Lúc mà Như Ý bước vào cung Diên Hi, trời đã chuyển tối. May thay là tuy rằng cung Diên Hi này gần đường đi lại của cung nhân, nhưng khi đóng cửa điện lại cũng là an tĩnh. Dù không phải là cung điện mới được tu sửa nhưng cũng có hai sân nhỏ trước sau, năm gian chính điện, ba gian điện thờ phụng, cũng khá là rộng rãi. Như Ý vốn thích yên tĩnh, khi các cung nhân cẩn thận quét dọn xong còn cảm thấy được nét cổ kính bên trong, nhưng không hề đơn sơ quá mức. Như Ý trông một vòng quanh Diên Hi cung, có chút vui mừng nói: “Các ngươi quét tước cẩn thận thì nhìn cũng không tệ chút nào.” A Nhược bĩu môi nói: “Nương nương đúng là dễ mãn nguyện. Trong lục cung, Diên Hi cung này vốn không đáng để đem ra đối chiếu. Nô tỳ thấy nào Thừa Càn cung, rồi Dực Khôn cung, người người đều tốt cả, cảnh trí lại đẹp, tới Dưỡng Tâm điện của hoàng thượng lại gần. Ở tận nơi này thì không biết bao giờ mới được hoàng thượng ghé thăm một lần.” Như Ý đưa mắt nhìn nàng ta, nhìn những đóa hoa khắc trên xà nhà rồi thở dài. Nhị Tâm cười giữ A Nhược lại bảo: “Cô nương tốt à… Hoàng thượng muốn đến tất sẽ đến, không ngại đi đường xa; còn nếu như người đã không muốn thì dù bao vây tứ bề Dưỡng Tâm điện cũng chẳng làm gì được.” A Nhược định nói lại thì Như Ý đã thản đạm nói: “Nguyện ý tới thì chẳng quản đường xa, là suy nghĩ trong lòng thì chưa chắc đã nói ra ngoài miệng. A Nhược, ngươi nói xem có đúng hay không?” A Nhược có phần phẫn nộ, chỉ ậm à nói: “May mà khi nương nương dọn qua đây, hoàng thượng cũng ban thưởng thêm vài thứ bài trí, trong lòng hoàng thượng chung quy là luôn có hình bóng nương nương.” Như Ý gật đầu nói: “Đêm nay hoàng thượng ở lại cung Trường Xuân, chúng ta cũng nên sớm nghỉ ngơi. Đến tân cung chẳng biết có ngủ được không?” Đôi mắt Nhị Tâm khẽ đưa, khúc khích cười nói: “Vì e rằng nương nương đổi nơi ngủ không quen giường, thế nên nô tỳ đã thêm một chút an thần hương trong tẩm điện.” Như Ý gật đầu khen ngợi, A Nhược thì lén bĩu môi, bắt hai tay về phía sau. Chủ tớ ba người chuẩn bị vào trong tẩm điện thì tiểu thái giám đã bước vào nói: “Khởi bẩm nương nương, Hải thường tại đến thỉnh an nương nương.” Như Ý kinh ngạc, “Lúc này rồi Hải Lan còn đến thỉnh an sao? Mau mời vào.” Như Ý bước đến ngồi tây noãn các, Hải Lan đưa theo thị tỳ Diệp Tâm tiến vào. Như Ý cười hỏi: “Sao muộn thế này còn đến thỉnh an? Đêm triền miên ngủ không được sao?” Hải Lan không giống như lúc trước, rất thận trọng. Nhị Tâm bước tới dâng trà, cung kính nói: “Hải thường tại, mời người thưởng trà.” Hải Lan không dùng trà, chỉ lặng lẽ nhìn Như Ý. Như Ý có chút ngạc nhiên, cười: “Muội có lời gì cứ nói với ta. Đúng rồi, hôm nay khi thánh chỉ đến vẫn chưa biết muội muội ở cung nào, không biết hoàng