When he was wicked

Chương 7 : - Phần 01

Chương 05 ...cô sẽ thích ở đây. Không phải vì cái nóng, tôi nghĩ thế; có vẻ không ai thích cái nóng cả. Nhưng những thứ còn lại sẽ làm cô bị mê hoặc. Những màu sắc, những hương vị, mùi hương trong không khí—chúng sẽ làm cho người ta có cảm giác như mơ ảo kỳ lạ và quyến rũ và đôi khi trở nên khó yên, gây nghiện. Và hơn hết, tôi nghĩ cô sẽ thích những khu vườn. Chúng khá giống những công viên ở London, ngoại trừ chúng xanh hơn và tươi tắn hơn, với đầy những loại hoa đẹp nhất cô từng thấy. Cô từng luôn thích được ở giữa thiên nhiên; cô sẽ mê mẩn điều này, tôi khá chắc chắn như vậy. —của Michael Stirling (Bá tước Kilmartin mới) gửi Nữ bá tước Kilmartin, một tháng sau khi anh đến Ấn Độ Francesca muốn một đứa con. Cô đã muốn thế khá lâu, nhưng chỉ mấy tháng gần đây cô mới có thể tự thú nhận như vậy, có thể đặt tên cho cái cảm giác khao khát dường như luôn cùng cô ở bất cứ nơi đâu cô đi. Việc này bắt đầu khá vô tình, với cái đau nhói khe khẽ trong tim khi cô đọc lá thư của Kate, vợ anh trai cô, lá thư đầy những tin tức về bé gái Charlotte của họ, sắp tròn hai tuổi và đã nghịch ngợm hết cách chữa. Nhưng cái đau nhói đó ngày càng trở nên tệ, thành một cái gì đó giống sự đau đớn hơn, khi Daphne chị cô tới Scotland thăm, mang theo cả bốn đứa nhỏ nhà chị ấy. Francesca chưa hề nghĩ một đám trẻ có thể hoàn toàn thay đổi một ngôi nhà như vậy. Những đứa trẻ nhà Hasting đã thay đổi đến cả không khí của Kilmartin, mang đến sức sống và tiếng cười mà Francesca nhận ra nơi đây đã thiếu bao năm qua. Và rồi chúng đi, và tất cả lại yên lặng, nhưng không phải là bình yên. Chỉ là trống trải. Từ đó trở đi, Francesca đã thay đổi. Cô nhìn thấy một cô bảo mẫu đẩy một cái xe nôi, và tim cô đau. Cô liếc thấy một con thỏ chạy qua cánh đồng và không thể không nghĩ rằng lẽ ra cô đang chỉ nó cho một ai đó thấy, một ai đó thật nhỏ. Cô đến Kent chơi Giáng sinh với gia đình, nhưng khi đêm xuống, tất cả các cháu trai cháu giá của cô đã đi ngủ, cô cảm thấy quá cô đơn. Tất cả những gì cô có thể nghĩ là cuộc đời cô đang trôi đi, và nếu cô không sớm làm cái gì đó, cô sẽ chết như thế này. Cô đơn. Không phải không hạnh phúc—cô không phải như thế. Thật lạ, cô đã quen với chuyện góa bụa và tìm thấy thói quen đủ thoải mái và thỏa mãn trong cuộc sống. Đó là một điều cô chưa bao giờ tin là có thể xảy ra trong những tháng khủng khiếp ngay sau cái chết của John, nhưng cô đã làm được, bằng cách thử và thử, và tìm thấy chỗ của mình trong thế giới này. Và đi cùng nó, là một chút bình yên. Cô thích cuộc sống làm Nữ bá tước Kilmartin—Michael vẫn chưa lấy vợ, và thế là cô giữ nguyên trách nhiệm cũng như tước vị. Cô yêu Kilmartin, và cô quản lý nó mà không hề bị Michael can thiệp; chỉ thị của anh trước lúc rời đất nước bốn năm trước là cô có thể quản lý lãnh địa theo cách cô thấy hợp lý, và khi cú shock vì anh ra đi đã dịu lại, cuối cùng cô nhận ra đó là món quà quý giá nhất anh có thể đem lại cho cô. Điều đó đã cho cô một cái gì