Brand Hamilton đã tự chuốc lấy quá nhiều phiền muộn cho bản thân. Đây là suy nghĩ của Marion khi nàng đánh giá cái khoảng cách giữa chiếc giường và bàn trang điểm. Trên bàn trang điểm là cái ví dẹp[3], là cái mà nàng đã mang đến nhà hát. Nàng không thể nhớ đã đánh rơi nó, nhưng nàng phải cho rằng nàng chắc đã đánh rơi nó khi bị té ngã. [3] Nguyên văn: pochette: cái ví hình phong thư dèm dẹp để các nàng bà dùng vào những bữa dạ yến hay tham dự lễ lạc nào đó v.v. cho gọn và nhẹ. Một cô hầu gái đã mang nó lên khi bác sĩ đến, và từ thời điểm đó, nàng không khỏi cứ lướt mắt nhìn đến nó. Vụ tai nạn tại nhà hát cơ hồ như không có vẻ là một chuyện vô ý nữa, và nàng không thể hiểu vì sao nàng đã không nghi ngờ điều gì đó sớm hơn. Nếu nàng đã được cho uống một trong những loại bột thuốc của bà Dyce, nàng đã có thể tự mình đi đến phía bên kia căn phòng. Cô Fanny đã thậm chí tìm được một cây gậy cho nàng mà bây giờ đang tựa cạnh thành giường. Tuy nhiên, Ông Hamilton đã đề cập đến một từ đáng sợ “chấn thương não”, và nó đã đủ để thuyết phục bác sĩ Mendes. Chấn thương não và thuốc phiện là những thứ không thể pha trộn. “Cô chỉ bị bầm mấy ngón chân thôi, cô à. Cô không cần phải dùng thuốc phiện để giảm đau.” Ông bác sĩ vui tính nói. “Sáng mai thì mọi thứ sẽ trở lại bình thường thôi.” Nói thì dễ, nhưng các ngón chân của nàng vẫn còn đau nhói và nàng thực sự muốn bước đến bàn trang điểm khi mọi người còn đang trong phòng khách của Fanny dưới lầu để dùng các món giải khát. Theo yêu cầu của Fanny bữa tiệc tại khách sạn Clarendon chỉ đơn giản được chuyển đến Quảng trường Hanover sau khi bà biết được thương tích của Marion đã không có gì nghiêm trọng hơn là vài ngón chân bị bầm tím. Nàng ngẫm nghĩ về việc té ngã tại nhà hát một hồi lâu, hình dung lại từ đầu khi nàng hụt bước. Không thể nghi ngờ rằng nàng đã bị xô ngã, nhưng hầu như không thể tin rằng đó là một vụ cố ý. Khó tin hay không, nàng cũng phải tin. Đây không phải là sự cố rủi ro đầu tiên xảy với nàng. Chỉ vào tuần trước, khi nàng đang xem pháo hoa tại khu vườn Vauxhall, ai đó đã xuất hiện từ trong bụi cây đẩy nàng ngã rồi chạy đi với cái túi xách tay[4] của nàng. Chiếc túi đã được trả lại ngày hôm sau. Người đàn ông đem trả không để lại danh tính. [4] nguyên văn: reticule: túi xách có dây thắt miệng. images Cũng giống như lần này. Nàng chưa từng nghĩ đến là có ai đó đang cố tìm cách giết nàng cho dù chỉ là một khoảnh khắc. Những vụ rủi ro thật là quá nhỏ không đủ để giết người. Nhưng chắc chắn là có ai đó đã đang cố làm nàng sợ hãi. Phải chi nàng có thể lấy được chiếc ví dẹp của mình, nàng sẽ sớm biết là suy nghĩ của mình là đúng hay nàng đã chỉ đơn thuần cho phép trí tưởng tượng của mình chạy loạn. Nghiến chặt răng, nàng đẩy chăn mền khỏi người và quẳng chân qua một bên thành giường. Bây giờ nàng có thể cảm thấy nỗi đau nhức và thống khổ khác mà nàng phải chịu với từ cú ngã này - đầu gối bị trầy xước, những bắp thịt ở eo lưng thắt lại từng cục tròn, và những cái thốn đau từng cơn phía sau đôi mắt. Nàng với tay đến cây gậy khi cánh cửa phòng chậm chạp mở ra. Phoebe đã đứng đó, trù trừ tại ngưỡng cửa, nhưng khi cô bé nhìn thấy Marion đang đứng trên đôi chân của nàng, khuôn mặt nhỏ của cô bé nở rộ với nụ cười toe toét. “Em nghe nói chị bị ngã xuống cầu thang tại nhà hát”, cô bé nói. “Chị chỉ bị bầm những ngón chân thôi. Không có đau gì cả.” Marion nói tỉnh bơ. Phoebe đã bị ám ảnh khi nghe đến những vụ tai nạn. Ba năm trước, khi cô bé vừa bảy tuổi, cô đã bị té từ trên lưng ngựa và bị gãy chân. Xương chân của cô đã không lành hẳn. Kết quả là khi Phoebe