Giang Bắc, Hàn Sơn miếu cổ. Buổi sáng sớm, lão tăng bước lên gác chuông, cầm chày, gõ vang một trăm linh tám tiếng chuông. Hàng trăm hoà thượng cũng dậy theo tiếng chuông, bước vào chính điện, trong làn khói của hương và nến, trong sự trang nghiêm thành kính, tay cầm mõ, bắt đầu bài học buổi sáng của một ngày. Trên cái đệm tròn của người chủ trì trong phòng, có ba người đang ngồi ngay ngắn. Người đứng đầu là chủ trì của ngôi miếu cổ Hàn Sơn Huệ Giác đại sư, tuổi hơn sáu mươi, râu và tóc đều bạc trắng. Ông ta trong tiếng chuông buổi sáng, miệng niệm pháp hiệu, hai người hoà thượng đang ngồi đối diện than thở, niệm nhỏ: “Chung thanh vấn, phiền não khinh, trí tuệ trường, bồ đề sinh, li địa ngục, xuất hoả kháng, nguyện thành Phật, độ chúng sinh”. Vị hoà thượng trẻ hơn một chút tay cầm tràng hạt, hai mắt nhắm lại, nhập định như lão tăng, khí đạm thần nhàn nói: “Giết một người cứu trăm người, làm theo đạo Bồ Tát”. Vị hoà thượng già hơn một chút lại đầy sự tàn bạo hung hãn, trên đệm tròn vặn vặn người, đứng ngồi không yên, hết nhìn tượng Phật, rồi lại nhìn Bồ Tát, nói to: “Ta đây làm cái ác nhiều năm, sớm đã bị cho xuống mười tám tầng địa ngục rồi, cho dù có thế nào cũng không ném ta xuống mười chín tầng chứ hả?”. Huệ Giác đại sư thở dài nói: “Phúc lộc thiên định, Kỳ Vương tham lam vô độ, vọng cải thiên mệnh, hoạ hại sinh linh, vi thái quá. Các người lại không phải là người nhà Phật, nhưng lại là quốc sĩ, bây giờ đã hoà cùng với Phật tướng, mong muốn ra sa trường, tâm niệm thương sinh, tâm hồn từ bi, đừng làm lê dân trăm họ lưu lạc khổ cực”. Hoà thượng trẻ tuổi chắp hai tay lại, vái lần nữa: “Ơn cứu mạng của đại sư, Hồ Thanh xin ghi nhớ”. Hoà thượng nhiều tuổi cũng sờ sờ cái đầu trọc, sững lại một lúc, rồi lập tức quỳ xuống, to giọng nói: “Lão Hổ cũng tạ ơn đại sư!”. Huệ Giác đại sư nhìn nhìn trời, xua tay nói: “Đến giờ rồi, hai người đi đi”. Giang Bắc trù phú yên ổn, trăm họ an cư lạc nghiệp, đương kim Hoàng thượng lại anh minh hiền đức. Ông ta tuy là người xuất gia, cũng không muốn thấy Kỳ Vương vì ham muốn riêng mà mưu phản, gây ra chiến hoả thiên hạ, khi đội quân hỗn loạn bị lửa thiêu thường gõ cửa Phật. Sau khi ông ta và người đứng đầu trẻ tuổi nói chuyện cụ thể, liền không hề do dự thu nạp tướng sĩ Đại Tần, đồng thời bảo tăng nhân cả chùa mạo hiểm che giấu, giúp đỡ. Bây giờ, là lúc tiễn bọn họ trở về nơi cũ. “Ta không vào địa ngục, thì ai vào địa ngục”. Ông nhìn theo hai cái bóng xa dần, từ từ nhắm mắt lại, hình như thoát khỏi trần tục: “A Di Đà Phật”. Tiểu hoà thượng ra ngoài thành xin cơm tấp tểnh tới báo: “Hồ thí chủ! Thu thí chủ! Kỳ Vương có động tĩnh rồi! Ông ta phái đi một đội quân lên tới trăm người, đi về phía Đông rồi!”. “Phía Đông? Là nơi mà người Đông Hạ chiếm lĩnh phải không?”. Thu Lão Hổ hưng phấn hẳn lên: “Chắc cái tên già đó không nhịn được nữa rồi? Hồ ly chết tiệt! Ngươi mà không ra tay, thì ông đây không nhịn được nữa rồi! Ngươi nên tính toán kỹ, để ta đi chém người!”