới thiệu về mình. “Cháu mong được nói chuyện với ông về một bức ảnh.” “Một bức ảnh sao?” Ông hỏi. Katya lấy bức ảnh từ trong túi đeo vai và đưa cho Hussain. Ông nhận lấy nó rồi mỉm cười. “À vâng. Đây là bức ảnh thuộc một trong những vụ án còn bỏ ngỏ của tôi.” Ông lật bức ảnh lại và nhận ra con dấu ở góc ảnh. Ông mỉm cười với vẻ nuối tiếc. “Tôi từng đóng dấu lên tất cả mọi thứ.” Ông nói. “Đó là thời kỳ trước khi người ta sợ hãi khi tiết lộ địa chỉ. Thời ấy thành phố này vẫn còn an toàn lắm.” “Ông nói đó là một trong những vụ án của mình ạ.” Katya lên tiếng. “Vậy ông là một điều tra viên sao?” Trông ông có vẻ ngạc nhiên. “Đúng vậy, tôi từng là một điều tra viên. Đây là vụ án của tôi. Cô lấy nó ở đâu vậy?” “Từ ngài chánh thanh tra của Phân khu Trung tâm. Trong hồ sơ đó nói điều tra viên phụ trách vụ án là Thám tử Yasser Mutazz cơ ạ.” “Ồ, Yasser Mutazz chỉ là một miếng ghép nhỏ của trò chơi ghép hình mà thôi.” Sa’ud mỉm cười nói. “Vào đi, vào đi. Chúng tôi sẽ mời anh chị chút trà.” * * * Vị đại tá nghỉ hưu Sa’ud đưa họ đi qua một loạt những căn phòng mỗi lúc lại càng lộn xộn khi hướng ra khu vườn phía sau ngôi nhà. Dưới bóng mát của một giàn nho, trên hiên nhà bê-tông ngổn ngang nệm ngồi tinh xảo và trường kỷ nhỏ nhắn như một phòng khách. Không khí mát lạnh. Ba đường ống lớn được dẫn ra từ ngôi nhà và chạy phía trên giàn nho, thổi không khí mát lạnh xuống không gian bên dưới. Hệ thống điều hòa không khí ngoài trời. Mùi shisha (1) đã bén thoang thoảng quanh họ. Cả hai được mời ngồi. Hussain từ từ khom mình xuống và ngồi lại vào chỗ cũ, với một loạt nệm trông như thể đã thường trực để tạo ra vị trí ưa thích của ông: phía bên trái vừa trong tầm tay là bộ ấm trà, ống hút thuốc, và một cuốn sách bọc da đặt úp. (1) Một thiết bị thường làm bằng thủy tinh dùng để hút thuốc lá, trong đó khói được lọc và làm lạnh bằng cách đi qua nước. Katya ngồi trên một chiếc nệm cạnh Nayir và tự hỏi bao lâu nữa thì Sa’ud sẽ nhận ra cô không phải người có tầm thế gì trong Sở cả, còn Nayir thì không phải là cảnh sát, và Sa’ud chẳng cần phải nói gì với họ hết. Tuy nhiên, ngay cả trước khi trà được mang đến, Sa’ud đã nói rõ rằng ông coi họ như những thính giả được chào đón. “Anh chị chắc không biết tôi từng hoạt động ở Đội Trọng án suốt mười lăm năm nhỉ.” Ông ta đăm chiêu nói. “Giờ tôi đã bảy mươi lăm tuổi rồi, nếu mẹ tôi nhớ đúng. Thời trước người ta không mấy khi làm giấy khai sinh. Tôi là người Mecca, nhưng công việc đã đưa đẩy tôi đến Jeddah này và tôi lúc nào cũng thích ở đây hơn, xin Allah tha thứ cho tôi.” Trà đã được mang đến cùng với một đĩa quả chà là được bày theo hình hoa. Sa’ud bắt đầu kể về cuộc đời mình, và họ nhận thấy khó lòng mà chen ngang được. Ông đặt họ vào một khoảng sân yên tĩnh