bước đi, cô phải khập khiễng một cách vụng về. Marion đã cố không làm lớn chuyện của cô em này vì Phoebe ghét bị coi là một người khuyết tật. Nhưng có đôi lúc khi nàng nghĩ rằng không có ai để ý, nàng thường ngắm nhìn Phoebe và lo lắng khi thấy gương mặt xanh xao của cô bé đã trở nên gầy guộc như thế nào. Đã quá khuya. Nàng nên đuổi Phoebe về phòng với những lời trách mắng nhẹ nhàng. Thay vào đó, nàng ngồi lại xuống giường và vỗ nhẹ vào tấm nệm, mời Phoebe đến ngồi cạnh. “Em bị lạnh kìa,” nàng nói khi Phoebe rúc vào chăn mền bên cạnh nàng. Nàng nhìn xuống một gương mặt mà rất có thể là của nàng khi nàng còn là một bé gái mười tuổi - đôi mắt màu xám, chiếc cằm bướng bỉnh, và làn da xanh xao để phù hợp với mái tóc hoe của cô. Cả hai chị em đều giống mẹ, trong khi Emily lại có làn tóc đen tuyền của cha. Marion nghĩ sự khác biệt giữa Phoebe và nàng chính là khi mười tuổi, nàng đã có một nhóm tàn nhang rải rác bừa bãi trên mũi và má. Phoebe đã dành quá nhiều thời gian trong nhà chúi mũi vào một quyển sách. Marion hy vọng rằng chuyện này sẽ được thay đổi khi chị em nàng dọn đến Longbury. Tại huyện Lake có những ngọn đồi và thung lũng hùng vĩ khiến chuyện di chuyển trở nên khó khăn. Tiết trời thì cứ mưa không biết ngừng nghỉ. Marion cưỡng lại sự cám dỗ để ôm và hôn em và rốt cuộc chỉ xoa bóp để đem một chút ấm áp đến chân tay lạnh cóng của cô bé. “Chị biết tại sao em lại lạnh rồi”, Marion nói. “Em không phải mới vừa từ giường của mình đến đây. Em đã soạn lại cái mẹo cũ chứ gì, nghe trộm người ta nói chuyện.” Một trong những trò giải trí mà Phoebe yêu thích nhất là trốn phía sau bức màn trên lan can và nhìn xuống khách khứa ra vào nhà Fanny. “Em muốn biết những gì đã xảy ra với chị,” Phoebe phản đối: “và khi em nghe Ông Hamilton nhắc đến tên của chị, em liền dừng lại để lắng nghe.” Marion định mở miệng rầy em nhưng bỗng nghĩ lại. “Ông Hamilton đã nhắc tên chị?” nàng hỏi một cách ngây thơ. Phoebe gật đầu. “Anh ấy nói rằng chị rất có thể đã bị gãy xương ngón chân khi bị ngã.” “Anh ta nghĩ vậy sao?” Điều đó sẽ lý giải tại sao cơn đau không chịu thuyên giảm. “Phải, nhưng ông bác sĩ nói rằng không thể làm gì về chuyện ấy và tự nó sẽ dần lành lại.” “Họ không thể làm gì!” Marion rất bất bình. “Họ có thể cho chị một loại bột thuốc của bà Dyce.” “Không phải chị nói nó không đau sao?” Marion khoanh tay trước ngực. Phoebe luôn giỏi bắt bẻ những câu nói dối vô hại của người lớn. “Nó thật đau,” nàng nói: “khi chị mới về nhà. Giờ thì đã không còn đau nhiều như vậy nữa.” Phoebe liếc nhìn Marion, sau đó nàng ấy cũng khoanh tay trước ngực mình. Quan sát cử chỉ này, Marion cố nén một nụ cười. Em gái mong muốn được giống như nàng là một hứng thú nhất thời, nàng hy vọng là vậy. Các thần tượng thường làm thất vọng. “Còn có điều gì khác...” Nàng hắng giọng. “Còn có điều gì khác nói về chị không?” “Không. Không nói rõ tên. Nhưng em nghe cô họ Fanny nói rằng nếu Ông Hamilton tự tìm cho mình một người vợ thì quả thật là tốt.” Marion kinh ngạc. “Fanny nói vậy với Ông Hamilton?” “Không, tất nhiên là không. Với dượng Reggie, sau khi dượng nói với cô rằng dượng sẽ không quá ngạc nhiên nếu Ông Hamilton trở thành thủ tướng nay mai. Có phải cô ấy đã nghĩ đến chị không, Marion?” Marion bật một tiếng cười ngắn ngủi. “Không đâu! Điều gì khiến em nghĩ như thế?” “Chị không thích anh ta sao, Marion? Em biết anh ấy thích chị. Và nếu chị kết hôn với thủ tướng thì sẽ thật tuyệt diệu, phải không nào? Em có thể viết nó trong cuốn lịch sử gia tộc và tất cả mọi người sẽ muốn đọc nó.” Marion nghĩ đây là kết quả khi không tuân thủ một trong những