Lưu gia trang nằm ở vùng nông thôn cách kinh thành khoảng ba mươi dặm, cạnh bên một ngọn núi trúc, nơi đây có một dòng suối nhỏ chảy thẳng qua gia trang, dòng chảy thường mang theo lá trúc bay ra từ trên những ngọn núi. Dọc hai bờ suối còn trồng rất nhiều cây liễu, vì thế mà mọi người ở Lưu gia trang gọi dòng suối nhỏ này là suối Liễu Trúc. Ở bên ngoài Lưu gia trang còn có rất nhiều ruộng lớn, chỉ là đất ở đây không thích hợp để gieo trồng lương thực, một mẩu đất gieo cũng chẳng thu được bao nhiêu, về sau người dân lại phát hiện đất này trồng lê rất tốt, lấy nước suối Liễu Trúc tưới tiêu, sau này lê cho ra vừa ngọt vừa nhiều nước, vì thế mà nhà nào cũng trồng lê. Chỉ có duy nhất một nhà không trồng lê mà lại ra ngoài học nghề đan trúc, lên núi hái trúc về đan sọt, để đến mùa thu hoạch lê, người ta muốn đem lê ra chợ bán mới nhận ra là không có thứ gì dùng để đựng, đành phải chạy đi mua sọt trúc khiến cho nhà này buôn bán kiếm lời không ít. Nhà này chính là gia đình em gái của lão Trương. Lưu phụ thân từ lúc còn rất nhỏ đã là một người lưu lạc, sau được một sư phụ đan tre trúc nhận làm học trò, cưới vợ xong thì ở lại định cư tại Lưu gia trang, lúc này mọi nhà ở trong gia trang đều đang bắt đầu trồng lê. Bởi vì Lưu phụ thân là người ngoài mới vào, không có đất vườn cho nên không thể trồng lê được, may sao Lưu phụ thân là người thông minh, suy nghĩ sâu xa, hắn cân nhắc nghĩ mọi người đến rồi lại đi hái lê, nhiều như vậy ăn không hết chắc chắn sẽ phải đem đi bán, vì vậy hắn liều mạng mà đan sọt trúc, kết cuộc nhờ cái liều này mà cuộc sống gia đình cũng tạm gọi là dư dả. Rồi đến năm sau, sọt trúc đương nhiên không còn dễ bán nữa bởi vì việc đan trúc này vốn không phải là việc gì khó, người nhà quê chỉ cần học trong chốc lát cũng có thể về nhà tự đan lấy, vì vậy Lưu phụ thân lại bắt đầu đan ghế trúc, bàn trúc, ghế dài bằng trúc, chiếu trúc, bất cứ thứ gì có thể đan ra được hắn liền đan tất, ngay cả cành liễu mọc bên bờ suối Liễu Trúc hắn cũng lấy để đan, đan thành bàn ghế này nọ, so với trúc còn vững chắc hơn. Lưu phụ thân là một người rất khéo tay, ngoại trừ làm đồ gia dụng, hắn còn cân nhắc làm ra rất nhiều thứ sống động như gà bằng trúc, vịt bằng trúc, chó bằng trúc, heo bằng trúc, đèn lồng bằng trúc, diều bằng trúc,….. Đến những ngày lễ tết, mọi người rất thích những vật phẩm này. Bởi vậy, khi Lưu phụ thân còn sống, cuộc sống của gia đình bọn họ khá ổn định, không thiếu thốn thứ gì. Chỉ tiếc rằng đứa con cả Lưu Đại Phúc của Lưu phụ thân trời sinh tay chân vụng về, chậm hiểu, học không nổi công việc tinh tế này. Năm nọ khi Lưu phụ thân bị bệnh, tay chân tê cứng, Lưu Đại Phúc cũng chỉ có thể làm được những thứ đơn giản như sọt trúc, sọt mây, nhà bọn họ mỗi lúc một đi xuống, cũng may nhờ có Lưu đại nương còn biết đan vài thứ hỗ trợ được chút ít trong nhà. Lưu Đại Phúc tuy rằng đần độn ngốc nghếch nhưng trời sinh lại rất tốt bụng, hàng xóm ai nhờ gì hắn cũng không nói hai lời mà giúp đỡ, điểm ấy của hắn giống hệt Lưu đại