một cách kỳ lạ, không có bất kỳ một bằng chứng nào cho thấy dấu hiệu của thế giới hiện đại trong tầm mắt, ngoài cảm giác về những chiếc ống dẫn khí phía trên đầu. Thật dễ dàng trở lại năm 1934 lúc cha ông mua người vợ đầu tiên của mình tại chợ nô lệ ở Mecca. Dễ dàng hình dung ra việc một nhóm cướp biển đã tấn công một ngôi làng nhỏ ở phía đông Ả Rập Xê-Út và mang về người con gái xinh đẹp nhất - Oubaya, mẹ của Sa’ud, người mới chỉ mười ba tuổi khi sinh ra ông. Ông kéo họ ngược trở lại quá khứ xa hơn nữa, khi ông bà của ông là những người Thổ Nhĩ Kỳ, cao lớn, tóc vàng (đôi mắt xanh lục của ông là sự biến đổi từ màu mắt xanh ngọc bích của họ), làm giàu bằng nghề vận chuyển các loại gia vị qua sa mạc nhờ các đoàn đi buôn. Thường thì Katya không đủ kiên nhẫn dành cho những cuộc chuyện trò lan man như một thủ tục cần thiết trước khi vào việc với người ngoài sáu mươi tuổi, nhưng cô thấy lạ khi cô đang chìm vào thế giới lịch sử diệu kỳ đó. Chính Nayir là người đưa họ trở lại thực tại. “Thời đại đã thay đổi rồi ạ.” Anh nói với vẻ nuối tiếc. “Nhưng tấm lòng mến khách của người ta thì vẫn còn.” “Đúng, nó không hề thay đổi.” Sa’ud khẽ cười. “Và cả sự tàn bạo cũng vậy. Nào những người bạn của ta, anh chị muốn hỏi gì về bức ảnh đó?” “Cháu đang băn khoăn liệu ông có thể tạm gác những câu chuyện đó lại được không.” Katya nói. “Cháu muốn được xem xét rộng hơn về con mương thoát nước đó, nơi ông tìm thấy bàn tay ấy.” “Ồ?” Sa’ud đặt tách trà của mình xuống. “Và lý do là gì?” “Cháu cho rằng có thứ gì đó được viết trên thành con mương đó.” “Sao kia?” “Một ký tự, được viết bằng máu.” Sa’ud im lặng một lát, nét mặt ông thật khó đoán biết. Katya cảm thấy day dứt sợ hãi, lo rằng cô đã xúc phạm đến ông. “Không.” Ông nói. “Nó không phải là một ký tự.” Đôi mắt xanh lục kỳ lạ của ông ánh lên đầy thích thú. “Đó chỉ là vệt sơn hoặc cái gì đó. Tôi đang tò mò điều gì đã khiến cô suy nghĩ về cái vết đó vậy?” “Chúng cháu đang có một vụ án khác.” Katya nói. “Trong vụ án này chúng cháu đã phát hiện một bàn tay bị chặt.” “Cô có tham gia vào vụ đó không?” “Có ạ.” Cô nói. “Dưới quyền của Thanh tra Ibrahim Zahrani.” Sa’ud dò xét cô một lúc lâu hơn và có vẻ quyết định đi đến kết luận. “Thôi được, tốt hơn hết tôi nên cho cô biết. Bàn tay bị chặt mà cô thấy là một phần của một vụ án lớn hơn. Như tôi đã nói đấy, nó là một vụ án còn dang dở của tôi. Tôi không vinh dự gì khi thừa nhận số vụ án mà tôi chưa thể giải quyết được, nhưng trong mười lăm năm ở Đội Trọng án, tôi cho rằng cần phải đón chờ điều đó. Tôi từng gọi vụ này là vụ Osiris.” “Osiris?” Nayir hỏi. “Vị thần Ai Cập ấy ạ?” “Đúng vậy. Nếu các anh chị còn nhớ, thì Osiris đã bị Set, thần sa mạc, chặt thành từng phần. Ông bị cắt thành mười bốn mảnh và rải