quy tắc trọng yếu của mình. Mọi người đều có quyền riêng tư của mình. Nàng cũng không tốt hơn gì so với Phoebe, nhưng ít nhất Phoebe có lý do rằng cô chỉ là một đứa trẻ. Nàng đã mở nắp chiếc hộp Pandora[5] và tốt hơn hết nàng nên đóng nó lại trước khi chuyện sát nhân và tội ác được phóng thích đầy thế giới. [5] Pandora’s box: khi mở hộp thì cả lô tai nại sẽ gieo xuống. “Lịch sử gia tộc em làm đến đâu rồi?” Sở thích mới nhất của Phoebe là biên soạn lại lịch sử gia tộc. Cô bé luôn có những trò mới để đầu óc được bận bịu, và khi nào sự hứng thú của Phoebe nhạt phai, các chị của cô lại nghĩ ra cái gì mới để cô bận bịu trở lại. Nếu cô là một đứa trẻ sôi động, mọi thứ hẳn sẽ khác. Nhưng cô bé lại rất dễ bị mỏi mệt và dành nhiều thời gian trong nhà. Sách cô đọc vượt ra ngoài tầm tuổi của cô, khâu vá, đan thêu, chơi đàn dương cầm, phát họa, và viết nhật ký. Lịch sử gia tộc là ý tưởng của Emily, và Marion đã miễn cưỡng đồng ý, vì biết rằng sự cấm đoán sẽ đưa tới những câu hỏi mà nàng không muốn trả lời. Phoebe ngáp thật dài: “Không có gì nhiều trong các bức thư của dì Edwina, và dì ấy đã không viết thư thường xuyên, phải không?” Marion đã không đề cập đến sự ghẻ lạnh giữa mẹ và dì Edwina. “Có lẽ Mama đã không giữ tất cả những lá thư của dì Edwina, chỉ giữ những bức thú vị.” “Ừ, nhưng điều đó không giúp ích gì cho em. Điều duy nhất em biết được là ông và bà ngoại Gunn rời khỏi Brighton để chuyển đến Longbury sau khi họ thành hôn, và nơi đó chính là nơi con cái của họ đã được sinh ra.” “Ông ngoại Gunn là một đối tác tại một văn phòng luật sư địa phương. Đó là căn nhà của ông mà dì Edwina đã thừa kế, và bây giờ đến lượt chúng ta.” “Em biết chuyện đó rồi”, Phoebe nói. “Em biết về Mama và dì Edwina, nhưng em không biết nhiều về Hannah.” “Ừm, dì ấy đã qua đời nhiều năm về trước, rất lâu trước khi em được sinh ra.” Nàng ngẫm nghĩ một lúc: “Chị nhớ rằng dì đối xử tốt với chị.” “Chị biết dì ấy?” Marion mỉm cười. “Chị đã được bảy tuổi khi chúng ta đến thăm Longbury, và dì Hannah lúc đó chắc khoảng hai mươi. Dì ấy nhỏ tuổi hơn các chị của dì khá nhiều. Dì ấy đã chơi với chị, đọc truyện cho chị nghe, và dẫn chị đi những chuyến tản bộ thật dài qua khu rừng với con chó của dì.” Marion cảm giác một cái giật mình nhỏ. “Chị đã quên mất về con chó. Scruff - đó là tên của chú chó. Nó rất yêu mến dì Hannah.” Phoebe ai oán nói: “Trước đây chị chưa bao giờ kể với em chuyện này.” “Nó đã xảy ra một thời gian rất lâu trước đây. Đó là tất cả những gì chị nhớ.” “Còn Mama? Mẹ không bao giờ nói đến dì Hannah. Mẹ không thích dì ấy sao?” Marion choàng một tay ôm lấy vai của Phoebe. “Mẹ không nói đến dì,” nàng nói: “bởi vì nó làm mẹ buồn. Papa cũng như thế, em không nhớ sao, sau khi Mama qua đời?” Phoebe xù lông nhím. “Vâng, em nghĩ điều đó thật phi lý! Nếu em chết đi, em muốn chị luôn nhắc đến em. Em không muốn bất cứ ai quên đi em.” “Chị hứa”, Marion nói một cách long trọng: “sẽ nói về em nhiều đến nổi mọi người bịt chặt tai khi họ thấy chị tới.” “Em nói thật lòng!” “Chị cũng vậy. Chị có lẽ sẽ bị suy sụp tinh thần và mòn mỏi đi để trở thành một chiếc bóng của bản thân lúc xưa. Đủ rồi!” Nàng giơ tay ra hiệu cho Phoebe im lặng. “Chị chắc bị hư não rồi, lại cho phép em thức khuya đến thế. Đừng nghĩ rằng chị không biết em đang cố ý [làm chuyện này], khiến cho chị nói chuyện để chị quên đi bây giờ đã muộn thế nào.” Nàng kéo lại chăn mền và chỉ về hướng cánh cửa. “Vào giường!” Phoebe với ánh mắt đầy hy vọng nhìn vào mặt chị của cô, dường như nhận thức được trò chơi đã kết thúc, và leo ra khỏi giường. Marion nói: “Chị không có được