nương. Nhắc tới Lưu đại nương, bà và Lão Trương cũng giống hệt nhau, cực kỳ tốt bụng. Hôm nay, Lưu Đại Phúc lên núi hái trúc, khi đi ngang qua một vườn lê nhìn thấy lê rất tươi tốt, tiện tay hái hai quả để vào trong ngực áo, sau đó chém một cây trúc lớn mang về nhà, khi vừa bước vào cửa hắn đã hắng giọng hét lớn: “Mẹ, tiểu đệ, ra xem ta đem gì về cho các ngươi này.” Lưu đại nương đang dạy cho một thiếu niên cách đan trúc, gương mặt tròn tròn, đôi mắt tròn xoe mờ mịt sờ soạng, không phải kẻ bất hạnh thì còn là ai được nữa. Lưu Đại Phúc cảm thấy thật đau lòng, lúc trước khi cậu hắn là lão Trương đem kẻ bất hạnh giao cho hắn chỉ nói rằng đây là một đứa trẻ rất bất hạnh, mắt lại bị mù, Lưu Đại Phúc cảm thấy rất thương xót, không nói hai lời đáp ứng sẽ chăm sóc kẻ bất hạnh, không chỉ nhận kẻ bất hạnh làm đệ đệ mình, hắn còn suốt ngày gọi tiểu đệ tiểu đệ lung tung. Kẻ bất hạnh lúc đầu còn có chút e ngại con người cởi mở nói chuyện rất lớn tiếng này, nhưng khi ở chung chưa tới hai ngày, hắn đã phát hiện giọng của Lưu Đại Phúc vốn rất lớn nhưng tâm địa lại hiền lành. Nhớ lại ngày đầu tiên khi tới ở tại Lưu gia trang, kẻ bất hạnh bởi vì chưa quen với hoàn cảnh mà va vào cánh cửa, ngã trên mặt đất đau đến mức không đứng dậy nổi, khi hắn còn chưa kịp khóc thì Lưu Đại Phúc đã đứng một bên nước mắt nước mũi đầm đìa, vừa xoa xoa đầu gối cho kẻ bất hạnh vừa thì thầm không đau không đau. Kẻ bất hạnh lúc ấy không lên tiếng, chờ đến khi Lưu Đại Phúc rời đi lại chôn mặt ở đầu gối trộm nở nụ cười đã lâu không xuất hiện. Kể cũng lạ, lúc kẻ bất hạnh ở trong thành phủ, thiếu thành chủ tìm mọi cách để che chở cho hắn nhưng hắn lại không cảm nhận được, chỉ cảm thấy sợ hãi vô cùng, vậy mà Lưu Đại Phúc này giọng nói so với thiếu thành chủ còn lớn hơn lại dùng cái bộ dạng vừa nói vừa khóc này mở được cánh cửa nội tâm mà hắn đã khép lại từ lâu lắm. Lưu đại nương lại là người rất tương phản với đứa con của mình, bà là một nữ nhân ôn nhu tinh tế, giọng nói dịu dàng hiền lành khiến cho kẻ bất hạnh không muốn rời xa, chưa đến một ngày đã bất giác gọi bà là mẹ nuôi. Đến ngày thứ ba ở lại Lưu gia trang, kẻ bất hạnh đã bắt đầu làm quen được với hoàn cảnh này, người nghèo nơi ở chật, đồ dùng nhiều, nhất là ở nhà Lưu đại nương nơi nơi đều chất đầu sọt trúc. Lúc đầu kẻ bất hạnh còn chưa quen hay va phải làm rơi, may sao tất cả đều là đồ trúc nên rơi không vỡ, đè không hỏng. Chờ đến kẻ bất hạnh làm quen được với nơi này, hắn lại bắt đầu nảy sinh hứng thú đối với việc đan tre trúc. “Mẹ nuôi….. Ta, ta có thể học không?” Hôm nay kẻ bất hạnh rốt cục cũng thu hết dũng khí để hỏi. Lưu đại nương hiền hòa xoa đầu kẻ bất hạnh nói: “Đương nhiên là được rồi, chỉ cần ngươi muốn học, mẹ nuôi sẽ dạy cho ngươi.” “Ta muốn ta muốn ta muốn..