. Đôi mắt đầy sự nhiệt tình của ông ta làm cho tiểu hoà thượng sợ hãi lùi vài bước, lẩm bẩm niệm vài câu phật hiệu để trấn áp nỗi sợ hãi. Hồ Thanh lấy cành cây nhỏ vẽ vẽ trên đất, âm thầm suy nghĩ, không để ý đến ông ta. Thu Lão Hổ không thể nhịn được nữa, chỉ vào đầu mình, vô cùng đau khổ nói: “Cái bọn cẩu tặc Đông Hạ phóng hoả, nếu không phải người dặn mọi người lặn xuống dưới nước, chứ lao về nơi lửa dữ dội nhất, ta đây e là đến tính mạng cũng không còn. Hà hà, có ai ngờ là lao qua tường lửa chưa đến vài bước, những thứ có thể thiêu thì đã thiêu hết rồi. Nếu mà không có lửa, đáng tiếc là không kịp thông báo cho nhiều huynh đệ… Món nợ này, dù thế nào cũng phải tính sổ! Bây giờ Diệp tướng quân xuất núi rồi, đánh thắng trận, tin tức ở tuyến phong toả cũng không còn chặt chẽ nữa, chúng ta mau đi phối hợp với tướng quân! Dẹp hết bọn cẩu tặc Đông Hạ, ta còn đang sốt ruột gả con gái đây”. “Không, chúng ta không vội phối hợp với tướng quân”. Hồ Thanh vứt cành cây đi, từ từ đứng dậy: “Có tin nói Đông Hạ muốn đàm phán với Đại Tần, Kỳ Vương sợ là ngồi không vững, đoàn sứ giả này rất có khả năng đi bàn bạc vấn đề này”. Anh ta đứng khoanh tay lại, khoé miệng lại lộ ra một cái cười giống như con hồ ly vậy: “Cơ hội lớn, sao chúng ta lại không đi cho bọn chúng thêm chút rắc rối chứ?”. Trong đầu Thu Lão Hổ ghi nhớ lời nhắc nhở của Diệp tướng quân trước khi đi: “Mọi hành động đều phải nghe quân sư”, không cần suy nghĩ, gật đầu như cò mổ, hỏi: “Mạng của ta đây cũng do nghe ngươi mà giữ được, ngươi nói gì thì làm thế đấy, muốn gây rắc rối cho ai, thì chúng ta gây rắc rối cho người đó”. Hồ Thanh hỏi: “Thu tướng quân, một trăm người chúng ta đấu với một trăm người bọn chúng, ông dẫn đội, cắt đường có được không?”. Thu Lão Hổ đắc ý vỗ vỗ ngực: “Ta đây là tướng quân kỹ thuật kém một chút, nhưng là thổ phỉ thì cũng có tiếng! Việc nhỏ cướp đường, ha ha, đó là chuyên môn của ta rồi! Chỉ cần quân soái dặn dò, đảm bảo không sai sót một chút nào!”. Hồ Thanh cười hì hì: “Được thế thì tốt quá, tốt quá”. Thu Lão Hổ hậm hực nói: “Cái bọn khốn đó đốt hết tóc và lông mày của ta! Còn thêm một bộ râu nữa! Thù sâu hận lớn! Bọn chúng nhất định phải dùng đầu để trả lại!”. Hồ Thanh tiếp tục cười hì hì: “Ông không có râu trông thư sinh hơn một chút, nghe nói có những người phụ nữ đơn thân thích điều này đấy”. “Cút!”. Thu Lão Hổ bị làm cho khó chịu, ông ta lao vào trong chùa, lao vào trong đám ẩn mình dưới dạng hoà thượng. Hơn một trăm tướng sĩ ngày nào cũng ăn chay niệm Phật buồn chán đến nỗi ê ẩm cả mình liền giơ tay hò hét, bọn họ lập tức làm theo, thay đồ thổ phỉ, hào hứng khí thế, hoà nhịp đi theo tướng quân. Bên kia, Kỳ Vương nghe được việc đàm phán, đứng ngồi không yên. Tuy nói có liên quan đến lợi ích nhưng vẫn lo lắng cái đám sói Đông Hạ đó vì lợi ích mà trở tay bán đứng bản thân mình. Ông ta suy trước tính sau, liền quyết định phái thuộc hạ và quân lính, cầm thủ dụ và thư tín, tiến thẳng về phía doanh trại của Đông Hạ ở Giang Đông, thương lượng với Đông Hạ Vương. Không ngờ, trên con đường chật hẹp, cái thời khắc đoàn sứ giả không hề cảnh giác, thì một đội quân thổ phỉ rách rưới hung ác, từ trên trời rơi xuống, ai ai cũng cạo đầu, ai ai cũng hung hãn. Nhìn thấy đôi mắt rực lửa của họ, mang theo mối thù sâu hận lớn, ra tay hung bạo, thấy người giết người, thấy quỷ giết quỷ, giết đến nỗi bọn họ kêu khóc gọi bố gọi mẹ. Hồ Thanh ở phía sau chỉ huy thế trận, chia binh chặn hết các đường lùi, không để bất kỳ con đường thoát thân nào. Trận chiến ác liệt, giết hết hơn một canh giờ, trên đất xác người nằm la liệt ngang dọc, máu chảy thành sông, Thu Lão Hổ ngồi trên càng xe, vừa lục tìm ngân lượng vừa nhìn về Hồ Thanh đang từ từ chui ra từ chỗ nấp rồi nói: “Nhớ năm xưa, lúc ta làm thổ phỉ, thì cũng không tồi. Ô, cái chậu hồ điệp này không tồi, tiện mang về làm đồ hồi môn cho con gái ta”. “Mọi thứ để hết đấy, đây là đại lễ biếu cho Đông Hạ”. Hồ Thanh tìm người đứng đầu trong đống thi thể, đưa tay thăm dò tỉ mỉ trong áo đối phương, tìm ra một bức mật thư được dán bằng sáp, rồi cầm lên một chiếc kim bạc, thuần thục mở ra mà không để lại chút dấu vết nào, mở ra đọc rồi cười nói: “Ông ta quả nhiên đứng ngồi không yên, yêu cầu Đông Hạ không được dừng chiến, tiếp tục chiến đấu với quân Đại Tần”. Thu Lão Hổ ôm một đống vàng lớn, bối rối hỏi: “Tiếp theo thì sao?”. Hồ Thanh ôm lấy cằm, “cảm thấy tội lỗi” nói: “Kỳ Vương lo lắng như thế, chúng ta lại giết sứ đoàn đưa thư của ông ta, thật không tốt chút nào cả? Cũng phải có người giúp ông ta đưa thư chứ?”. Thu Lão Hổ vẫn không hiểu. Đối diện với người đơn thuần hoàn toàn không biết về dùng mưu kế, nói gì thì cũng đều là đàn gảy tai trâu. Hồ Thanh biết tri âm khó tìm, than thở một tiếng, đành phải biến ám chỉ thành rõ chỉ: “Để huynh đệ lột hết quần áo của người chết, thu lại bảng hiệu trên người, rồi mặc hết vào, lại giấu thi thể đi, chúng ta xuất xứ Đông Hạ, đi gặp Đông Hạ Vương”. Thu Lão Hổ vui mừng: “Hiểu rồi!”. Hồ Thanh sắp xếp mấy người lính lanh lợi mặc quần áo dân thường vào, chạy đến quân doanh Đại Tần đưa thư cho Diệp Chiêu. Còn mình dẫn theo Thu Lão Hổ và tướng sĩ, mặc lên quần áo của Kỳ Vương phủ, đeo bảng hiệu của phủ Kỳ Vương, bắt chước nét bút của Kỳ Vương, đểu giả thêm vào bức thư vài chữ, rồi dán kín lại, sau đó khí thế hừng hực, tiến về doanh trại Đông Hạ. Giang Bắc có tập tục về việc đội mũ. Đội quân sứ giả giả mạo đi được vài ngày, trên đường khi đi qua thành Lạc Dương, Hồ Thanh sai người đi vào mua một ít tóc giả và mũ, lại cẩn thận cải trang, tỉ mỉ dán vào gáy và tóc mai mọi người, đội mũ vào, còn những người võ tướng giả mạo binh sĩ của phủ Kỳ Vương lại đội mũ sắt, xem ra rất giống, không sai lệch một tí nào. Hồ Thanh tướng mạo bình thường, địa vị thấp kém, không có giao tiếp gì với Đông Hạ sứ đoàn, không phải lo lắng. Thu Lão Hổ xoa đầu, rất lo lắng: “Tên cẩu tặc Y Nặc từng gặp ta rồi”. “Đừng lo lắng, ông đứng ở đằng sau thủ vệ là được rồi, đợi chúng tôi kiểm tra xong quân tình rồi trở về gặp Tướng quân”. Hồ Thanh nhìn ông ta kỹ từ trên xuống dưới, vỗ vỗ vai ông ta, cười đểu nói: “Hô hô, chỉ dựa vào diện mạo của ông bây giờ, cho dù là