cái ôm chúc ngủ ngon sao?” Phoebe chuyền từ chân này qua chân kia. “Tất nhiên. Nhưng không có được hôn đâu. Em đã quá lớn rồi.” Marion phải mỉm cười. Nàng sẽ không xúc phạm Phoebe bằng cách chọc lêu lêu cái quan niệm là cô bé đã quá lớn để được hôn. Cô bé chỉ nhận được một cái ôm chóng vánh, sau đó Phoebe khập khiễng bước tới cửa. “Và,” Marion gọi với theo cô bé: “không có thơ thẩn ở ban công nhé.” Khi cánh cửa đã được đóng lại, Marion lại chìm lỉm trong những chiếc gối. Nàng không tin rằng dì Hannah đã chết bao nhiêu năm trước đây. Từ mẩu chuyện vụn vặt của những cuộc đàm thoại giữa cha mẹ nàng mà nàng đã loáng thoáng nghe được, nàng nghi ngờ rằng dì Hannah đã có thể trốn theo trai. Nếu là vậy, thì nó đã là một bí mật mà cha mẹ nàng không muốn chia sẻ cùng con cái, một bí mật đã thuộc về quá khứ, và nàng vui lòng để nó yên nghỉ tại nơi đây. Nàng không nghĩ rằng Phoebe sẽ khám phá ra sự thật, nhưng nếu cô bé có tìm ra, thì đó cũng không phải là chuyện kinh thiên động địa gì cả. Ý tưởng đó lại kéo ánh mắt nàng đến bàn trang điểm và chiếc ví dẹp của nàng. Nàng thở dài bước ra khỏi giường và xem thử mấy ngón chân bị bầm dập của mình. Nàng phát hiện rằng chúng không bị sưng, nhưng chỉ ép mạnh một chút đã khiến nàng nhăn nhó. Nàng với lấy cây gậy và dùng nó để giữ thăng bằng, cò cò trên chiếc chân lành của mình để đến bàn trang điểm. Ngay bên trong cái ví dẹp, nhét cạnh khăn mùi soa, nàng đã tìm thấy nó. Im lặng là vàng. Cô đã được cảnh báo. Nàng vò nát tấm giấy trong lòng bàn tay, thầm nghĩ rằng chưa có ai đã đánh giá sai lầm về một người đàn ông như nàng đã đánh giá David. *** “Thực sự đấy, Brand, tôi không biết làm sao cậu lại có thể sống trong hoàn cảnh thế này.” Ash Denison tìm thấy cái chai trong tủ búp phê và rót một ít brandy vào ly của mình. “Đâu phải là cậu nghèo khó. Cậu có thể sống như một ông vua nếu cậu muốn. Sao cậu lại chọn để sống trong căn nhà ảm đạm tại phố Thánh James trong khi anh có thể sống thoải mái tại Albany hoặc phố Bond?” “Nơi đó quá tân thời đối với tôi.” Brand liếc quanh bên trong nội thất được trang trí môt cách đơn giản. “Những thứ này vừa đủ cho bản thân tôi, và tôi không cho ai biết địa chỉ. Nếu ai đó muốn tìm tôi, thì hắn có thể liên hệ tại văn phòng của tôi tại đường Frith. Cậu sẽ thấy rất ngạc nhiên vì có biết bao nhiêu độc giả muốn tìm tôi chỉ để nhổ vào mặt tôi thôi.” [Ôi, sao cảnh này giống lão Độc vật thế? - Vy] “Vậy còn gì là cái đẹp và tao nhã?” Ash chiếm một chiếc ghế bọc da ở phía bên kia lò sưởi và nhìn chiếc ly trên tay với một vẻ ghê tởm khó dấu. “Những chiếc ly và bình rượu thủy tinh xinh đẹp đâu? Những món đồ bạc đắt tiền cần phải trưng bày trong tủ búp phê nữa? Còn rèm trướng nhung nữa chứ?” Những lời của Ash gợi lại trong tâm trí của Brand một hình ảnh của [nhà dòng] Priory, nơi cư trú huy hoàng của cha chàng mà đã được phô bày tất cả những thứ xa hoa và lộng lẫy của nó. Chàng đã sống ở đó một thời, nhưng chàng chưa từng gọi đó là nhà. Với chàng, nhà chính là nơi ông ngoại đã nuôi dưỡng chàng. Và sau khi ông qua đời, nhà là một thứ gì chàng đã không còn suy nghĩ đến nữa. Chàng hớp một ngụm brandy rồi nói: “Tôi không cần những cái gọi là những thứ tốt đẹp hơn trong cuộc sống để khiến tôi cảm thấy hạnh phúc. Một ngọn lửa ấm cúng trong lò và vài chiếc ghế thoải mái là đã đủ cho nhu cầu của tôi. Đừng lo lắng, Ash ạ. Tôi không tiếp đãi phụ nữ ở nơi này, nếu đó là chuyện cậu đang nghĩ.” “Phụ nữ?” Ash phát ra một tiếng huýt chế giễu. “Phụ nữ nào? Cậu không bỏ chút thời gian cho bọn họ, cậu đã để hết tâm trí của mình vào hạm đội báo chí của cậu. Và