…” Kẻ bất hạnh liên tục gật đầu như gà mổ thóc, trên mặt tươi cười vui sướng. Dù cho hai mắt đã bị mù hắn cũng không muốn làm một con sâu gạo vô dụng. Cứ như vậy, kẻ bất hạnh vui vẻ học cách đan trúc. Mắt không nhìn thấy gì khiến cho việc học càng khó khăn hơn, nhưng kẻ bất hạnh không ngại khó, suốt ngày đều thấy hắn cầm trúc ở trong tay, cố gắng tập luyện, hắn học cách lấy tay đo độ dài ngắn, chỉ trong một tháng ngắn ngủi, hắn đã có thể đan ra được một cái giỏ trúc hoàn chỉnh. Đáng tiếc hiện tại đang là mùa thu, không có ai bán giỏ trúc cả, vì thế Lưu đại nương lại bắt đầu dạy hắn cách đan thứ phức tạp hơn là đệm trúc, đừng nhìn đệm có vẻ nhỏ hơn so với giỏ trúc, thật ra lại khó đan hơn rất nhiều. Mới dạy có nửa ngày, kẻ bất hạnh đã có thể tiếp thu đại khái phương pháp, chỉ là ánh mắt mù lòa ảnh hưởng đôi chút đến xác xuất đan thành công, nhưng dù như vậy vẫn có thể thấy lưu đại nương mặt mày hớn hở vô cùng. “Tiểu đệ, ngươi thật khéo tay, còn hơn xa cái tên Đại Phúc ngốc nghếch kia, ngươi giống đứa con ngoan của ta hơn đó.” Khuôn mặt nhỏ nhắn của kẻ bất hạnh đỏ ửng, cái miệng nhỏ xinh ngọt ngào nói: “Mẹ nuôi, Đại Phúc ca không phải ngốc, hắn có sức mạnh vác được cả trăm cân.” “Ngươi đừng có bênh vực hắn nữa, hắn lại tự cao…..” Lưu đại nương cười đến mức mắt híp thành một đường cong. Lưu Đại Phúc lúc này bước vào nhà, đưa hai quả lê cho Lưu đại nương và kẻ bất hạnh, nói: “Lê mới hái đấy, chắc chắn vừa ngọt vừa mọng nước.” Lưu đại nương xách lỗ tai của Lưu Đại Phúc, nói: “Tiểu tử ngốc, ngươi lại hái lê của nhà ai đấy, nhớ phải xách hai thùng nước sang đền cho nhà người ta đấy.” Lưu Đại Phúc kêu la vài tiếng nói: “Mẹ à, là nhà của Tam thúc ấy, hôm qua ta đã nói với Tam thúc rồi, còn nói sẽ tặng cho thúc ấy một cái giỏ trúc nữa.” “Vừa mới hái xuống đấy, tiểu đệ, ngươi đợi lát nữa hẵng đan tiếp, cứ ăn lê trước đã, lê nhà Tam thúc là ngọt nhất ở Lưu gia trang này đấy.” “Lê? Là hình dạng gì?” Kẻ bất hạnh tò mò chớp mắt mấy cái, vươn tay sờ lên trên bàn. “Hả? Tiểu đệ, ngươi chưa từng nhìn thấy quả lê sao?” Lưu Đại Phúc đem quả lê đặt vào trong tay của kẻ bất hạnh, thuận miệng nói. Kẻ bất hạnh sờ sờ hình dạng của quả lê, nói: “A, thì ra đây là lê, ta đã từng thấy rồi, ở…..” Sắc mặt hắn bỗng nhiên trắng bệch, không nói gì nữa. Trước kia ở trong thành phủ hắn quả thật đã từng nhìn thấy loại quả da nham nhám này, nhưng lại không biết đây chính là lê. Lưu đại nương cũng xem như là người có hiểu biết, nhìn thấy sắc mặt của kẻ bất hạnh liền biết rằng hắn đang nghĩ đến chuyện trong quá khứ, tiện tay cầm lấy quả lê cười nói: “Ta đi rửa lê.” Một lát sau, Lưu đại nương đưa một quả lê đã được gọt vỏ cho kẻ bất hạnh, nói: “Lê là một loại quả rất tốt, nếu như bị ho khan hay gì đó, ăn lê có thể khỏe lên. Ăn đi, cắn chậm một chút, thịt lê bên ngoài rất ngọt, bên trong lại chua, cẩn thận đừng cắn quá sâu….. Chua lắm đấy, nếu không sợ chua thì ăn luôn phần bên trong cũng được.” Kẻ bất hạnh do dự cắn một miếng, thịt lê ngọt ngào hòa vào trong miệng. “Thật sự rất ngọt!” Đột nhiên hắn cười thật tươi, trông có chút giống với những bông hoa cúc dại ở trong thành phủ, ánh vàng rực rỡ khiến cho người khác không nhịn được mà cười theo. Lúc này, ai cũng không phát hiện ra có một bóng đen đang ghé vào đầu tường thăm dò, vừa gãi đầu vừa thì thào tự nhủ: “Đáng yêu quá, đáng yêu quá, ánh mắt của thiếu thành chủ thật sự không phải tầm thường, tìm đâu ra một đứa trẻ đáng yêu đến vậy chứ, cười đến mức sưởi ấm cả lòng người…..” Lúc kẻ bất hạnh đã đến ở đây được hai tháng, trong trang bỗng xuất hiện một thầy thuốc tha phương, xem xét khu vực bên cạnh Lưu gia hết nửa ngày rồi bảo nơi này phong thủy rất tốt, muốn ở lại đây dưỡng thân, vì thế đến báo cho người trong trang một tiếng, chẳng mấy chốc cách chỗ Lưu gia ở không xa đã được dựng lên một gian nhà. Việc này xảy ra chưa đến nửa ngày, toàn bộ người ở trong Lưu gia trang đều đã biết đến, già trẻ lớn bé ở trong Lưu gia trang đều rất hoan nghênh thầy thuốc tha phương này, đó là bởi vì Lưu gia trang nằm ở chỗ hẻo lánh, đất đai lại nhỏ, tổng cộng cũng chưa có đến một trăm hộ cùng ở với nhau, đứng ở đầu trang hét một tiếng thì cuối trang đã nghe thấy, chính vì chỗ này nhỏ như vậy cho nên không có thầy thuốc, bình thường nhà ai có người sinh bệnh đều phải chạy hơn mười dặm đường để mời thầy thuốc từ một thôn trang lớn hơn sang. Thầy thuốc tha phương đó tuổi không lớn, nhìn qua cũng chỉ mới khoảng hai lăm, hai sáu là cùng. Miệng lại rất dẻo, tất cả lão bà, bà cô, chị em, lão ông, ông chú, ông bác, anh em ở đây đều được hắn nịnh đến tâm can nở hoa, mới dựng phòng xong có vài ngày, bên trong còn trống rỗng chưa có gì đã ngay lập tức được lấp đầy, ông chủ tặng bàn, hộ phía tây tặng ghế, thôn trang cứ vậy gom góp mà tặng đủ cả một nhà đồ gia dụng. Thầy thuốc tha phương rất cảm kích, đến ban đêm liền mở một buổi tiệc rượu, mời toàn bộ mọi người trong trang đến cùng ngồi dưới tàng cây hòe, vừa ăn uống vừa tiện làm quen. Đêm vừa xong, thầy thuốc tha phương cũng có thể lần lượt nêu ra tên của từng người trong trang, ngay cả bảy tám bà cô có quan hệ ra sao với nhau thầy thuốc cũng có thể nói ra được. Tối hôm đó kẻ bất hạnh cũng có đến, bởi vì mắt nhìn không thấy, Lưu Đại Phúc gắt gao nắm lấy tay hắn để cho hắn ngồi ở bên cạnh mình. Thầy thuốc tha phương lần lượt mời rượu từng người, liếc mắt nhìn thấy kẻ bất hạnh liền lập tức khen ngợi. “Ôi, con cái nhà ai vậy, bộ dạng thật là đáng yêu, có muốn uống rượu không? Đến đây nhấp một ngụm nào.” Kẻ bất hạnh đối với sự tiếp cận của người lạ vẫn còn có chút sợ hãi, hắn lùi về bên người Lưu Đại Phúc nhưng lại bị thầy thuốc tha phương kéo qua chuốc vào một ngụm rượu. Nuốt vào ngụm rượu này, kẻ bất hạnh tựa như biến thành một người khác, lá gan bỗng lớn hơn, cầm lấy bát rượu một hơi uống cạn. Phải biết rằng, rượu ở trong thôn tuy rằng hương vị không đủ thơm nhưng lại rất mạnh, ngay cả người lớn còn không dám uống cạn chén trong một ngụm như vậy. “Nhóc con thật khí phách, bội phục, bội phục…..” Thầy thuốc tha phương bị hành động uống cạn sạch của kẻ bất hạnh làm cho kinh ngạc đến trợn mắt há hốc mồm, một hồi lâu mới phục hồi tinh thần lại, vỗ vỗ bả vai kẻ bất hạnh, hô to bội phục. Ai ngờ rằng cái vỗ này của hắn lại làm cho kẻ bất