Việc Quy Hải Mặc cầu hôn liên quan đến cuộc sống cuối đời của Thẩm Hi, quan trọng hơn cả là tương lai của Thẩm Hiệp, điều này khiến Thẩm Hi không thể không suy nghĩ kĩ. Có lúc, nàng cảm thấy vì tương lai của con trai, nàng gả cho Quy Hải Mặc là tốt nhất, dù sao trên đời này giờ chỉ còn 4 Võ thần, nàng có thể gả cho một trong số đó đúng là chuyện may mắn nhất trần đời. Quan trọng nhất là nếu được Quy Hải Mặc dạy dỗ, Thẩm Hiệp ắt sẽ tiến bộ vượt bậc, có lẽ tương lai sẽ trở thành một Võ thần cũng chưa biết được. Nhưng nghĩ lại, Thẩm Hi lại do dự, sợ làm tổn thương đến con trai. Nếu Quy Hải Mặc đối xử tốt với thằng bé thì tốt, nhưng nếu hắn không thích nó, vậy tương lai của Thẩm Hiệp đã xong, dù sao giữa hai người lớn không có tình cảm gì, cái Quy Hải Mặc cần là nàng chăm sóc Thanh Phù cho tốt, mối quan hệ phu thê giữa hai người không có sự ngang hàng, nên dù cho Thẩm Hiệp có bị ủy khuất nàng cũng không thể giúp gì được cho con trai. Mỗi khi nghĩ đến tái giá, Thẩm Hi sẽ không ngừng mà nhớ tới Người mù, quãng thời gian trước đây hai người chung sống bên nhau, cùng nằm trong chăn sưởi ấm, lúc triền miên ngọt ngào, những ngày nắng xuân ấm áp Người mù nằm trên ghế phơi nắng, nàng gối lên đùi hắn, bầu không khí ấm áp nhẹ nhàng, trong những đêm đông, khi cả thế giới đều yên tĩnh, chỉ có hai người cảm nhận độ ấm, hơi thở của đối phương tồn tại bên cạnh mình, cảnh tượng vô cùng êm đềm hạnh phúc. Nàng sẽ quên sao? Có thể quên đi Người mù, sống cùng một người khác? Thẩm Hi lần lượt tự hỏi, mỗi lần tự hỏi hình bóng của Người mù lại càng hiện lên rõ nét trước mắt nàng. Khuôn mặt bình tĩnh của hắn, tính trẻ con khi đeo khăn lên che mắt, thái độ hài hòa thản nhiên khi ngồi ở ngoài sân sưởi nắng, sự dịu dàng hiếm có trong những đêm tối tuyệt vọng trước ngày hắn mất... Mỗi khi nhớ đến, tim Thẩm Hi đau nhói, nàng cảm giác đau lòng đến không thể hô hấp, tình cảm, nỗi tưởng niệm sắp trào dâng khỏi mạch máu, tình cảm tưởng chừng như đã quên, nhưng khi nhớ đến, ta mới nhận ra nó đã ăn sâu vào trái tim, khi mất đi rồi mới nhận ra đau đớn đến nhường nào. Có một người khi ở bên sẽ yên lặng bình thường, ta cảm thấy không quan trọng, nhưng khi mất đi rồi mới nhận ra người đó quan trọng đến nhường nào, tựa như cá rời khỏi nước vậy, đau lòng đến khó có thể hít thở bình thường. “Người mù, Người mù...” Thẩm Hi nhẹ nhàng gọi tên hắn, sau đó là nước mắt tràn mi không ngừng lại được. Nàng bị những cảm xúc lộn xộn này quấn lấy, rất nhanh liền gầy rộc xuống, mỗi khi soi gương Thẩm Hi sẽ luôn cười nhạo người phụ nữ tiều tụy khô khốc trong gương không biết gì là buông bỏ, ngu ngốc đáng buồn. Cuộc sống trong Thượng Ngư thôn ngày càng tốt lên, đến Tết Đoan ngọ tháng năm, người trong làng góp tiền mời một vị tiên sinh về dạy chữ cho lũ trẻ, lại mời thêm một vị sư phụ dạy bọn nhỏ tập võ công, tất cả trẻ con trong làng đều được đi học, tùy vào tư chất mà học võ hay học văn. Thẩm Hiệp mới hơn 2 tuổi, Thẩm Hi nghĩ con trai còn quá nhỏ nên không để nó đi học. Nhưng có một lần thằng bé với hai đứa trẻ nhà Phương tỉ là Tiểu Hồng với Tiểu