hậu nương nương an bài như thế nào?” Mi mắt Hải Lan ửng lên, cúi đầu nói: “Tần thiếp thấp cổ bé họng, hoàng hậu thuận tay an bài đến nơi nào thì phải đến chỗ đó thôi.” Như Ý bất ngờ hỏi: “Là nơi nào? Chẳng lẽ không tốt sao?” Diệp Tâm nhẫn nại không được nói: “Hoàng hậu nương nương nói Hàm Phúc cung của Tuệ quý phi rộng lớn, lộng lẫy bèn an bài cho tiểu chủ đến Hàm Phúc cung. Kỳ thực thì cũng không có gì, nhưng vị nương nương ở Hàm Phúc cung kia thì không coi ai ra gì, còn được đài kỳ dẫn đến càng thêm kiêu ngạo. Như Di quý nhân, cũng chính là thị nữ hầu hạ bên cạnh hoàng hậu nương nương trước đây; nhưng mà Tuệ quý phi ấy thì khác, trước có một nha đầu hầu hạ bên cạnh hoàng thượng liền bị nương nương tìm cách đuổi khỏi cung.” Như Ý nhu hòa chen ngang lời, “Đó cũng là chuyện trước đây. Hiện tại nàng ấy là quý phi, chắc chắn phải nhu hòa hơn trước.” Diệp Tâm cáu kỉnh nói: “Tình tính tiểu chủ nhà nô tỳ hiền lành, dễ bị người kia làm khó. Vừa đến Hàm Phúc cung đã bị Tuệ quý phi giáo huấn một trận, lại còn bị bắt ở gian phòng phía Tây.” Như Ý nghe vậy chau mày, “Đó đâu phải chỗ cho người ở, mùa hè nóng bức, mùa đông lạnh như băng, chỗ đó đến nô tài cũng chẳng ở, cùng lắm chỉ có thể dùng làm kho chứa những vật dụng thường ngày ít khi dùng đến thôi. Tuệ quý phi chẳng lẽ không sợ hoàng thượng biết chuyện?” Hải Lan nức nở, “Trước giờ hoàng thượng ít đến chỗ thiếp, nay lại ở sau đôi mắt Tuệ quý phi thì càng không thể. Tuệ quý phi còn nói nếu hoàng thượng hỏi đến thì sẽ bẩm rằng tự thân tần thiếp muốn ở đấy, cô ta khuyên không được. Tần thiếp… Thực ra hoàng thượng không hề quan tâm đến tần thiếp.” Như Ý không nỡ lòng nào, “Nàng ta đối xử với muội như vậy, muội còn đến đây thế này không kiêng kị gì sao?” Hải Lan khóc chẳng ra thành tiếng: “Nàng ta đâu cần kiêng kị gì. Trong Hàm Phúc cung lúc này thiếu gì chuyện huyên náo, ai ai cũng đều siểm nịnh nàng được sắc phong quý phi, còn được đài kỳ.” Như Ý lặng lẽ trong chốc lát: “Vậy muội dự định thế nào?” Hải Lan nhìn Như Ý, nước mắt ròng ròng, “Tần thiếp chỉ dám đến cầu xin ân điển của Nhàn phi nương nương, chỉ mong được ở cùng nương nương đã đủ mãn nguyện.” Như Ý vội hỏi: “Xưa nay muội luôn gọi ta là tỷ tỷ, bây giờ cũng vẫn nên như thế. Cứ một câu ‘nương nương’, ‘tần thiếp’ nghe thật xa lạ.” Hải Lan sợ hãi gật đầu, “Vâng.” Như Ý suy nghĩ một chút rồi nói: “Muội muốn ở đây không phải không được, chỉ cần ta hồi bẩm lên hoàng hậu nương nương…” Như Ý còn chưa nói xong, Nhị Tâm đã bước lên nói: “Nương nương, trà nguội mất rồi, nô tỳ thay chén khác cho người.” Vừa lúc đó, Như Ý thấy Nhị Tâm nhìn nàng chằm chằm, sâu trong lòng nàng hiểu rõ, đành khẽ thở dài: “Muội muốn qua không phải không được, chỉ cần ta hồi