khắp Ai Cập. Người tình tận tâm của ông, Isis, đã phải đi tìm, thu thập các mảnh đó rồi tái dựng cơ thể để chôn cất cho hợp thức. Chỉ có một phần bị mất.” Sa’ud mỉm cười kiểu cách, qua đó Katya suy ra sẽ là thiếu tế nhị nếu nhắc đến phần bị mất đó. “Vụ Osiris bắt đầu vào cuối năm 1988. Tôi đang chuẩn bị nghỉ hưu ở lực lượng cảnh sát. Tôi đã dành hầu hết thời gian đi tuần tra giao thông và thực hiện các công việc văn phòng. Tôi đã có một sự nghiệp tốt đẹp, nhưng không sẵn sàng từ bỏ hoàn toàn công việc vì không biết mình sẽ làm gì với chính mình nữa. Tôi cảm thấy tôi đã để lỡ điều gì đó, một cơ hội nào đó để thực hiện công việc một cách xuất sắc.” “Sếp của tôi đã gợi ý tôi tham gia vào một dự án phục vụ cộng đồng để giúp đỡ những nam thanh niên đang cố gắng tu tỉnh. Cảnh sát có chương trình đưa những thanh niên này đi đánh cá. Bọn họ là những tội phạm trẻ đã bị bỏ tù vì nhiều lý do, nhưng đều còn quá trẻ để từ bỏ việc làm lại cuộc đời. Phần lớn trong số đó là trẻ từ 13 đến 19 tuổi. Ý tưởng đặt ra là cho bọn trẻ việc gì đó có tính xây dựng để làm, để đưa chúng ra khỏi thành phố nhằm giúp chúng trân trọng thiên nhiên và tất cả chỉ là vậy. Chính vì thế mà một người bạn của tôi, tên là Jameel, và tôi cuối tuần nào cũng đưa chúng đi đánh cá.” “Chúng là một bọn hung hăng, tôi phải nói như vậy, nhưng nói chung chúng tôi không gặp vấn đề gì trên thuyền cả. Chúng thích đánh cá và lái thuyền. Đôi khi chúng tôi còn bơi với ống thở nữa. Tôi thực sự tin rằng điều đó là tốt chúng. Nó giúp chúng xa lánh những rắc rối và cho chúng nền tảng căn bản để làm người tốt.” “Thế rồi, một lần vào cuối tuần chúng tôi ra biển và dùng lưới đánh cá. Chúng tôi tự làm những tấm lưới đó, rồi quăng chúng ra xa và bắt được cả một đàn cá hàng chài. Chúng tôi kéo lưới và thả một nửa số cá trở lại biển vì không định ăn nhiều cá đến thế. Rồi chúng tôi lái thuyền đi một lúc và quăng lưới lần nữa, chỉ có điều lần này lưới bị mắc kẹt vào thứ gì đó. Chúng tôi đã mất rất nhiều thời gian để kéo nó lên, và khi kéo được, chúng tôi thấy một hộp gỗ rất lớn. Phần đáy lưới đã quấn xung quanh chiếc hộp đó. Chúng tôi kéo chiếc hộp lên boong. Nó nặng vô cùng. Thậm chí tấm lưới đã bị rách. Khi mở hộp ra, chúng tôi thấy một thứ rất kinh khủng. Một xác chết. Đó là xác một người nhỏ bé, có lẽ là phụ nữ, vì có tâm áo choàng nhét trong hộp. Người này đã bị cắt thành nhiều mảnh.” “Lẽ dĩ nhiên là chúng tôi khiếp hãi. Chúng tôi chạy thuyền thẳng vào bờ và ngay lập tức gọi cho cảnh sát. Thời đó chưa có điện thoại di động đâu. Chúng tôi đã phải đợi một thời gian trước khi nhân viên cảnh sát và đội pháp y đến. Chúng tôi đặt chiếc hộp dưới bóng râm của một nhà kho ngay bên bên thuyền. Đó là một nhà kho lớn, để mở, và tất cả đứng vây