bây giờ cậu lại suy nghĩ đến chuyện ứng cử với Quốc hội, cậu lại càng có ít thời gian hơn so với trước. Julia thì sao? Cô ta dạo này ở đâu?” “Julia,” Brand lạnh nhạt trả lời: “đã lệnh cho tôi đi khỏi.” Ash bị sặc một miệng đầy rượu, khiến những giọt rượu bay tung tóe khi cánh tay anh bị giật. Không một giọt nào rơi lên chiếc áo khoác và chiếc quần tây được may thật tuyệt hảo và khéo léo của Ash. Đấy là một cái mẹo mà Brand đã phải ganh tị với Ash kể từ ngày họ còn cắp sách đến trường. Trên sân vận động, Ash luôn rời khỏi một trận ẩu đả mà luôn được tươm tấc và tươi tỉnh. Nó đã khiến chàng không khỏi thắc mắc sao Ash lại có thể trải qua cuộc sống của một quân nhân. Ash ho khan để hắng giọng. “Xem ra,” cuối cùng anh mới nói: “đấy chính là như vậy. Sự hứng thú của cậu với Julia đã tẻ nhạt, và một người đàn ông lịch sự như cậu đã để cô ta từ chối mình. Chuyện này không có liên quan gì đến tiểu thư Marion, phải không nào?” Mặc kệ ánh mắt nhăn nhó của Brand, Ash vui vẻ tiếp tục: “Tôi thấy vẻ mặt của cậu đêm nay khi tiểu thư Marion đã lăn ngã xuống cầu thang. Tôi tưởng cậu là người sẽ bị ngất chứ không phải tiểu thư Marion.” “Dẹp mấy lời ngoa dụ đi. Tôi chỉ là hốt hoảng. Tuy nhiên, tôi thật vui mừng vì cậu đã nêu lên chủ đề này, bởi vì tôi đã mời cậu đến đây để nói về Marion.” Khi Brand dừng lại, sắp xếp lại ý tưởng của chàng, Ash lấy chai brandy từ tủ búp phê và rót đầy ly cho cậu bạn của mình. Làm xong việc này, anh trở lại ghế và kiên nhẫn chờ bạn bắt đầu. Một thời gian sau Brand mới nói: “Tôi nghĩ rằng cậu biết tôi và dì của Marion thân nhau như thế nào?” “Edwina Gunn? Tôi biết bà ấy là cô giáo của cậu cho đến khi ông ngoại của cậu qua đời. Tôi biết cậu vẫn giữ liên lạc với bà ấy trong những năm qua.” Còn có nhiều điều hơn thế, nhưng Brand luôn luôn che đậy những năm tháng dữ dội ấy, nên chàng đơn giản nói: “Bà ấy đã viết thư cho tôi hai tuần trước khi bà qua đời. Thật không may, bà đã gửi bức thư đến văn phòng của tôi tại đường Frith, và nó đã bị chôn vùi dưới một đống thư từ của độc giả. Vấn đề là, nó đã không được đến tay tôi cho đến sau cái chết của Edwina, vì vậy tôi đã không có cơ hội để hỏi hoặc làm sáng tỏ bất kỳ những điểm nào bà ấy đã nêu lên. Và sau đó, tôi đã không thấy lý do gì để giữ nó lại, vì vậy tôi đã ném nó vào lò sưởi. “Đó là một bức thư dông dài về em gái út của bà, Hannah. Theo như mọi người đều biết, Hannah đã trốn theo trai trong một đêm khoảng hai mươi năm về trước với một người mà chỉ có trời mới biết là ai. Đấy là những gì mà mọi người tại Longbury đã tin, mặc dù Edwina chưa bao giờ xác nhận hay phủ nhận điều này. Tôi chưa từng nghe bà nói về Hannah bao giờ, và tôi cũng chưa từng hỏi bà về Hannah. Lúc ấy tôi còn quá trẻ và quá tôn kính bà để xâm nhập vào nỗi buồn riêng tư của bà.” “Cậu có biết Hannah không?” “Không. Cô ấy là một cô giáo giữ trẻ tại Brighton và chỉ trở về nhà trong những ngày nghỉ lễ - một hoặc hai tuần là nhiều nhất - và khi ấy tôi đã đi học xa. Có thể tôi đã gặp qua cô ấy, nhưng tôi không nhớ.” Chàng trở nên im lặng như để tâm trí mình trôi ngược dòng thời gian. Cuối cùng chàng nói: “Trên cơ bản, Edwina nói rằng bà nghi ngờ có ai đó đã giết Hannah, và cháu gái của bà, Marion, có thể nhận ra được hung thủ. Một điều tôi biết chắc: Hannah đã đến thăm Edwina khi Marion và mẹ cô đã có mặt, và lúc đó là khi Hannah được cho là đã biến mất “. Ash sửng sốt kinh ngạc. “Làm phiền cậu,” anh chậm rãi nói: “lặp lại một lần nữa?” Brand lặp lại, mở rộng cái lý giải của chàng. “Trong bức thư của bà, Edwina đã viết rằng Hannah cãi nhau với hai cô chị vào đêm đó và bỏ nhà ra đi, thề rằng sẽ không bao giờ trở lại. Và không, Edwina đã không nói cho tôi biết họ đã tranh cãi về chuyện gì.” Chàng nhấm nháp ly rượu trong lúc xắp xếp lại suy nghĩ của mình. “Theo như tôi được biết, Edwina chưa từng thông báo chuyện em gái bị mất tích [với nhà chức trách], do đó nó đã đưa tôi đến cái nghi ngờ rằng bà ấy đã tin Hannah bỏ nhà ra đi, có thể với một người đàn ông nào đó. Dẩu sao cũng đã nhiều năm trôi qua, và chỉ là gần đây có người đề cập với Edwina rằng Marion đã đi chơi rong tại các nơi vào cùng một đêm mà Hannah đã biến mất. Bà ấy đã không cho biết người đó là ai.” “Làm sao họ có thể chắc chắn rằng đó là cùng một đêm?” “Edwina không nói vậy. Tuy nhiên chính người này đã gieo ý tưởng đó vào tâm trí của bà rằng Hannah đã gặp phải chuyện bất hạnh và Marion cũng có thể là một nhân chứng. Cậu phải hiểu rằng ngôi nhà của Edwina được bao quanh bởi rừng cây và gần với [nhà dòng] Priory và các tòa nhà rộng lớn cùng với những vùng đất đai của chúng. Nếu Hannah đã bị sát hại, đã có rất nhiều nơi để dấu xác cô ta.” “Chuyện đó có phải là một kết luận hơi xa vời không? Để hai mươi năm trôi qua với niềm tin rằng em gái của mình đã bỏ nhà ra đi, sau đó lại đột nhiên quyết định rằng có lẽ cô đã bị sát hại? Nghe ra như là một trò đùa của ai đó, bằng không sao lại không đứng ra [nói rõ] khi Hannah biến mất?” “Cậu không có nói bất cứ điều gì khác mà tôi đã không tự nói với bản thân khi tôi đọc bức thư của Edwina. Tuy nhiên, tôi nhận thức được một yếu tố đã tăng lên mối hoài nghi của tôi.” Chàng nuốt một ngụm rượu rồi tiếp tục: “Khi tôi đến Longbury để dự tang lễ, tôi đã nghe những lời đồn. Edwina có vẻ như đã không được bình thường trong vài tuần cuối của bà. Bà đã trở thành chóng quên và cứ hồi tưởng quá khứ, ngày càng trở nên như một đứa trẻ. Cậu hiểu tôi đang đã nghĩ gì phải không?” “Là bà ta trở nên suy yếu vì tuổi già.” Ash thở dài. “Bà ấy muốn nhờ cậu làm điều gì?” “Đến thăm bà để bà có thể nói chuyện với tôi trực tiếp.” Chàng nói thêm với một chút cay đắng: “Như tôi đã nói, cho đến khi tôi nhận được bức thư thì đã quá muộn. Dù sao tôi cũng không nhận được bức thư cho đến mãi sau khi tôi nghe những tin đồn ấy nên tôi đã không xem nó là chuyện gì nghiêm trọng, hoặc thúc đẩy bản thân để giải đáp một bí ẩn đã bị chôn vùi hai mươi năm qua. “Theo hiểu biết của tôi thì Marion đã luôn ở cố định tại huyện Lake. Tôi đã nghĩ đến chuyện viết thư cho cô ấy, nhưng đã không thích để bộc lộ chuyện tâm trí người dì của cô đã bị ảnh hưởng. Vì vậy, tôi đã không làm gì cả.” “Cho đến khi tiểu thư Marion và mấy cô em đến trước cửa nhà cậu?” Brand gật đầu, duỗi cặp chân dài của chàng ra trước lò sưởi đang cháy bừng reo vui, và ngả người thoải mái trên ghế. “Tôi không muốn khiến Marion khó chịu hoặc làm cô ấy cảnh giác khi kể cho cô ây nghe về bức thư của Edwina - nó sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu tất cả mọi việc đơn giản là ảo giác của một bà lão? Nên tôi làm quen với những người quen của cô ấy và còn cố moi câu chuyện từ cô ấy.” Chàng dời ánh mắt từ đống than rực lửa trong lò để nhìn thẳng vào Ash. “Cô ấy không biết gì cả. Thật sự thì hầu như cô ta chẳng nhớ gì về Longbury. Cô ấy nhớ hai người dì Edwina và Hannah, nhưng không nhớ là Hannah biến mất khi cô có mặt ở đấy. Khi tôi hỏi cô ấy Hannah bây giờ đang ở đâu, cô ấy chỉ có thể cho tôi biết rằng Hannah đã chết lúc còn trẻ.” Ash chế nhạo. “Cậu muốn nói là các bà chị của Hannah đã cố che dấu việc xấu hổ của cô ta bằng cách tạo dựng một vụ chết sớm? Tôi sẽ đặt cược là cô ấy đã trốn đi với một người đàn ông đã có gia đình