đó để làm, cái gì đó để hướng tới. Một lý do để thôi nhìn chằm chằm lên trần nhà. Cô có bạn bè, và cô có gia đình, cả Stirling và Bridgerton, và cô có một cuộc sống đầy đủ, ở Scotland và London, nơi cô ở vài tháng mỗi năm. Vì thế cô đáng ra phải hạnh phúc. Và cô có hạnh phúc, gần như thế. Cô chỉ muốn một đứa con. Cô đã tốn kha khá thời gian để có thể tự thú nhận như vậy. Mong ước này dường như có hơi thiếu chung thủy với John; nó sẽ không phải là con của anh, dù sao đi nữa, và ngay cả bây giờ, khi anh đã mất bốn năm, thật khó tưởng tượng một đứa bé không có những đường nét của anh thoáng trên khuôn mặt. Và điều đó có nghĩa là, đầu tiên và tiên quyết, cô sẽ phải tái giá. Cô sẽ phải đổi họ và đính ước với một người đàn ông khác, sẽ phải thề đặt anh ta lên hàng đầu trong trái tim và chung thủy, và trong khi ý nghĩ đó không còn làm tim cô quặn đau, có vẻ nó hơi... ừm... lạ lẫm. Nhưng cô nghĩ có một vài điều mà một người đàn bà đơn giản phải bỏ lại phía sau, và một ngày Tháng hai lạnh lẽo, khi cô nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ ở Kilmartin, nhìn ngắm tuyết chầm chậm phủ một tấm vải trắng quanh những cành cây, cô nhận ra đây là một trong những điều đó. Có rất nhiều chuyện trong cuộc đời này mà người ta phải e ngại, nhưng sự lạ lẫm không nên nằm trong số đó. Và thế là cô quyết định gói ghém đồ đạc và xuống London sớm hơn một chút năm nay. Cô thường dự mùa lễ hội ở đó, dành thời gian bên gia đình, mua sắm và dự những buổi hòa nhạc, xem kịch và làm tất cả những việc mà tóm lại là không thể làm tại vùng quê Scotland. Nhưng mùa này sẽ khác. Cô cần một tủ quần áo mới, là một. Cô đã thôi để tang khá lâu, nhưng cô vẫn chưa hoàn toàn rũ bỏ những bộ đồ màu xám và xanh tái của giai đoạn nửa tang, và cô chắc chắn không quan tâm đến thời trang theo cách mà một phụ nữ ở vị trí cô nên như thế. Đã đến lúc mặc đồ màu xanh. Màu xanh sáng, đẹp, màu hoa ngô. Đó là màu ưa thích của cô nhiều năm trước, và cô cũng đủ kiêu để mặc màu đó và chờ đợi người ta khen rằng nó hợp với màu mắt cô đến thế nào. Cô sẽ mua đồ màu xanh, và đúng rồi, màu hồng và vàng nữa, và thậm chí có thể là—có cái gì đó trong tim cô run lên háo hức trước ý nghĩ đó—màu đỏ tía. Cô sẽ không phải là một cô gái trẻ chưa chồng lần này. Cô sẽ là một bà góa có thể tái giá, và những quy định sẽ khác đi. Nhưng mục đích thì vẫn thế. Cô sẽ đến London để tìm cho mình một người chồng. Đã quá lâu rồi. Michael biết rằng việc trở về Anh của anh lẽ ra phải từ lâu rồi, và nó là một trong những thứ có thể bị lờ đi thật dễ dàng đến mức ngạc nhiên. Theo như những lá thư của mẹ anh, đến được với anh một cách thường xuyên lạ thường, lãnh địa đang rất thịnh vượng dưới sự quản lý của Francesca. Không người dưới quyền nào có thể buộc tội anh đã bỏ mặc họ, và nhìn chung, tất cả những ai anh để lại phía sau đều đang sống tốt với sự vắng mặt của anh hơn là nếu anh ở bên cạnh để giúp họ. Thế nên chẳng có gì để cảm thấy có lỗi cả. Nhưng một người đàn ông cũng chỉ có thể chạy trốn