bẩm hoàng hậu nương nương thôi. Nhưng muội cũng biết tình cảnh hiện tại của ta mà, thứ nhất là không thể mở miệng xin hoàng hậu nương nương bất kì điều gì như trước, thứ hai là dù ta thật sự xin người, cũng chưa chắc hoàng hậu sẽ đáp ứng. E là lúc ấy còn trách muội không an phận thủ thường, nếu Tuệ quý phi dựa vào đó mà giận chó đánh mèo với muội thì cuộc sống sau này càng không dễ chịu.” Nhị Tâm thêm trà cho Hải Lan, làm bộ như thể vô tâm nói: “Thực ra khi còn ở tiềm để Hải Lan tiểu chủ cũng ở trong ngôi nhà gỗ nhỏ bên cạnh nương nương, nếu có thể cùng ở Diên Hi cung thì tốt biết mấy. Giờ đây lại phải xa nhau như vậy, thật không hiểu cái gì là đạo lý.” Đôi mắt Hải Lan đẫm nước mắt, cúi đầu ngẫm nghĩ chốc lát rồi nói khẽ: “Vốn là do muội hồ đồ, khiến tỷ tỷ khó xử.” Như Ý nhìn thật có lỗi, “Nếu như là trước đây thì không có lý gì ta không giúp muội. Nhưng hiện tại, muội nhìn Diên Hi cung cũng thấy rồi đấy, ta bây giờ không còn tiếng nói. Đưa muội về Diên Hi cung hẻo lánh này cũng chưa chắc đã là chuyện tốt. Nếu bị ta liên lụy, bị hoàng thượng thất sủng thì càng không tốt.” Hải Lan đánh giá một vòng Diên Hi cung, không thể không thở dài một tiếng, “Khi còn ở tiềm để, tỷ tỷ đứng đầu trong các trắc phúc tấn, chưa từng phải nếm qua sự bất công thế này.” Như Ý xoa nhẹ lên tay nàng, “Có bất công hay không cũng không phải trong một lúc. Ta và muội đều tốt thì lo gì ngày sau không tốt, có đúng không?” Hải Lan cầm khăn tay lau đi nước mắt, khuôn mặt cũng giãn ra: “Tỷ tỷ nói phải.” Nàng mỉm cười, “Trước đây, khi muội còn làm thị nữ ở tiềm để cũng bị người ta khinh thường, cũng là tỷ tỷ chiếu cố muội, khuyên muội không được chịu thua kém. Sau tỷ lại đem giày muội thêu dâng cho hoàng thượng, để hoàng thượng sủng hạnh muội, cho muội một danh phận. Những việc tỷ tỷ đã giúp muội, muội luôn khắc cốt ghi tâm.” Như Ý ôn nhu nói: “Được. Muội nhẫn nại chịu đựng, ta cũng vậy. Chúng ta chịu nhẫn nhịn một chút, tất cả cũng sẽ qua.” Lúc này Hải Lan mới đứng dậy, uyển chuyển nói: “Đã không còn sớm, muội muội cáo lui trước, tỷ tỷ nghỉ ngơi sớm đi.” Như Ý tiễn Hải Lan đến tận hiên nhà, trong lòng bỗng thấy bất an, “Tuệ quý phi như vậy cũng khó cho muội, có gì muội cứ nói với ta, ta cũng có thể cùng muội chia sẻ.” Hải Lan cảm động nói: “Đa tạ tỷ tỷ, muội xin ghi nhớ.” Như Ý nhìn Hải Lan và Diệp Tâm bước ra ngoài, trong sân, ánh trăng trải đầy trên đất như thể thảm sương, càng làm tăng thêm vẻ lạnh lẽo tiêu điều, bất tri bất giác thở dài. Nhị Tâm lấy áo choàng khoác lên vai Như Ý, rồi quỳ xuống nói: “Nương nương thở dài vì trách khi nãy nô tỳ bạo gan khuyên nương nương?” Như Ý lắc đầu nói: “Ngươi làm đúng. Ta thân mình còn khó bảo toàn, chẳng lẽ lại liên lụy đến Hải