Hoàng tử Y Nặc có bệnh đồng tính thì cũng không thèm nhìn ông đâu. Huống hồ cái khuôn mặt có bộ râu vừa đen vừa thô thì giờ không còn nữa, đến đôi lông mày xếch ngược cũng không còn nốt, thân hình thì ăn chay đói quá nên gầy bao nhiêu, bây giờ xem ra lại thật thà, chất phác, về nhà e là đến con gái còn không nhận ra nữa là”. Thu Lão Hổ nhớ lại bộ râu quý báu đã nuôi bao năm, thể hiện cho sự uy nghiêm, liền buồn rầu xót xa, làu bàu: “Hồ Ly chết tiệt, mình không mọc được sợi râu nào, trong lòng sinh ghen tị, đi đâu cũng nói người…”. Ông ta chửi vài câu, thấy biểu hiện nửa cười nửa không của Hồ Thanh, chợt nhớ đến dã tâm lấy con rể cho nhà mình, nhỡ thành, làm gì có chuyện cha vợ mắng con rể xấu chứ? Ông ta suy trước nghĩ sau, cuối cùng cũng khoát tay đi, nhưng mắt lại nhìn kỹ anh ta từ trên xuống dưới vài lần, do dự liệu có thể dựa vào tướng quân, tìm một cái ban hôn gì đó, rồi cùng tống hai đứa con gái đi. Hồ Thanh rùng mình vài cái, tiếp tục chuẩn bị cho lần này. Vì thế, quân doanh Đông Hạ, mọi người nhìn thấy một Hồ tiên sinh ngạo mạn khinh miệt đối với bọn man di, tác phong đầy tính danh sĩ rởm, tuy tài mạo tác phong song toàn, nhưng trong lời nói có sự ngứa tai không thể nói thành lời, biểu hiện ác độc làm cho mọi người hận không thể lập tức lôi ra đánh. Nhưng Hồ tiên sinh hầu như không nhìn thấy ánh mắt căm hận của cái đám man tử đó, cứ thoải mái trình bức thư viết bằng chữ Đại Tần và Đông Hạ lên. Trong điều kiện đàm phán do Đại Tần đưa ra có cả việc giao Kỳ Vương ra. Kỳ Vương biết được tin tức, hơi lo lắng, trong ý văn có chút bách thiết, bức thư trước được viết còn cho là khách khí thoả đáng, ở chỗ kết thư, ông ta còn dặn dò: “Số quân lương mà Đại Hãn đã uỷ thác do Tôn tiểu tướng quân giám sát vận chuyển, vì chuẩn bị không kịp, nên tạm đưa ra ba phần”. Giang Bắc trù phú, quân lương Đông Hạ đều do Kỳ Vương phủ thu thập, bây giờ lại dùng quân lương để uy hiếp dừng việc đàm phán lại. Đông Hạ Vương tức giận, vứt bức thư xuống dưới đất, hất tay nói: “Cái đồ chó chết, Kỳ Vương mắc bệnh thần kinh hả? Lương thực không đủ thì làm sao mà tấn công vào kinh thành được?!”. Đợt quân lương lần trước đưa tới không lâu, đợt quân lương sau phải hơn một tháng mới đưa tới được. Kỳ Vương vốn dĩ trong thư không đề cập đến chuyện này, Hồ Thanh cười hì hì: “Tuy là đồng minh, nhưng chiến sự lần trước liên tiếp thất bại, Đông Hạ chủ động đề xuất đàm phán, vương gia khó tránh lo lắng”. Đông Hạ Vương im lặng, lại không đành nói ra kế hoãn binh trước mặt mọi người, sắc mặt biến đổi vài lần, vô cùng khó coi. Liễu Tích Âm ở bên cạnh bưng rượu, vội vàng dựa sát vào Đông Hạ Vương, bóp bóp vai cho ông ta, cười nói: “Việc dấy binh có liên quan đến tính mạng cả nhà mình, Kỳ Vương cũng là e sợ, Đại Hãn chỉ cần viết thư, nói rõ với ông ta là được mà”. Hồ Thanh sớm đã biết Liễu Tích Âm rơi vào tay Đông Hạ, Diệp Chiêu lo lắng, lần đi này ngoài việc xúc giục chia rẽ và thăm dò quân tình ra, còn muốn tìm cơ hội để xem liệu có thể cứu cô ấy ra không. Vốn dĩ cho rằng Liễu Tích Âm là người