số phận lâu đến vậy thôi, và khi anh đánh dấu năm thứ ba của mình ở vùng nhiệt đới, anh phải thừa nhận rằng sự mới mẻ của một cuộc sống xa lạ đã nhạt đi, và nếu phải nói thẳng, anh bắt đầu phát ốm vì cái thời tiết này. Ấn Độ đã cho anh một mục đích, một chỗ trong cuộc đời để vượt xa khỏi hai thứ duy nhất anh từng rất giỏi—chiến đấu và chơi bời. Anh đã lên tàu với không gì cả ngoài cái tên của một người bạn chiến đấu đã chuyển đến Madras ba năm trước đó. Trong vòng một tháng anh đã có một vị trí trong chính quyền và nhận ra mình đang đưa ra những quyết định quan trọng, thi hành các đạo luật và chính sách thực sự thay đổi cuộc sống của con người. Lần đầu tiên, Michael cuối cùng cũng có thể hiểu tại sao John lại say mê công việc của anh ấy trong Nghị viện Anh đến thế. Nhưng Ấn Độ không làm anh hạnh phúc. Nó đã cho anh một chút yên bình, điều này có vẻ hơi mâu thuẫn, bởi vì trong mấy năm vừa rồi anh đã suýt chết ba lần, bốn nếu tính cả lần chạm trán với cô công chúa Ấn Độ mang dao đó (Michael vẫn nghĩ rằng anh đã có thể tước vũ khí của cô ta mà không làm cô bị thương, nhưng cô ta, anh phải thú thật, có một cái nhìn chết chóc trong đôi mắt, và anh từ lâu đã học được rằng người ta không bao giờ được đánh giá thấp một người đàn bà khi cô ta tin rằng—dù có sai đến mức nào—cô ta bị khinh bạc.) Bỏ những giai thoại nguy hiểm chết chóc sang một bên, mặc dù vậy, thời gian anh ở Ấn Độ đã mang lại cho anh một cảm giác cân bằng nào đó. Anh cuối cùng đã làm được cái gì đó cho mình, đã tự mình làm được cái gì đó. Nhưng quan trọng nhất, Ấn Độ đã mang lại cho anh sự bình yên bởi vì anh không phải sống với suy nghĩ thường trực rằng Francesca chỉ ở ngay sau góc đường kia. Cuộc đời không hẳn tốt hơn với hàng ngàn dặm giữa anh và Francesca, nhưng chắc chắn nó đã dễ dàng hơn. Tuy nhiên, đã đến lúc phải đối mặt với sự khó khăn khi có cô ở gần, và thế là anh gói ghém đồ đạc, thông báo với anh chàng người hầu vừa thở phào nhẹ nhõm của anh rằng họ sẽ quay về Anh, đặt vé một khoang hạng sang bên mạn phải chiếc Princess Amelia, và về nhà. Anh sẽ phải đối diện với cô, tất nhiên. Chẳng có cách nào thoát khỏi chuyện đó. Anh sẽ phải nhìn vào đôi mắt xanh từng luôn ám ảnh anh và cố làm bạn với cô. Đó là thứ duy nhất cô muốn trong những ngày đen tối sau cái chết của John, và đó là điều duy nhất anh hoàn toàn không thể làm cho cô. Nhưng có thể giờ đây, với khả năng hàn gắn của thời gian và khoảng cách, anh có thể cố được. Anh không ngu đến mức hy vọng rằng cô đã thay đổi, rằng anh sẽ nhìn cô và nhận ra rằng anh không còn yêu cô nữa—điều đó, anh chắc chắn, sẽ không bao giờ xảy ra. Nhưng Michael đã quen nghe thấy từ “Bá tước Kilmartin” mà không phải ngoái nhìn ra sau lưng để tìm anh họ mình. Và có thể giờ đây, khi nỗi đau không còn quá mới nguyên, anh có thể ở bên Francesca bằng tình bạn, mà không cảm thấy như thể anh là tên kẻ trộm, âm mưu đánh cắp cái anh đã thèm khát bấy lâu. Và hy vọng là cả cô nữa, đã sống tiếp, và sẽ không đòi hỏi anh làm tròn