và gia đình cô ấy chưa bao giờ tha thứ cho cô. Thật điển hình!” Brand nhún vai. “Tôi tưởng rằng tôi đã hoàn thành nghĩa vụ của tôi với Edwina và có thể để chuyện này yên nghỉ tại đây, nhưng đó là trước khi Marion bị đẩy xuống cầu thang tối nay. Và vào tuần trước, cô ấy đã bị tấn công và bị cướp tại khu vườn Vauxhall. Ồ, không phải là Marion đã nói cho tôi biết. Tôi biết được từ Phoebe.” “Những huyện ngẫu nhiên,” Ash chế giễu: “có thể xảy ra với bất cứ ai.” “Hàng ngàn người sẽ đồng ý với cậu,” Brand phản ứng: “nhưng tôi là một nhà báo. Tôi có một bản năng về những chuyện này. Tôi nghĩ rằng Marion đang gặp phải một chút rắc rối. Điều mà tôi không rõ đó là liệu nó liên quan đến Longbury hoặc với huyện Lake không.” Chàng gần như có thể nghe được tâm trí nhanh nhẹn của Ash tổng hợp lại mọi thứ và lấp đầy những chỗ trống. Cuối cùng, Ash cười giòn. “Và tôi nói rằng cậu chưa nói cho tôi nghe tất cả mọi việc. Một là tiểu thư Marion đã tâm sự với cậu, hai là đã có một sự cố thứ ba mà vì lý do nào đó cậu không muốn đề cập đến.” “Cả hai chuyện cậu đều sai.” Brand dốc cạn ly và đặt nó sang một bên.” Tôi lặp lại: “Tôi chỉ dựa vào bản năng.” Chàng đang nhớ lại ánh mắt sợ hãi của nàng khi chàng khom người xuống cạnh bên nàng tại chân cầu thang, và sau đó, câu trả lời đã vô tình đáp lại câu hỏi của chàng khi nàng tỉnh lại trong cỗ xe ngựa: David. Chàng hy vọng những rắc rối của nàng được bắt nguồn từ huyện Lake, bởi vì nếu Longbury là cội nguồn thì nó có nghĩa rằng chàng đã phải nên nghiêm túc với bức thư của Edwina. Có nghĩa rằng chàng không nên dễ dàng chấp nhận cái chết của bà là một vụ tai nạn như thế. Có nghĩa là nếu Marion trở lại Longbury, nàng có thể lại đặt mình vào vòng nguy hiểm. Tất cả dường như quá xa vời đến nỗi ngay cả bây giờ chàng cũng chưa hoàn toàn sẵn lòng để tin. “Dù sao cũng vậy,” cuối cùng chàng cũng nói: “Tôi đã quyết định làm những gì Edwina đã muốn tôi làm, và đó là giải đáp cái bí ẩn về chuyện đã xảy ra với Hannah bấy nhiêu năm trước.” “Cậu có nghĩ rằng đấy là chuyện khôn ngoan để làm không? Cậu có thể chọc phải một tổ ong vò vẽ.” “Tôi đã nhận thức được rất rõ, nhưng tôi dự định sẽ trông chừng Marion kỹ càng.” Chàng nhìn lên và thấy Ash đang nhìn chằm vào chàng một cách thăm dò. “Tôi đã nói đúng!” Ash nói. “Cậu đã mết cô ấy! Tôi đáng lý phải nên biết khi cậu cứ gọi cô ta là Marion mà không phải là tiểu thư Marion. Đấy có phải là cách cậu gọi trước mặt cô ấy không?” Khi Brand ngây ra nhìn anh, Ash cười toe toét. “Cậu đang chơi một trò chơi nguy hiểm, cậu bạn của tôi ơi.” Brand cố thử nhưng đã không thành công trong việc trừng mắt nhìn Ash để đánh tan cái vẻ vui thú trong mắt anh ta. “Tôi cảm thấy có trách nhiệm với cô ấy.” Nửa đùa, nửa nghiêm túc, Ash tiếp tục nói: “Ồ, thì ra là câu chuyện được bắt đầu như thế, và trước khi cậu nhận ra điều đó, cậu sẽ bị sập trong cái bẫy của người độc thân [Bachelor Trap:)]. Hãy nghĩ đến Jack. “Jack là một người bạn chung của cả hai và ngày xưa đã giống như bọn họ, là một chàng độc thân trăm phần trăm, nhưng bây giờ đã hạnh phúc kết hôn với tình yêu cả đời cậu ta. Ash đứng dậy. “Cho tôi nói một lời khuyên nhủ? Hãy cẩn thận với bà Milford. Người đẹp Julia có thể có gương mặt của nữ thần, nhưng cô ấy có tâm tính của một ác quỷ. Cô ta sẽ không vui lòng để một nữ nhân nào săn trộm trong sân nhà của cô ta đâu.” “Tôi đã nói với cậu,” Brand vặn lại: “cô ta là người kết thúc mối quan hệ.” “Cậu không nghĩ chuyện đó quan trọng đối với một người phụ nữ giống như Julia sao? Tôi đang ngạc nhiên sao cô đã không nhe răng múa vuốt truy theo cậu.” “Cô ấy đang ở