Hải cùng mấy đứa trẻ nữa đi chơi, buổi tối được sư phụ dạy võ dẫn về nhà, vị nam tử tuổi chừng 40, cao lớn cường tráng kia nói Thẩm Hiệp là đứa trẻ có căn cốt tốt nhất mà mình từng gặp, ông muốn bồi dưỡng thằng bé, mong Thẩm Hi đồng ý cho con trai đi học. Võ sư đi rồi, Thẩm Hi mới quan sát kĩ con trai mình, thật sự không nhìn ra nó có chỗ nào đặc biệt. Nhưng dù sao thì sư phụ đã khen là tốt thì chắc chắn là tốt, dù sao việc lấy kiếm nghịch ngợm gây họa của con trai đúng là số một trong làng, không có đứa trẻ nào bì kịp. Nàng không biết võ sư huấn luyện dạy dỗ con trai ra sao, cũng không dám đi xem, nàng biết tính mình chiều con, lại mềm lòng, nếu nhìn thấy con trai chịu khổ chắc chắn sẽ muốn dẫn con về. Có lúc Thẩm Hi cũng không hiểu được, một đứa trẻ mới hơn 2 tuổi thì học được cái gì? Tư duy của thằng bé vẫn chưa được phát triển hết, hoàn toàn chỉ là một đứa trẻ, không phải thiên tài gì, võ sư làm thế nào dạy được? Giống như các giáo viên mầm non, dỗ dành nhẹ nhàng sao? Tuy nàng hiếu kì nghĩ thầm vậy nhưng vẫn không dám đi xem lần nào, mỗi khi nàng nhịn không được, luôn sẽ nhớ tới lời răn của Quy Hải Mặc: Ngươi sẽ làm hỏng thằng bé. Thẩm Hiệp tựa hồ học rất vui vẻ, mỗi sáng dậy ăn cơm sáng xong sẽ tích cực đi đến tràng luyện võ, về chuyện đi chơi hay đi học, Thẩm Hi không hề hỏi tới, coi như là con trai đi nhà trẻ. Tuy vậy thằng bé lại rất chịu khó, chưa bao giờ đi muộn hay nghỉ giữa chừng, mỗi khi nhìn nó kiên trì như vậy, nàng lại nhớ đến Người mù. Tuy nàng không sống chung với hắn được bao lâu nhưng cũng đủ để lý giải tính cách của hắn, từ tiết tấu 5 ngày một lần đến xem, hắn là một người có ý thức tự chủ rất tốt. Nếu không phải Người mù bị tàn tật, có lẽ hắn cũng có thể trở thành một võ giả vĩ đại. Nghĩ đến Người mù, Thẩm Hi lại nhớ đến đoạn thời gian hai người chung sống, dù thời tiết rét lạnh khủng khiếp, cuộc sống nghèo khó nhưng lại vô cùng vui vẻ thoải mái, mỗi tối nằm trong vòng tay Người mù nàng luôn rất thỏa mãn ngọt ngào. Một người chỉ thuộc về nàng, không hề phản bội, tranh cãi, người nam nhân tốt như vậy có lẽ đã không có người thứ hai trên cõi đời này. Nhìn thấy Thẩm Hiệp đã chạy vào đến sân, Thẩm Hi nhủ thầm: Người mù, đây là con trai của ngươi. Ngươi xem, nó rất giống ngươi, ngươi biết chứ? Ngày 16 tháng 5, Thượng Ngư thôn rốt cuộc có thêm một chuyện vui: Thanh niên lớn tuổi Trương nhị lang cưới vợ, kết thúc cuộc sống độc thân 28 năm. Từ khi Thượng Ngư thôn giàu lên, có không ít người tới làm mối mai cho Trương nhị lang, Phương tỉ vui mừng mà chọn đi chọn về, nhưng dù Phương tỉ có vui đến đâu, Trương nhị lang luôn im lặng không ý kiến, nếu Phương tỉ có ép hỏi ghê quá, hắn sẽ lẳng lặng né tránh. Phương tỉ hiểu tâm tư của Trương nhị lang, nhưng làm thế nào được, nàng đã hỏi qua Thẩm Hi nhiều lần, người ta không chịu, nàng cũng đành bỏ qua. Cuối cùng Phương tỉ hung hãn dọa: “Trưởng tẩu như mẹ” mà bắt Trương nhị lang ngoan ngoãn thành thân, chọn cho hắn một cô nương hiền lành chịu khó, Trương nhị lang không dám chối nữa, đành chấp nhận lo việc cưới xin. Tảng sáng ngày