những trách nhiệm của John theo mọi cách ngoại trừ một thứ. Nhưng dù sao, anh cũng mừng vì lúc đó sẽ là Tháng ba khi anh xuống tàu ở London, quá sớm trong năm để Francesca xuống dự mùa lễ hội. Anh là một người đàn ông can đảm; anh đã chứng minh điều đó không biết bao lần, trong và ngoài chiến trường. Nhưng anh cũng là một người đàn ông trung thực, đủ trung thực để thú nhận là cái ý nghĩ phải đối mặt với Francesca thật đáng sợ theo một cách mà chẳng có chiến trường đất Pháp hay con hổ răng sắc nào có thể so được. Có thể, nếu anh may mắn, cô sẽ quyết định không xuống London dự mùa lễ hội. Chẳng phải thế thì thật may mắn sao. Thật tối, và cô không thể ngủ, và căn nhà lạnh đến mức khổ sở, và tệ nhất là, tất cả đều do lỗi của cô. Ồ, được rồi, bóng tối thì không phải. Francesca tin là cô không phải nhận lỗi vì chuyện đó. Đêm là đêm, dù sao đi nữa, và cô sẽ quá ngông cuồng nếu nghĩ rằng cô có dính líu gì đó đến chuyện mặt trời lặn xuống. Nhưng đó là lỗi của cô khi căn nhà không có đủ thời gian để chuẩn bị đón cô đến. Cô đã quên gửi lời nhắn rằng cô định xuống London sớm hơn một tháng, và kết quả là, Ngôi nhà Kilmartin vẫn đang hoạt động với số người làm ít nhất, và dự trữ than và sáp ong thì thiếu đến mức đáng báo động. Tất cả sẽ khá hơn ngày mai, sau khi người hầu và ông quản gia lao như điên ra các cửa hàng ở Bond Street, nhưng bây giờ thì Francesca đang run lên trong giường của mình. Đó là một ngày lạnh cóng đến mức kinh khủng, với một trận gió dữ dội làm cho nó trở nên lạnh hơn nhiều so với bình thường vào đầu Tháng ba. Người quản gia đã định chuyển tất cả chỗ than còn lại vào cho lò sưởi của Francesca, nhưng dù có là nữ bá tước hay không, cô cũng không thể để cho những người trong nhà chết cóng vì mình. Hơn nữa, phòng ngủ của nữ bá tước rộng mênh mông, và rất khó để làm ấm nó hoàn toàn trừ phi tất cả căn nhà cũng ấm luôn. Thư viện. Đúng rồi. Nó nhỏ và ấm cúng, và nếu Francesca đóng cửa lại, một ngọn lửa trong lò của nó đủ để làm căn phòng dễ chịu và ấm áp. Hơn nữa, ở đó có một cái ghế trường kỷ cô có thể nằm. Nó nhỏ, nhưng cô cũng thế, và nó chẳng thể tệ hơn là chết cóng trong phòng ngủ của chính cô. Ý đã quyết, Francesca nhảy ra khỏi giường và lao qua màn không khí lạnh ban đêm về phía cái áo khoác, đang vắt trên lưng một chiếc ghế. Nó hoàn toàn không đủ ấm—Francesca đã không nghĩ cô cần cái gì đó dày hơn—nhưng ít ra còn hơn là không có gì, và, cô nghĩ bình thản, ăn xin thì chẳng thể chọn lựa nhiều, đặc biệt khi những ngón chân người ta sắp rụng ra vì lạnh. Cô vội vàng xuống cầu thang, đôi tất len dày cộp của cô trượt và tuột đi trên những bậc thang trơn bóng. Cô lập cập xuống hai bậc cuối cùng, may mà xuống đến đất trên đôi chân, rồi chạy theo tấm thảm dẫn tới thư viện. “Lửa lửa lửa,” cô lẩm bẩm một mình. Cô sẽ rung chuông gọi ai đó ngay khi cô vào thư viện. Họ sẽ nhóm được một ngọn lửa sáng rực ngay thôi. Cô sẽ kiếm lại được cảm giác trên mũi, những ngón tay của cô sẽ không còn cái màu xanh phát ốm kia nữa và— Cô