thông minh, sẽ thừa cơ phối hợp diễn kịch cùng anh ta, không ngờ đối phương không những không giả vờ là người xa lạ, mà còn thỉnh thoảng nhìn anh ta cười cười với ánh mắt quen biết, thu hút sự chú ý của rất nhiều tướng sĩ. Thậm chí còn tìm cớ để nói hộ cho Kỳ Vương, để sự tức giận của Đông Hạ Vương dần dần hạ xuống. Kỳ Vương và Đông Hạ câu kết, là kẻ thù hại chết chú cô, tại sao cô lại không giúp mình, mà lại giúp Kỳ Vương? Hồ Thanh là một người rất thông minh, trong đầu nháy mắt đã hiện lên vài trăm câu hỏi, cuối cùng chuyển về một đáp án đáng sợ nhất. Ở bên ngoài vọng vào một thứ âm thanh ầm ĩ. Hồ Thanh cau mày, biết là sự bố trí của mình bắt đầu có chuyển biến. Tuy Đông Hạ không trọng lễ nghĩa, nhưng hò hét ầm ĩ lúc sứ giả Đại Tần đến thăm, thì thật là mất mặt Đông Hạ Vương, ông ta gọi thân vệ tới bảo: “Đi xem xảy ra chuyện gì”. Thân vệ đi ra, nhanh chóng quay lại báo: “Là sứ giả do Kỳ Vương phái tới, tranh cãi với tên tiểu binh ở bên ngoài, người đó thật tác oai tác quái, lên cơn, lại tát tiểu binh một cái, còn chửi rủa lung tung, may mà trái phải đều giữ hắn ta lại”. Đông Hạ Vương vô cùng tức giận, đang muốn nổi cơn. Hồ Thanh lập tức bước lên, hành lễ nói: “Người này là tham mưu của Kỳ Vương, anh dũng hơn người, có tiếng hiệp nghĩa, lại được ỷ trọng, lần đi này là hộ vệ, chỉ là tính tình bộc trực nóng nảy một chút, đắc tội với Đại Hãn, mong Đại Hãn tha tội”. Đông Hạ Vương hừ mạnh một tiếng: “Dám gây rối ở vùng đất Đông Hạ, không sợ chết sao hả?”. Chiến tranh là sự kéo dài của chính trị, có một quy tắc nhất định, trong đó có quy tắc mặc nhận “Hai quân giao chiến, không chém sứ giả”. Trừ phi hai bên đã hoàn toàn phá nát thế cục, tuyệt đối không còn đường lùi, dùng hình thức chém sứ giả để biểu thị quyết tâm đối kháng, nếu không đều không giết người đưa thư. Kỳ Vương và Đông Hạ lại là đồng minh, Đông Hạ Vương còn đang cần lương thực của đối phương, cứ coi là muốn trở mặt, cũng không phải lúc làm cái việc giết chết con gà đẻ trứng vàng đó. Huống hồ người bị đánh chỉ là một tên tiểu binh thấp hèn, không phải thủ lĩnh bộ tộc, không đáng để gây chuyện vì việc này. Hồ Thanh lại nói: “Người này hành động lỗ mãng, sau khi về nhất định phải bảo Kỳ Vương xử phạt nặng”. Liễu Tích Âm cũng ở bên cạnh cười hùa theo: “Hoá ra là một tên mãng phu”. Đông Hạ Vương do dự một lúc, liền bảo: “Đi đánh hắn ta mười roi, rồi đuổi đi!”. Hồ Thanh mỉm cười tạ ơn, rồi đi ra khỏi lều. Thu Lão Hổ luyện được công phu cứng, cả người là kim cương bảo vệ, ông ta chịu xong trận roi, không đau không ngứa phủi phủi quần áo rách nát, còn dùng ngôn ngữ Đông Hạ không chuẩn lắm chế giễu bọn lính thi hành: “Còn nói Đông Hạ dũng sĩ, nhìn hai ngươi hoá ra không được như thế”. Đám binh sĩ còn lại ở Kỳ Vương phủ nhìn bọn họ với ánh mắt vô cùng coi thường. Binh sĩ Đông Hạ tức đến nỗi đỏ mặt tía tai, thái độ đối với sứ đoàn Kỳ Vương cũng có vài phần căm ghét. Có vị thủ lĩnh bộ tộc Đông Hạ biết được việc này, vô cùng tức giận, hùng hổ thúc giục Đông Hạ Vương, trực tiếp đi chọn những tên nhát gan không có mắt, rồi cướp lại đất đai, không cần phải chịu sự chèn ép của người khác. Tất cả mọi người đều thấy đây là một ý kiến hay, đều hò hét theo, đại Hoàng tử càng hò hét lớn: “Giết con lợn Đại Tần sức trói gà không chặt đấy đi, thì lương thực đều là của chúng ta, còn phải cần thiết nhìn sắc mặt hắn ta sao? Uy hiếp! Ta nhổ vào!”