hạnh gục xuống luôn, Lưu Đại Phúc hoảng sợ vội vàng ôm lấy hắn. “Tiểu đệ, tiểu đệ ngươi làm sao vậy?” Thầy thuốc tha phương vén tay áo lên tùy tiện nói: “Đến đây, để ta bắt mạch cho hắn thử xem, ta chính là truyền nhân ba đời thần y thế gia không có bệnh gì không thể chữa được, ông nội của ta…..” Hắn vừa bắt mạch vừa nói liên hồi làm cho Lưu Đại Phúc vốn đã chậm hiểu nay lại càng quay cuồng, đến cuối cùng, hắn chỉ nghe được một câu. “Nhóc này chẳng làm sao cả, say mà thôi.” Ngày hôm sau, thầy thuốc tha phương đưa đến Lưu gia một chén thuốc giải rượu, kẻ bất hạnh khi đó vẫn còn say mà ngủ vùi, uống hết một chén thuốc chỉ lát sau đã hết say, đầu cũng không còn đau nữa, tinh thần rất thoải mái. Từ đó về sau, thầy thuốc tha phương trở nên thân quen với Lưu gia. Chưa đến vài ngày, hắn đã lấy cớ không biết nấu cơm, nịnh nọt Lưu đại nương xuôi tai để cho hắn đến nhà ăn cơm. Sau khi đã biết rõ nhau thì mới biết thầy thuốc tha phương họ Du, tên Y, tên này cũng hệt như người hắn, Du Y cũng có nghĩa là thầy thuốc tha phương, đại khái lúc hắn được sinh ra, cha hắn hình như đã biết sau này hắn sẽ trở thành một thầy thuốc tha phương cho nên cứ gọi hắn là Du Y. Thể chất của kẻ bất hạnh có chút yếu ớt, chuyện này cũng có liên quan đến đoạn thời gian hắn đã phải chịu đựng ở trong thành phủ, suốt ngày lo lắng sợ hãi, căng thẳng thần kinh, lại phải chịu quá nhiều ngược đãi, thân thể của hắn so với những đứa nhỏ cùng tuổi trông gầy yếu hơn rất nhiều. Từ sau khi Du Y đến đây, người được lợi nhiều nhất chính là kẻ bất hạnh, bởi vì Du Y luôn lấy cớ tìm người thí nghiệm thuốc cho hắn, đem đủ loại thuốc đến bắt kẻ bất hạnh phải uống sạch. Thân thể kẻ bất hạnh càng ngày càng tốt, nhưng điều hắn hi vọng nhất vẫn là mắt có thể sáng lên, tuy nhiên mắt hắn chẳng hề có chút khởi sắc. Du Y đối với đôi mắt của kẻ bất hạnh cũng không có cách nào chữa trị được, vì vậy mà hay bị Lưu Đại Phúc châm chọc này kia, nói hắn khoác lác khiến cho Du Y tức giận đến giậm chân, nhưng rốt cuộc hắn cũng chẳng thể làm gì vì quả thật hắn không biết cách trị mắt giúp kẻ bất hạnh. Mắt không trị được nên phạm vi hoạt động của kẻ bất hạnh rất hạn chế, suốt ngày hắn chỉ có thể ở trong Lưu gia, không ngừng học tập cách đan trúc, tuy hắn chưa bao giờ nói ra nhưng không ai không biết nỗi thất vọng ở trong lòng hắn. Những đứa nhỏ khác ở tuổi này đều vui vẻ chạy nhảy suốt ngày ở khắp các ruộng đồng, còn hắn chỉ có thể ngồi ở trong sân, lẳng lặng nghiêng tai lắng nghe tiếng cười thanh thanh của bọn trẻ thỉnh thoảng lại truyền vào từ bên ngoài. Ước chừng khoảng nửa năm sau, Du Y bỗng nhiên nói muốn đi tìm một người bằng hữu rồi rời khỏi Lưu gia trang. Vậy nhưng vào đêm hôm đó hắn lại quay về, vọt vào Lưu gia. “Tiểu đệ, tiểu đệ, mau ra đây, xem ta đem về cho ngươi bất ngờ lớn gì này.” Người đi ra đầu tiên là Lưu Đại Phúc, hướng Du Y nói: “Thầy thuốc bại hoại, ngươi sao lại dám học câu nói cửa miệng của ta như thế.” Từ lúc kẻ bất hạnh đến đây ở cho đến giờ, Lưu Đại Phúc mỗi lần về