quanh, mệt mỏi và đều sốc. Chúng tôi đã phải đợi cảnh sát suốt hai giờ đồng hồ rồi.” “Trong lúc đó, một cậu trong đám con trai bị ốm. Cậu ta đã hơi ốm khi chúng tôi rời bên tàu sáng hôm đó, cộng thêm việc phơi nắng, cái nóng, và các hoạt động nên tình trạng càng tệ hơn, và cậu ta đã ngã gục. Tôi thấy cậu ta bị mất nước. Chúng tôi đưa cậu ta vào văn phòng của bến thuyền, ở đó người ta cho cậu ta uống nước và gọi xe cứu thương. Trong lúc đó, cảnh sát đến để điều tra chiếc hộp. Nhưng khi bọn họ vào trong nhà kho thì chiếc hộp đã biến mất.” “Có ai lấy cắp nó sao ạ?” Nayir hỏi. “Đúng thế, có vẻ là như vậy. Mặc dù chúng tôi chưa bao giờ biết được là vào thời điểm nào. Với một loạt sự cố xảy ra với cậu thanh niên kia, không một ai đã để ý đến chiếc hộp. Chúng tôi cho rằng đó chính là thời điểm nó biến mất. Vấn đề là ở chỗ chiếc hộp đó rất nặng. Có thể một người đã mang nó đi, nhưng hắn hẳn phải chở bằng ô-tô hoặc xe tải. Hai mươi con người đã sục sạo nhà kho đó suốt cả buổi tối còn lại và cả ngày hôm sau nữa, và chiếc hộp không hề ở đấy. Sự việc đó đã đặt ra các giả thuyết.” “Một vài ngày sau, cảnh sát đã chất vấn từng người trong số tám thanh niên có mặt trên chiếc thuyền. Mỗi người đều có hồ sơ tội phạm, lẽ dĩ nhiên là vậy, nhưng tất cả đều có chứng cớ ngoại phạm. Không ai mất tích cả. Không ai có thể tiếp cận với một phương tiện có thể dùng để đưa cái hộp đi. Chúng tôi cũng đã tính đến việc tìm kiếm dưới vùng nước của cầu cảng. Có lẽ ai đó đã ném cái hộp trở lại biển. Phải mất vài ngày mới có đủ trang thiết bị để thực hiện việc này, nhưng cái hộp cũng không ở dưới ấy. Cuối cùng cảnh sát đành bỏ rơi vụ đó.” “Nhưng ông đã tìm được một bàn tay.” Katya vừa nhắc vừa chỉ vào tấm ảnh. “Sáu tháng sau đấy.” Sa’ud nói. “Bàn tay này xuất hiện trong con mương thoát nước ở Kandara. Rồi một bàn tay khác lại xuất hiện cách đó không xa. Đó cũng là thời điểm Mutazz tham gia vào vụ án này. Lúc bấy giờ Mutazz không phải một chuyên gia, nhưng anh ta còn trẻ và háo hức, luôn cố tỏ ra cẩn trọng. Anh ta phát hiện ra tôi cũng có một vụ án tương tự, và anh ta đã liên lạc với tôi. Chúng tôi chắp nối những bộ phận của cơ thể đó, và tôi đã tiếp nhận điều tra ở Kandara từ tay Mutazz. Tôi đã giải thích câu chuyện cho anh ta. Kẻ lấy cắp những bộ phận cơ thể này có vẻ đã rải chúng khắp cả Jeddah. Chúng tôi tìm thấy chiếc chân phải ở al-Balad, một phần của thân dưới ở al-Aziziya, và còn nhiều nữa. Trong khoảng thời gian chỉ một vài tuần, chúng tôi đã tìm được các bộ phận khác ở những địa điểm khác nhau. Chúng tôi không thu lại được tất cả các bộ phận bị thất lạc. Thực tế là chúng tôi chỉ tìm được mười ba phần trong số mười chín phần trong chiếc hộp đó. Tại thời điểm ấy, ai nấy đều gọi vụ án này là vụ Osiris, bởi