hắn thành thân, Thẩm Hi tỉnh ngủ đi ra mở cửa đã thấy 2 gánh củi chỉnh tề đặt ngoài cửa. Nàng nhìn phía Trương gia đang nổ pháo vang dồn, lại nhìn nhìn 2 gánh củi còn vương sương sớm, trong lòng rối loạn. Nàng không biết nói gì hơn, đành thở dài mang củi vào nhà. Lúc đi tiệc mừng, Thẩm Hi biếu một phần tiền nặng, coi như là tâm ý của mình. Thời gian qua 3 tháng, Thẩm Hiệp vẫn luôn ngoan ngoãn đi luyện võ trường, ngyaf ngày vui vẻ ra cửa, thân thể càng rắn chắc khỏe mạnh. Thẩm Hi biết vị võ sư Vương sư phụ kia nhất định hết lòng dạy dỗ con trai mình nên cố ý mua không ít tặng lễ đến cảm tạ ông. Buổi tối Trung thu, mọi người trong thôn dưới sự hiệu triệu của Tam thúc công mà tổ chức một hồi liên hoan lớn. Mọi người ăn uống xong, dọn dẹp bàn tiệc, đặt hạt dưa, hoa quả với bánh Trung thu lên, cùng nhau ngắm trăng nói chuyện. Thẩm Hi đang nói chuyện với tức phụ ngồi bên, Vương sư phụ gọi nàng đi ra. “Có chuyện gì sao Vương sư phụ?” Vương sư phụ dẫn Thẩm Hi ra chỗ hơi xa đám người, sau đó mới nói: “Thẩm phu nhân, mấy hôm nữa người của Kiếm Thần sơn sẽ đến đây tuyển chọn các đứa trẻ có căn cốt tốt lên núi tập võ, đến lúc đó ta sẽ dẫn Thẩm Hiệp đi Thất Lí Phổ để họ khảo sát. Xem căn cốt của Thẩm Hiệp, ta nghĩ chắn họ sẽ chọn nó. Thẩm phu nhân, trước tiên ngươi sửa sang lại hành lí cho thằng bé, bảo nó chuẩn bị, đến hôm đó ta tới lấy rồi dẫn nó đi.” Đi vào Kiếm Thần sơn tập võ? Vậy không lẽ con trai sẽ phải xa nàng? Thẩm Hi vội hỏi: “Vương sư phụ, vậy nếu Thẩm Hiệp lên núi thì ta có được đi theo không?” Vương sư phụ trừng Thẩm Hi một cái: “Vớ vẩn. Thẩm Hiệp đi học võ, ngươi một nữ nhân đi theo làm cái gì? Ngày nào cũng được ngươi che chở, nó có thể trưởng thành sao?” Nghĩ đến Thẩm Hiệp mới nhỏ thế này mà phải rời khỏi mẹ, Thẩm Hi vô cùng gấp gáp, bất chấp lễ nghi mà phản bác: “Không được, ta không đồng ý, con trai ta mới nhỏ thế này, ta không muốn cho nó phải chịu khổ, việc này không được, ta không đồng ý!” “Ngươi! Đúng là lòng dạ đàn bà! Hạn hẹp!” Vương sư phụ tức giận đấm mạnh vào thân cây bên cạnh, nổi giận đùng đùng xoay người rời đi. Thẩm Hi cũng trở lại bàn, tìm được Thẩm Hiệp đang mải mê lấy kiếm đâm chuỗi quả nhỏ, ôm chặt con trai vào lòng không dám buông tay. Con nàng chưa đến 3 tuổi, nhỏ tí xíu đã phải xe mẹ đi đến nơi xa lạ, không biết sẽ phải ăn thêm bao nhiêu khổ. Không được, nàng không thể để con trai đi! Thẩm Hiệp không giãy dụa để mặc cho mẹ ôm lấy, chỉ là vươn cái tay cầm kiếm ra đâm đâm mấy mảnh vỏ dưa hấu dưới đất. Thẩm Hi nghìn vạn không muốn con trai đi xa, nàng cả hai đời mới có một đứa con, Thẩm Hiệp chính là bảo bối của nàng, cốt nhục tương liên, cho dù ai nói gì cũng không chịu để thằng bé đi. Dù ai bảo nàng tùy hứng, không suy nghĩ cũng được, nàng không quan tâm, chỉ mong giữ được con trai ở bên. Sáng sớm hôm sau mới hơn 4 giờ Thẩm Hiệp đã dậy, ra ngoài sân cầm kiếm chém lung tung, Thẩm Hi ôm chặt con trai vào lòng, nén lệ nói: “Con trai, không cần phải vất vả luyện võ nữa, nương sẽ cố gắng kiếm thật nhiều tiền, con chỉ cần ở nhà làm phú ông địa chủ là được, không cần