. Hoàng tử Y Nặc phản đối: “Kỳ Vương biết rõ Giang Bắc, tích uy hậu trọng, lại có vài nhà thế gia ở Giang Đông Giang Bắc hỗ trợ. Chúng ta cũng cần con rối này để tạm thời khống chế cục diện, chiến cục trước mắt vẫn còn chịu sự khống chế. Trong việc đàm phán liều lĩnh giao ông ta ra, cũng không đổi được điều tốt gì, không phải là thời cơ tốt để giết ông ta”. Đại Hoàng tử chế nhạo: “Em trai tâm địa bồ tát, để cho đồ thừa tự do bừa bãi”. Hoàng tử Y Nặc tức giận: “Sao có thể liều lĩnh hành sự được?”. Đông Hạ Vương thấy hai đứa con giỏi giang dũng mãnh của mình tranh luận không thôi, nhẫn nhịn không nói gì. Buổi đêm, Liễu Tích Âm bước vào lều của Hồ Thanh, đuổi hết mọi người, lạnh lùng nói: “Nhanh chóng rời đi, đến những nơi cần đến, đừng có nhúng tay bừa bãi vào việc của tôi”. Hồ Thanh nhìn cô đầy nghi ngờ. Trên mặt Liễu Tích Âm không có biểu hiện: “Cơ hội sắp đến, không có thời gian nữa”. Hồ Thanh nhẹ nhàng chuyển chủ đề: “Cô thân là cơ thiếp, nửa đêm một mình đi đến gặp đàn ông, không sợ bị người khác nhìn thấy sao?”. “Nhìn thấy thì sao chứ?”. Liễu Tích Âm chẳng thèm để ý. “Tôi là người phụ nữ đi ra từ phủ Kỳ Vương, tới gặp sứ giả từ phủ Kỳ Vương tới, nhận ra người quen, thì sao chứ? Hỏi han vài câu rồi thôi”. Sau đó nói với giọng cực nhỏ: “Đợi thêm hơn một tháng nữa, là ngày mùng năm tháng năm, là tết Triều thánh của Đông Hạ, mọi người phải uống rượu chúc mừng, đây là một ngày lễ rất náo nhiệt, cũng rất quan trọng, Kỳ Vương có thời gian có thể tới chơi”. “Sau lễ Triều thánh thì sao?”. Hồ Thanh thông minh, đoán trúng được ý định của cô, trong lòng kinh ngạc: “Rõ ràng còn có cơ hội sống sót, cô sao mà phải chịu khổ đẩy mình rơi vào cái thế không thể thoát thân như thế chứ?”. Liễu Tích Âm cười buồn bã, trong đêm tối không có ánh trăng, chỉ có ánh nến lắc lư chiếu sáng, cô giống như một hồn phách từ địa ngục tới lấy mạng, cô nói: “Cái gì mà cơ hội sống sót? Tôi đã rơi vào tình cảnh không thể thoát được nữa”. Sắc mặt Hồ Thanh trầm lại, nhìn về phía Nam, ám chỉ: “Chị họ cô sẽ cảm thấy tội lỗi đấy”. “Chị ấy?”. Liễu Tích Âm cười, biểu hiện cương quyết liền dịu lại một chút, trong mắt hiện lên chút dịu dàng như nước, cô cúi đầu, nói với một giọng đa cảm nhất: “Để chị ấy đời đời kiếp kiếp không quên được Liễu Nhi đáng thương, từng giờ từng phút đều ở trong tim, chẳng lẽ không tốt hơn sao?”. Nói xong, cô dứt khoát ra đi. Hồ Thanh ở nguyên chỗ cũ, nhìn ánh nến lúc mờ lúc tỏ, lắc đầu buồn bã. Anh ta biết đằng sau vẻ đẹp của Liễu Tích Âm là một bản tính ngoan cố còn mạnh hơn cả lửa. Chỉ là không ngờ, âm mưu của người con gái này, còn hận thù hơn, tuyệt tình hơn, thâm độc hơn anh ta tưởng tượng. Người không sợ chết, thiên hạ vô địch.