con số mười ba đó, cho dù tôi luôn nói rằng cái xác của Osiris không hoàn chỉnh, nhưng cái tên vẫn gắn liền với nó.” “Có chữ cái nào đi cùng một bộ phận nào đó không ạ?” Katya hỏi. “Không, nhưng có một thông điệp được viết lại vào phút chót. Nó được viết bằng mực gần chiếc chân trái. Nó là câu trích dẫn trong kinh Koran: chúng ta đã tạo ra mọi thứ theo trật tự.” “Ông có kiểm tra loại mực đó không?” “Có chứ, nó là loại mực tiêu chuẩn để viết chữ đẹp, loại có thể mua ở bất cứ cửa hàng văn phòng phẩm nào.” “Cảnh sát không đi đến giả thuyết nào hay sao ạ?” Katya hỏi. “Thực ra, tôi chắc là cô có thể nhận thấy mức độ phức tạp của toàn bộ tình hình. Một mặt, bọn họ truy tìm tên trộm, đã đánh cắp chiếc hộp chứa bộ phận cơ thể đó và có liên can trực tiếp đến việc điều tra vụ án mạng. Mặt khác, bọn họ phải truy tìm tên giết người. Bọn họ đã bắt được một tên trộm, hoặc chí ra là họ tin như vậy. Có mười bốn nam thanh niên trong nhóm đó, nhưng chỉ có tám người lên thuyền hôm ấy. Một sĩ quan cho rằng thủ phạm chắc chắn phải là một kẻ trong số họ, chủ yếu là vì không ai khác biết về chiếc hộp này. Tôi đã tranh cãi, nhưng không có hiệu quả, rằng không thể là ai trong số bọn họ được, bởi lẽ người đó không thể mang chiếc hộp đi mà không làm tôi, Jameel, hay những thanh niên còn lại chú ý được. Với lại nhà kho đó để mở, nên ai cũng có thể lẻn vào và nhìn thấy chiếc hộp rồi quyết định đánh cắp nó. Có thể tên trộm là một kẻ cơ hội hoàn toàn lạ mặt.” “Tuy nhiên, Đội trưởng Đội Trọng án lúc bấy giờ là Đại tá Ghamdi đã đi đến một giả thuyết duy nhất có cơ sở, đó là một kẻ trong số những thanh niên kia đã đẩy chiếc hộp rơi xuống vùng nước của bên cảng rồi hôm sau quay lại dùng lưới kéo nó lên và mang về nhà. Và quả thực, chính tấm lưới mà chúng tôi làm để phục vụ cho chuyến đi đánh cá ngày hôm sau đã biến mất.” Sa’ud ngả người ra sau và thở dài. Không khí mát rượi từ những chiếc ống dẫn phả lên khuôn mặt ông. Ông nhắm nghiền mắt lại. “Do vậy, dựa trên cơ sở đó, cảnh sát đã bắt giữ một người trong đám thanh niên đã ở trên thuyền cùng chúng tôi chiều hôm ấy. Tên cậu ta là Ali Dossari. Cảnh sát đã nói rằng bọn họ có bằng chứng chống lại cậu ta, nhưng tôi cho rằng điều đó là không đủ. Bọn họ tuyên bố đã tìm được một phần dấu vân tay trên đồng hồ của cái xác ấy. Bọn họ đã phát hiện ra nó trùng khớp với dấu vân tay của Dossari. Tuy nhiên tôi luôn cho rằng dấu vân tay này đã ở đó trước khi cái hộp bị đánh cắp, lúc chúng tôi mở chiếc hộp ấy trên thuyền Dossari ở ngay cạnh tôi khi chúng tôi mở nó.” “Tất cả những gì cảnh sát thực sự có chỉ là lời khai.” Ông ta nói tiếp. “Tôi nói điều đó không chắc chắn. Anh chị cũng hiểu chuyện là thế nào rồi. Dù sao thì bọn họ cũng truy tố cậu ta vì tội đánh cắp