đi tới Kiếm Thần sơn, đừng rời xa nương được không?” Thẩm Hiệp chui vào lòng Thẩm Hi, yên lặng duỗi tay nhỏ ra lau nước mắt cho nàng, không nói một lời. Việc làm của con trai làm Thẩm Hi nhớ đến Người mù khi trước, nàng không khỏi thấp giọng nức nở: “Người mù, nếu ngươi còn ở đây có phải mọi chuyện sẽ không đi đến nước này đúng không...?” Thẩm Hi ôm con trai khóc một hồi lâu, đến khi trời sáng hẳn nàng mới buông tay ra đi nấu cơm sáng, Thẩm Hiệp thấy nương đi rồi, bắt đầu lấy mấy cây hoa cúc thưa thớt mà Thẩm Hi vất vả lắm mới trồng được ra ‘luyện công’, sau đó ‘cúc hoa tàn, rụng đầy đất’, lá xanh bay múa tán loạn. Thẩm Hi vốn nghĩ rằng nàng không chịu cho con trai đi, Vương sư phụ sẽ không dạy Thẩm Hiệp nữa, nhưng khi con trai đi học, Vương sư phụ vẫn nghiêm túc dạy dỗ như thường, nàng nghĩ đến tính cách quật cường của thằng bé, thức thời không ngăn con học nữa. Nàng mới đi từ luyện võ trường về, đã thấy Tam thúc công nhờ người đến gọi đi qua một chuyến, Thẩm Hi vội để việc xuống qua một bên, đi qua nhà Tam thúc công. Trong nhà Tam thúc công không có ai khác, chỉ có mỗi ông đang ở nhà, giống như đang đợi Thẩm Hi vậy. Thẩm Hi làm lễ chào, dò hỏi: “Tam thúc công, ngài tìm ta tới có chuyện gì không ạ?” Tam thúc công nở nụ cười móm mém, hòa ái nói: “Thẩm nương tử, ngồi xuống.” Thẩm Hi nghe lời ngồi xuống, yên lặng nghe. Tam thúc công không dong dài, nói thẳng: “Lúc này người nha sai tới nói là sắp đến thời gian tra hộ tạ, lần tra trước đã được 3 năm, nên chắc ngươi còn không làm hộ tạ ở đây. Mấy hôm nay ngươi tìm thời gian đi Thất Lí Phổ một chuyến, vào nha môn xử lý việc này đi. Nếu không về sau ngươi không có hộ tạ, ta có thể bắt ngươi làm người hầu đấy.” Lão gia tử nói xong chuyện chính, khó được lại nói đùa, nói xong, ông lại cười. Thẩm Hi biết ông đang nhắc mình nhanh chóng làm hộ tạ, vội gật đầu: “Lão gia tử nói đúng, vậy mai ta sẽ đi ngay.” Từ nhà Tam thúc công đi ra, Thẩm Hi về nhà tìm ra tờ hộ tạ mang ra từ thôn trấn đã biến mất, trên đó viết Giả Như Chân vào Giả Thẩm thị Tây, chữ viết vẫn rõ nét mực, người đã không còn. Nàng nhìn hộ tạp, nhớ đến thời gian ở Tây Cốc trấn, Quách thẩm thiện lương, Thúy Cô sang sảng thoải mái, thư sinh Thanh Hiên đang tuổi trẻ bồng bột tài cao gan lớn, các cô nương dịu dàng lại thẹn thùng đáng yêu trong trấn, những khách quen đến quán cháo mỗi ngày... Các sinh mạng đầy sức sống, từng khuôn mặt tươi cười lần lượt hiện lên như một bộ phim điện ảnh đen trắng xuất hiện trong đầu óc Thẩm Hi, mọi người khi đó sống rất vui vẻ, có người kham khổ, có người tiết kiệm nhưng không ai mất niềm tin vào cuộc sống, có ai lại ngờ đến kết cục của mọi người lại thảm thiết đến thế? Họ rời khỏi thế gian bằng con đường tàn khốc đen tối như vậy, cuối cùng không có chút dấu vết nào còn lại. Nhớ đến đoạn kí ức đen tối đó, Thẩm Hi không có cách nào bình tĩnh nổi. Cho đến khi ngón tay sờ đến cái tên viết đậm bằng mực đen kia, Thẩm Hi mới đỡ bi thương một chút. Giả Như Chân, Giả Như Chân..., thân ảnh thon gầy nằm phơi nắng trong sân lúc trời xuân ấm hiện lên trước mắt Thẩm Hi...