Lan?” Thầm nghĩ: “Khi trước, khi còn ở tiềm để, tính tình Tuệ quý phi đâu có kiêu ngạo như thế, lúc nào cũng luôn dịu dàng đến động lòng người, sao vừa vào cung đã thành ra như vậy?” Như Ý nhìn bóng mình nghiêng nghiêng trên nền gạch xanh trong đình viện, suy nghĩ trong lòng cũng hỗn loạn như vậy, nhưng cũng chỉ nhẫn nhịn nói: “Đắc ý sinh kiêu ngạo, thất ý khiến tốn chính là đức tính của con người. Nếu ngay cả khi đắc ý cũng khiêm tốn mà an phận, nhu hòa với người người, lúc ấy mới thật sự đạt đến đỉnh cao.” Nhị Tâm trầm ngâm nói: “Hoàng thượng luôn ngợi ca nương nương tâm tính tuệ lan, khen ngợi Tuệ quý phi nhàn tĩnh dịu dàng, sao hôm nay lại ban cho nương nương hào là Nhàn, còn Tuệ quý phi lại là Tuệ?” Như Ý bám chặt lấy áo choàng, thản nhiên nói: “Hoàng thượng làm việc gì tất có ý tứ riêng, không đến lượt chúng ta phỏng đoán hồ đồ.” -o0o- Giấy song hồ trong thư phòng tại Dưỡng Tâm điện vừa mềm mại lại vừa dày, một tia gió cũng không thể xâm nhập, chỉ có tán cây ngoài điện giữ bóng trên song cửa, trông giống như một bức thủy mặc tranh tiêu sơ. Hoàng đế cúi đầu phê tấu chương, Vương Khâm lặng lẽ đặt chén trà lên bàn, vừa giúp hoàng đế mài mực vừa nói khẽ: “Hoàng thượng xem tấu chương cũng được một canh giờ rồi, uống một ngụm trà rồi nghỉ ngơi một chút thôi.” Hoàng đế chỉ “ừ” một tiếng, không ngẩng đầu lên. Vương Khâm lại nói: “Hoàng thượng, Trương Đình Ngọc đại nhân đến, đang đứng chờ ở ngoài điện.” Hoàng đế bỗng dừng bút, cao giọng nói: “Mau mời vào.” Vương Khâm nghe vậy lập tức ngộ ra rằng hoàng thượng đang đợi Trương Đình Ngọc, bèn kính cẩn mời ông ta bước vào. Trương Đình Ngọc vừa bước đến cửa điện đã vội cúi người bước nhanh đến, nghiêm nghị thi lễ, “Vi thần thỉnh an hoàng thượng.” Hoàng đế mỉm cười nói: “Vương Khâm, đỡ Trương đại nhân đứng lên, ban tọa.” Vương Khâm đỡ Trương Đình Ngọc đứng dậy, phó tổng quản Dưỡng Tâm điện – Lý Ngọc đã mang chiếc ghế bằng gỗ lê đến, lúc này Trương Đình Ngọc mới dám ngồi xuống. Hoàng đế ân cần nói: “Đình Ngọc, khanh cũng đã qua sáu mươi, lại là lão thần tam triều, phụng ý chỉ tiên đế phò tá trẫm. Trước mặt trẫm không cần thiết phải hành lễ như vậy.” Vẻ mặt Trương Đình Ngọc khiêm tốn, “Hoàng thượng ân điển thì vi thần cũng không dám quên lễ nghi của quân thần. Được tiên đế coi trọng, vi thần càng phải tận tụy cống hiến, không dám phụ lòng tiên đế phó thác trước lúc lâm chung.” Hoàng đế gật đầu nói: “Sao giờ này ngươi còn tiến cung cầu kiến trẫm?” Trương Đình Ngọc cúi thấp người nói: “Hoàng thượng sắc phong Tuệ quý phi, ban đài kỳ cho họ là vinh dự không gì bằng, vi thần vừa mới uống rượu tại nhà ngoại Tuệ quý phi – phủ đệ của Đại học sĩ Cao Bân.” Hoàng đế “à” một tiếng, thản nhiên nói: “Đây à vinh