chiếc hộp và phân tán các bộ phận của cái xác khắp thành phố.” “Còn ông lại nghĩ cậu ta vô tội?” “Tôi không chắc là mình nghĩ gì nữa. Nhưng cuối cùng thì cậu ta đã được chứng minh là vô tội và được thả.” “Theo ông thì chuyện gì thực sự đã xảy ra?” Katya hỏi. “Tôi cho rằng một trong số những thanh niên tại bến tàu hôm đó đã có ý định gây rối và đã đánh cắp chiếc hộp. Tôi không biết đó là ai. Sự thật đáng buồn là chúng tôi sẽ không bao giờ biết sau đó chuyện gì xảy ra với cái hộp. Không bao giờ tìm lại nó được nữa. Có thể chính cậu thanh niên này đã phân tán các bộ phận đó, hoặc có thể là người khác. Quả thực, có thể là bất cứ ai. Dù sao điều đó cũng đã làm phá sản cuộc điều tra của chúng tôi.” “Ông có phát hiện ra nạn nhân là ai không ạ?” “Không. Chúng tôi bị mất chiếc đầu, cho nên không dựng lại khuôn mặt để tiếp tục điều tra được. Chúng tôi đã cố khớp dấu vân tay của nạn nhân với một số người mất tích tại thời điểm đó nhưng không thu hoạch được gì hết. Tôi hiểu đó là một vụ án khó phá, và với những chứng cứ sai lạc như vậy nó lại càng khó khăn hơn. Chính vụ án này đến giờ vẫn khiến tôi day đứt. Tôi thấy mình phải có trách nhiệm vì đã không bảo vệ được chứng cứ cũng. Nhưng tôi cũng cảm thấy thất vọng. Tôi đã nghiên cứu lại vụ án này rất nhiều lần và đều không phát hiện được gì cả. Điều tốt đẹp duy nhất mà tôi rút ra được từ đó là tôi thấy mình phải có trách nhiệm và vô cùng khó chịu bởi những việc làm của Đội Trọng án đến mức đã tự mình điều tra vụ này. Đó là toàn bộ nguyên nhân tại sao ngay từ đầu tôi tham gia vào Đội Trọng án. Tôi đã đành mười lăm năm làm việc phục vụ cộng đồng, và tôi hoàn toàn có thể nói rằng đó là quãng thời gian tuyệt vời nhất trong sự nghiệp của mình.” Katya lĩnh hội câu chuyện một cách nhẹ nhàng. “Ông đã đóng dấu lên tất cả những bức ảnh của mình ạ?” “Đúng vậy.” Sa’ud mỉm cười. “Ngày nay cô có thể cho rằng chuyện đó thật kỳ quặc, nhưng chúng tôi phải chịu trách nhiệm về công việc của mình - Tôi thích ghi tên và sắp xếp ngăn nắp mọi thứ.” “Ông có vô tình có được bức ảnh nào trong vụ Osiris không ạ?” Cô hỏi. “Vụ này giống với vụ chúng tôi đang điều tra hiện giờ.” “Có, đúng là tôi có các bức ảnh. Nhưng nếu cô đang cho rằng một trong những cậu thanh niên đó liên quan đến vụ án, thì cô đã chậm chân. Tôi đã đưa các bức ảnh đó cho một thám tử ở Trung tâm rồi.” “Ồ.” Katya nói. “Ai vậy ạ?” “Thanh tra Mutazz. Ông ta đã đến gặp tôi hơn một tuần trước.” Nhận thấy vẻ bất ngờ của Katya, ông nói thêm. “May thay tôi có giữ bộ ảnh rửa từ tất cả những bức ảnh và hồ sơ vụ án của tôi. Ông ta không cần hồ sơ - ông ta giữ bản sao hồ sơ của một số vụ bỏ ngỏ của ông ta. Nhưng ông ta muốn lấy ảnh. Chắc hẳn chúng không còn trong hồ sơ đó. Giúp tôi đứng lên nào.” Bọn họ giúp Sa’ud đứng dậy rồi đi theo ông vào trong nhà, qua gian bếp, ở đó có một phụ nữ trẻ cuống cuồng che mặt lại, rồi họ đi lên một dãy bậc thang dài để lên tầng hai. Katya vẫn còn đang choáng váng bởi thông tin Mutazz đã đến gặp Sa’ud và có vẻ ông ta không hề nói với Ibrahim. Chắc chắn ông ta đã được nghe điều gì đó từ ông già này, và nếu Ibrahim biết chuyện thì hẳn ông đã nói với cô. Chẳng lẽ lại không? Họ bước vào một căn phòng sạch sẽ và sáng sủa. Chiếc bàn làm việc và bộ ghế bằng kim loại, vài chiếc tủ có ngăn kéo đựng hồ sơ , và hai tấm bản đồ trên tường là tất cả đồ đạc trong phòng. Sa’ud mở một ngăn kéo ở tầm thấp của chiếc tủ và rút ra một tập hồ sơ dày. Trong đó là ảnh chụp tất cả các bộ phận của cái xác trong vụ Osiris. Ông đặt chúng lên bàn. Trong khi Katya xem xét, Sa’ud đến bên tấm bản đồ cài những chiếc đinh ghim lên những địa điểm mà mỗi một bộ phận được tìm thấy dựa trên một danh sách cũ mà Nayir đang đọc cho ông. “Mutazz có nói nhiều với ông về vụ án này không ạ?” Katya hỏi. “Không nhiều lắm.” Sa’ud nói. “Chỉ là bọn họ đã tìm được một bàn tay phụ nữ bị chặt trên phố Falasteen.” “Chúng cháu còn phát hiện một địa điểm chôn cất ngoài sa mạc có mười chín xác phụ nữ được sắp đặt tư thế theo các chữ cái mà ghép lại thành một điệp.”Katya kể và nói lại cho ông thông điệp đó. Ông tròn mắt không tin nói điều vừa nghe. “Các cô đã phát hiện ra mười chín cái xác ngoài sa mạc sao?” “Vâng. Và những phụ nữ đó đều bị mất tay.” “Thế còn cách sắp xếp tại địa điếm chôn cất thế nào?” “Bọn họ được chôn theo hình lục giác tương tự như cái hình kia ạ.” Cô chỉ tay vào tấm bản đồ. “Ngoại trừ việc các ông chỉ tìm được mười ba phần mà thôi.” “Tên khốn Mutazz.” Sa’ud nói. “Hắn không hề nói gì với tôi. Cô biết đấy, tôi nghĩ việc tôi đảm trách vụ án của hắn đã khiến hắn khó chịu, và hắn không bao giờ tha thứ cho tôi về việc đó. Thật là một con lừa già. Theo như tôi hiểu thì hắn cũng không phụ trách vụ án này phải không?” “Đó có phải điều ông ta nói không ạ?” Katya hỏi. “Đúng.” “Vâng, ông ta không phụ trách vụ án này. Và cháu dám chắc rằng ông ta không hề thông báo gì với người phụ trách vụ này về việc ông ta đến đây.” Sa’ud bật cười một cách khó nhọc. Ông đưa cho họ một bản sao hồ sơ vụ Osiris. Ông không muốn rời xa những bức ảnh cuối cùng của vụ Osiris trong khi ông đã đưa bộ dự phòng cho Mutazz mất rồi. Vì vậy ông đã sao chụp các bức ảnh cho cô. Chính trong hồ sơ vụ án đã có các phân tích về dấu vân tay từ hai bàn tay và các báo cáo về mười một bộ phận khác của cái xác đã được tìm thấy. Katya có cảm giác rằng tập hồ sơ cô đã xem ở văn phòng là một bản chụp từ bản gốc của Mutazz. “Cô sẽ thông báo cho tôi về tiến trình điều tra chứ, phải vậy không?” Ông hỏi. “Vâng ạ.” Katya đáp. “Cháu