nhà câu đầu tiên hắn nói chính là “Tiểu đệ, mau ra đây xem ta đem cái gì về cho ngươi đây này.” Vì muốn làm cho kẻ bất hạnh vui vẻ, hắn luôn tìm rất nhiều thứ mới mẻ về để cho kẻ bất hạnh chơi. Du Y đang cực kỳ hưng phấn, mặc kệ hắn, nhìn thấy kẻ bất hạnh đang sờ tường đi ra, hắn một bước xông lên cầm lấy một thứ nhét vào trong tay của kẻ bất hạnh. “Du đại ca, đây là….. Dây thừng?” Kẻ bất hạnh khẽ vuốt thứ trong tay, nghi hoặc hỏi. “Sờ tiếp xuống dưới dây thừng đi.” Du thần y thần bí nói. Lưu Đại Phúc nhìn một hồi, quay đi xem thường nói: “Không phải chỉ là một con chó mà thôi hay sao?” Du Y tức giận nhảy dựng lên, chỉ vào chóp mũi Lưu Đại Phúc nói: “Ngươi tại sao lại nói ra, ta muốn cho tiểu đệ tự mình phát hiện, đó mới gọi là bất ngờ có biết hay không!” Kẻ bất hạnh sờ xuống phía dưới dây thừng, quả nhiên đụng phải một cái đầu chó lông xù, con chó kia cực kì hiền lành, bị kẻ bất hạnh sờ đầu cũng chỉ vươn đầu lưỡi liếm liếm lòng bàn tay của hắn. “A!” Kẻ bất hạnh hoảng sợ, vội vàng rụt tay lại. Con chó kia lại chạy về phía trước hai bước, nhẹ nhàng nằm xuống bên chân kẻ bất hạnh mà cọ cọ khiến cho kẻ bất hạnh thấy hơi ngứa, nhịn không được cười lên một tiếng. Du Y ha hả cười rộ lên, nói: “Tiểu đệ, có con chó này rồi ngươi có thể tự mình đi ra ngoài, về sau nó sẽ là đôi mắt của ngươi, ngươi muốn đi đâu cứ nói với nó một tiếng, nó sẽ mang ngươi đi. Lúc ngươi muốn quay về cũng nói cho nó biết, nó sẽ dẫn ngươi về, ta cam đoan nó sẽ không đi nhầm đường đâu.” “Thật sao?” Kẻ bất hạnh lộ ra biểu cảm vui mừng, ngồi xổm xuống sờ sờ đầu chó. “Đừng nghe hắn khoác lác, chó chỉ là chó, đi ra ngoài rồi thể nào cũng đánh nhau tranh giành chó cái.” Lưu Đại Phúc lại dội nước lạnh. “Lưu Đại Phúc, ngươi muốn đối nghịch với ta cho đến bao giờ hả?!” Du Y tức giận rống to. “Ta đương nhiên nhìn ngươi không có vừa mắt, tiểu đệ là tiểu đệ của ta, không phải của ngươi, không được gọi bậy.” “Được, bây giờ chúng ta cá cược, nếu con chó này có thể nghe lời mà dẫn đường, về sau tiểu đệ sẽ là đệ đệ của ta, ngươi cũng không được phép móc méo ta nữa.” “Được, cược thì cược, ta cũng không tin con chó này thông minh đến mức có thể tìm ra đường.” Kết quả không cần phải nói, Lưu Đại Phúc nào có biết rằng trên đời này cũng có những loại chó được trải qua huấn luyện, quả thật thông minh, giúp dẫn đường cho người mù. Người vui nhất vẫn là kẻ bất hạnh, từ sau khi rời khỏi thành phủ, hắn cảm thấy vận may của mình đã trở lại, từng chuyện tốt cứ vậy mà xảy ra trong cuộc sống của hắn, có mẹ nuôi, có Đại Phúc ca, hiện tại còn có cả con chó thay thế cho đôi mắt của hắn. “A, Du đại ca, ta có thể đặt tên cho nó được không?” “Đương nhiên có thể.” Du Y hãnh diện nói. Lưu Đại Phúc vẻ mặt đau khổ ngồi xổm trong góc phòng thì thào tự nhủ: “Ta thật ngu, ta thật ngu….. Chó so với ta còn thông minh hơn…..” Hắn đem tiểu đệ đi cược giờ thua trận, phải làm sao bây giờ làm sao bây giờ………. “Bề ngoài của nó ra sao?” “Màu vàng kim, rất là xinh đẹp đó…..” “Vậy gọi nó là Tiểu Kim đi.”