hiển của Tuệ quý phi, cũng là vinh hiển của cả nhà Cao Giai thị. Đến cả ngươi cũng tới chúc mừng, các quan lại trong triều hẳn là đến cả nhỉ?” Trương Đình Ngọc không chút nghĩ ngợi nói: “Hoàng ân của hoàng thượng mênh mông như nước, Cao Giai phủ khách khứa đông, tiếp không dừng tay.” Trương Đình Ngọc cẩn thận đánh giá sắc mặt hoàng đế rồi cẩn trọng nói: “Ngạc Nhĩ Thái còn nói đùa với vi thần rằng, nhiều người như vậy sợ là sẽ đạp hỏng cửa Cao Giai phủ, lại nói Cao Đại học sĩ suy nghĩ chu toàn, kiến thức uyên thâm, từ sớm đã sai người đổi thành cửa bằng gỗ tử đàn.” Hoàng để mỉm cười, nhưng dường như không để tâm, “Gỗ tử đàn dù quý nhưng không phải là thứ hiếm lạ.” Trương Đình Ngọc thêm phần tươi cười khả ái, “Vi thần cũng nghĩ thế, nhưng hôm nay lại nghe thấy Lang đại nhân Tổng quản Nội vụ phủ nói chuyện, Lang đại nhân nói hai năm qua gỗ tử đàn thiếu trầm trọng, Lưỡng Quảng và Vân Nam đều không tìm thấy, chỉ còn lại một ít tiến cống từ Nam Dương, vượt biển vượt đại dương mới đến nước ta, chi phí không dưới ngàn vàng. Lạ hơn là gỗ tử đàn mà Cao Đại học sĩ dùng là loại vào nước không chìm, Cao Đại học sĩ rất tự hào, mời đủ các quan lại đến thưởng thức, thần cũng được mở rộng tầm mắt.” Hoàng đế vừa cười thưởng một ngụm trà, gọi Vương Khâm lại nói: “Trẫm còn nhớ thứ gỗ tử đàn mà quý phủ Cao Bân dùng…” Hoàng thượng dường rằng đang suy nghĩ, liếc mắt nhìn Vương Khâm. Vương Khâm sững sờ, chưa kịp phản ứng, tiểu thái giám Lý Ngọc hầu hạ dưới điện đã tiếp lời: “Hồi hoàng thượng, gỗ tử đàn Cao đại nhân quý phủ sử dụng là phần thưởng hoàng thượng ban cho hai ngày trước, vì bận quá cho nên hoàng thượng phân phó Vương công công, Vương công công giao cho nô tài đến nội vụ phủ một chuyến.” Vương Khâm như ngộ ra, tự vỗ đầu mình: “Hoàng thượng xem , đầu óc nô tài thật là… chẳng hay thế nào lại quên mất.” Vương Khâm quỳ xuống nói, “Xin hoàng thượng tha tội.” Hoàng đế không để tâm đến ông ta: “Ngươi không phải mới vào cung, công việc đằng sau hoàng đế không hề ít, không thể nhớ hết. Đứng lên đi.” Vương Khâm thở phào nhẹ nhõm, vội vàng tạ ơn rồi đứng lên, lau đi mấy giọt mồ hôi lạnh trên trán. Trương Đình Ngọc mỉm cười nói: “Thì ra là hoàng thượng ban thưởng cho, chính là đại ân điển, tất nhiên phải cùng chia vui với các quan.” Ông ta suy nghĩ một hồi, “Từ khi hoàng hậu được sắc phong đến nay thần vẫn chưa thỉnh an hoàng hậu, tự thấy hổ thẹn trong lòng. Hy vọng là đến ngày Tết, các quan tụ họp đông đủ, có thể tự mình tới vấn an hoàng hậu nương nương.” Hoàng đế nói: “Có gì khó đâu? Đến khi ấy trẫm sẽ cho phép ngươi đích thân vấn an hoàng hậu.” Trương Đình Ngọc cúi thấp người lần thứ hai, “Thần tạ ơn đại ân của hoàng thượng. Hoàng hậu nương nương là đích phúc