Paris.” “Thì ra là thế. Cô ấy sẽ sớm quay lại khi cô ấy nghe thấy rằng có một phụ nữ đã chiếm chỗ của cô ấy trong trái tim của cậu.” “Cậu có thể ngồi xuống chứ?” Brand rống lên. “Và kết thúc sự trêu chọc được không! Tôi đâu có mời cậu đến để giở trò. Tôi mời cậu đến bởi vì cậu là bạn của tôi và tôi cần cậu giúp đỡ.” Điều đó đã đạt được sự chú ý của Ash. Anh chậm rãi chìm người vào ghế. “Sao cậu lại cần giúp đỡ của tôi?” “Có phải tôi đã nói không được rõ ràng? Tôi sẽ không thấy ngạc nhiên nếu có thêm sự cố thứ ba - cậu biết, là một trong những sự trùng hợp ngẫu nhiên có thể xảy ra với bất cứ ai đấy? Tuy nhiên, tôi không thể ở phân thân. Tôi đã đồng ý để dành lấy sự đề cử của đảng tôi trong cuộc bầu cử sắp tới. Thời gian của tôi sẽ bị các sự việc liên quan đến chuyện ấy chi phối. Còn có các tờ báo để tôi phải lo đến. Tôi đã hướng dẫn người phó của tôi về những gì cần phải thực hiện trong khi tôi vắng mặt.” “Xem ra,” Ash nói: “cậu có quá nhiều chuyện để làm.” “Đó là lý do tại sao tôi cần cậu giúp đỡ.” “Tôi đang nghe đây.” Brand thở ra một hơi dài chậm rãi. Chàng lặng lẽ nói: “Tôi cần một người trông chừng Marion kỹ càng, tối thiểu là cho đến khi cô ấy được ổn định tại Longbury. Cậu sẽ giúp tôi chứ?” Ash cười toe toét. “Rất hân hạnh, anh bạn cũ của tôi, rất hân hạnh.” *** Sau khi tiễn Ash về, Brand quay trở lại phòng khách, nơi người giúp việc đang dọn dẹp các thứ. Manley là một người đàn ông ở tuổi đầu ngũ tuần với mái tóc hoa râm, một cựu quân nhân trong một trung đoàn kỵ binh mà đã bị rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Ông là một thiên tài với ngựa nhưng đã bị đuổi việc bởi người chủ cũ vì lý do bất phục tùng. Trong thực tế, ông đã bị đuổi việc bởi nhiều chủ nhân khác nhau vì lý do bất phục tùng. Không có chút nghi ngờ nào, Manley đã không biết vị trí của bản thân, nhưng ông lại may mắn tìm được một ông chủ có lòng ngưỡng mộ ông vì điều đó. Thật không may, tài năng của ông lại bị mai một bởi Brand không có chuồng nuôi ngựa. Chàng không thấy sự cần thiết của chuồng ngựa, nhưng lại thuê những thứ chàng cần sử dụng tại một chuồng thuê ráp ranh Pall Mall. Điều đó sắp sửa có thay đổi. “Manley,” chàng nói: “chúng ta sẽ chuyển đến Longbury trong một hoặc hai tuần tới. Tôi có một chuồng ngựa trống nơi đó. Ngày mai, tôi và ông sẽ đến Tattersall để xem mấy con ngựa và mua một số. Tôi cũng sẽ cần dịch vụ của những tay đánh ngựa, và người trông nom ngựa. Tôi sẽ rất cảm ơn nếu ông sẽ lo việc ấy giùm tôi. Và Manley này, chỉ những thứ tốt nhất thôi đấy.” Ngoài việc quai hàm của ông hơi nhích động, Manley không có biểu hiện gì. “Tôi nghĩ rằng tôi có thể lo liệu, Ông Hamilton,” ông nói. “Để đó cho tôi, thưa ông.” Cái thưa ông răm rắp đã báo với Brand trong lòng Manley vui ngần nào về chuyện thiết lập chuồng ngựa tại Longbury. Chàng quay lưng đi với nụ cười, nhưng nụ cười đã tắt dần khi chàng nhận thấy rằng lớp gòn nhồi trong những chiếc ghế da đã bị lồi ra từ đường may. Những chiếc ghế ấy đã từng thuộc về ông ngoại của chàng. Ash sẽ nói rằng nó đã đến lúc bỏ đi chúng, rằng chúng đã thọ hơn sự hữu ích của chúng. Chàng quay trở lại. “Manley này,” chàng nói: “Tôi muốn ông tìm ra một người bọc ghế hoặc thợ trang trí hoặc ai đó. Nơi này hết sức là tồi tàn. Tôi muốn tất cả mọi thứ được tân trang lại, nhưng không được thay thứ gì cả [không được vứt đi những vật có kỷ niệm, chỉ là sửa chúng lại].” “Vâng, thưa ông,” Manley trả lời. “Và hãy cẩn thận với những chiếc ly đó.” Những chiếc ly cũng đã thuộc về ông ngoại của chàng. “Vâng, thưa ông.” Với một cái “Ngủ ngon” lịch sự, Brand bước ra khỏi phòng.