sẽ báo lại với ông. Nhưng cháu xin hỏi ông thêm một điều nữa. Những thanh niên ở trên thuyền ngày hôm đó, đã có ai...?” “Ồ, Mutazz nói ông ta sẽ đi hỏi chuyện bọn họ, nhưng tôi vẫn chưa nghe được tin tức gì từ ông ta hết” Khi trở lại xe, Katya lớn tiếng nói: “Em không thể tin là Mutazz không hề nói gì với Zahrani. Chuyện này có thể thực sự quan trọng đối với vụ án của bọn em và ông ta đang che giấu thông tin!” “Việc này thật đáng ngờ, em có nghĩ vậy không?” “Đúng vậy, rất đáng ngờ. Ý em không phải ông ta là tên sát nhân. Có vẻ ông ta chỉ muốn tự mình phá vụ án này?” “Em biết rõ ông ta phải không?” Câu hỏi được đặt ra một cách tự nhiên, nhưng cô hiểu đằng sau nó là một cái bẫy. “Em không hề biết ông ta chút nào - thực ra là em chưa từng nói chuyện với ông ta. Nhưng em nghe được nhiều chuyện từ những đồng nghiệp khác, và có vẻ ông ta là một trong những người đã bị từ chối thăng bậc nhiều lần hơn bất cứ ai, và ông ta cay cú về điều đó. Có lẽ ông ta cho rằng đây là cơ hội để phá một vụ án lớn bởi ông ta biết về vụ án trước đấy. Thậm chí có thể ông ta cho rằng mình có quyền làm như vậy.” Không khí im lặng. Nayir đang tập trung vào việc lái xe. Lần này, mối nguy hiểm là một gã đang lái xe gần sát bên phải họ và cố giữ chiếc xe ở vị trí để Katya thấy tấm áp-phích trên cửa sổ sau xe của hắn. Trên đó có số điện thoại được in cỡ lớn và dòng chữ Tên anh là Khaled, hãy gọi cho anh nếu em thích anh! Khi Khaled nháy mắt với cô trong gương chiiếu hậu, cô không thèm đếm xỉa đến gã. Nayir hú còi và gã kia lái xe đi mất. “Có thể Mutazz đã nói với Zahrani về những việc này rồi, và Zahrani chưa nói với em thì sao?” Nayir hỏi. “Em khá chắc rằng nếu biết Zahrani đã nói với em.” “Vậy em nói chuyện với ông ấy thường xuyên nhỉ.” Cô có thể nói được gì đây? Vâng, hai người bọn em đã gặp nhau trong phòng vệ sinh ở tầng ba, ở đó ông ấy đã kể với em về vụ ngoại tình của ông ấy? “Thanh tra Zahrani là người khuyến khích phụ nữ tham gia vào các đội điều tra.” Cô nói. “Và đó là một điều tốt. Anh nên nhớ chính em tìm ra mối quan hệ về tư thế của những cái xác đó.” “A.” “Nhờ con mắt chim ưng của anh.” Cô nói thêm. Anh gật đầu tỏ vẻ biết ơn về lời khen tặng. “Anh hiểu là em muốn làm nhiều hơn để phá án.” Anh nói. “Nhưng anh thấy phần lớn người tham gia phá án là nam giới.” “Đúng vậy.” “Và như vậy, để tham gia vào công việc đó, em sẽ phải tiếp xúc nhiều hơn với đàn ông.” “Đúng vậy.” “Không có đội điều tra trọng án nào chỉ toàn phụ nữ thôi sao?” “Không có. Chỉ có nam giới, với sự hỗ trợ của nữ giới thôi.” Anh trở nên im lặng. Cô nhìn anh một lần nữa, mong sẽ nhận ra chút yêu thương, một thứ gì đó làm dịu cảm giác lúc này giữa họ và nhắc nhở cô vì sao cô sẽ cưới anh, nhưng gương mặt anh tối sầm và khó chịu.