tấn mà tiên đế ban cho hoàng thượng, xuất thân từ danh môn thế gia, gia tộc trâm anh thế phiệt. Phú Sát thị còn là một trong tám gia tộc danh vọng của Mãn tộc ta, cống hiến không ít cho Đại Thanh. Thần kính trọng nương nương nhân từ khoan hậu, tài đức vẹn toàn, được hoàng thượng cho phép đích thân vấn an nương nương là vinh dự của vi thần.” Hoàng đế nghiêm nghị nói: “Ý của ngươi trẫm hiểu. Hoàng hậu là người đứng đầu hậu cung, giữ trong tay phượng ấn, đương nhiên trẫm cũng kính trọng hoàng hậu, sẽ không vì sủng ái mà thiên vị đâu.” Trương Ngọc Đình kính cẩn nói: “Thần nghe nói thời Tiền Minh, khi đó hậu cung sinh loạn, phát sinh nhiều chuyện phạm thượng bề trên, dẫn đến hậu cung vô tắc vô kỷ, ảnh hưởng đến yên ổn của tiền triều. Hoàng thượn thánh minh, vi thần không thể không mừng.” Trương Đình Ngọc nhìn tấu chương trên án, ôn độ nói, “Khi tiền đế còn sống luôn chuyên tâm lo chuyện triều chính, mỗi ngày phê tấu chương không dưới bảy canh giờ. Hoàng thượng có được phong thái của tiên đế, triều chính tuy quan trọng nhưng cũng mong hoàng thượng giữ gìn long thể, đừng nên để tổn hại.” Hoàng đế có phần cảm kích, “Đình Ngọc đối với trẫm vừa là quân cũng vừa là sư. Sau này các hoàng tự của trẫm cũng hy vọng được người chỉ dạy.” Trương Đình Ngọc có kinh hoàng, “Vi thần đa tạ hoàng thượng hậu. Trời cũng không còn sớm nữa, vi thần cáo lui trước.” Hoàng đế nói: “Lý Ngọc, cung tiễn Trương đại nhân.” Lý Ngọc vội vàng tiễn Trương Đình Ngọc đi ra. Khóe miệng hoàng đế lộ ý cười thản nhiên, dáng vẻ ôn hòa mười phần, nhưng ánh mắt một ý cười cũng không thấy, lấy bút lông chấm đầy mực nước mới nói: “Vương Khâm, ngươi là tổng quản thái giám của trẫm, chuyện lớn nhỏ đều phải thận trọng chú ý, thế mà lúc nào cũng có sai lầm. Làm sai nhiều như vậy ngươi mau giao lại cho Lý Ngọc làm đi.” Vương Khâm trong lòng thấy giá lạnh, đầu gối mềm nhũn, gượng gạo nói: “Nô tài tuân chỉ.” Hoàng đế chăm chú xem tấu chương, “Ra ngoài đi, không cần xuất hiện trước mặt trẫm.” Vương Khâm vâng lời ra ngoài, đi thật nhẹ nhàng, sợ sẽ lại quấy rầy hoàng đế. Rời khỏi Dưỡng Tâm điện, Vương Khâm chợt nhận ra sau gáy ông ta đầy mồ hôi lạnh, bàn chân mềm nhũn, ngã gục lên nền đá xanh cẩm thạch. Tiểu thái giám canh cửa vội vàng chạy đến đỡ lấy nói: “Tổng quản mau đứng lên, đêm thu đá lạnh, trông ngài tội nghiệp quá.” Vương Khâm kiên quyết hất tay tiểu thái giám ra, trông thấy phía xa xa, Lý Ngọc đang tiễn Trương Đình Ngọc quay về, oán hận mắng tiểu thái giám: “Vương Bát Dương, dám cậy thông minh đùa cợt trước mặt ta cơ đấy!” Lời còn chưa dứt, tiếng hoàng đế đã truyền qua cánh cửa, “Di giá đến Trường Xuân cung.” Vương Khâm vội vàng đứng lên, cao giọng nói hết sức: “Hoàng thượng khởi giá “..