đẩy mở cánh cửa. Một tiếng thét ngắn, ngắt quãng vọt ra khỏi môi cô. Đã có lửa trong lò, và một người đàn ông đứng cạnh đó, im lặng sưởi ấm hai bàn tay anh ta. Francesca với loạn xạ ra xung quanh để kiếm cái gì đó—bất cứ thứ gì—cô có thể dùng làm vũ khí. Và rồi anh tay quay lại. “Michael?” Anh không biết cô sẽ ở London. Khỉ thật, anh thậm chí không để ý rằng cô có thể sẽ ở London. Chẳng phải là cái đó sẽ thay đổi gì, nhưng ít ra anh cũng được chuẩn bị. Anh sẽ không biến nét mặt mình thành một cái cười méo mó lờ đờ, hoặc ít nhất đảm bảo rằng anh sẽ ăn mặc một cách hoàn hảo và chìm đắm vào vai một tay chơi hết cách chữa. Nhưng không, anh ở đây, chỉ há miệng nhìn cô, cố không nhận ra rằng cô đang chẳng mặc gì ngoài một cái áo khoác đêm đỏ thẫm và một cái váy dài, thật mỏng và suôn đến mức anh có thể nhìn thấy hình dáng của— Anh nuốt vào. Không nhìn. Không được nhìn. “Michael?” cô nói khẽ lần nữa. “Francesca,” anh nói, bởi vì anh phải nói gì đó. “Cô đang làm gì ở đây?” Và cái đó dường như lôi cô trở lại với suy nghĩ và cử động. “Tôi đang làm gì ở đây?” cô nhắc lại. “Tôi không phải người đáng ra đang ở Ấn Độ. Anh đang làm gì ở đây?” Anh nhún vai bất cần. “Nghĩ là đã đến lúc về nhà.” “Anh không thể viết thư sao?” “Cho cô?” anh hỏi, nhướng một bên mày. Đó là, mà anh có ý như vậy, một cú trúng đích. Cô đã không viết cho anh lấy một lá thư trong khi anh đí. Anh đã gửi cho cô ba lá thư, nhưng khi rõ ràng là cô không định trả lời, anh đã gửi tất cả tin tức cho mẹ anh và mẹ John. “Cho bất cứ ai,” cô trả lời. “Ai đó có thể ở đã đây và đón anh.” “Cô đang ở đây,” anh chỉ ra. Cô nhăn mặt với anh. “Nếu tôi biết anh đến, tôi đã chuẩn bị căn nhà sẵn sàng cho anh.” Anh nhún vai. Cử động đó dường như thể hiện đúng cái hình ảnh anh cố gắng hết mức để đạt được. “Nó đủ sẵn sàng rồi.” Cô vòng tay ôm lấy người mình, ngăn anh không thấy được ngực cô, việc đó, anh phải thừa nhận, có lẽ là điều tốt nhất. “Ừm, anh lẽ ra nên viết,” cuối cùng cô nói, giọng cô hơi cao trong không khí ban đêm. “Đó chỉ là phép lịch sự.” “Francesca,” anh nói, khẽ quay mặt về phía khác để có thể tiếp tục xoa tay bên ngọn lửa, “cô có biết một lá thư mất bao lâu để đến được London từ Ấn Độ không?” “Năm tháng,” cô trả lời rành rọt. “Bốn, nếu như gió thuận.” Khỉ thật, cô ấy nói đúng. “Cứ cho là thế,” anh nói vẻ bực bội, “đến khi tôi quyết định trở về, việc gửi thông báo trước cũng chẳng có ích mấy. Lá thư có thể đã rời Ấn Độ trên cùng một con tàu với tôi.” “Thật sao? Tôi tưởng tàu khách thường chậm hơn những con tàu chở thư.” Anh thở dài, ngoái nhìn cô qua vai. “Tàu nào cũng chở thư cả. Và hơn nữa, chuyện đó có thực sự quan trọng không?” Trong thoáng chốc anh nghĩ cô sẽ trả lời có, nhưng rồi cô nói khẽ, “Không, tất nhiên là không. Điều quan trọng là anh đã ở nhà. Mẹ anh sẽ rất mừng.” Anh quay người đi để cô không thể thấy nụ cười chẳng có vẻ gì vui của anh. “Đúng thế,” anh lẩm bẩm, “tất nhiên.” “Và tôi—“ Cô dừng lại, hắng giọng. “Tôi cũng rất vui vì anh đã về.” Nghe như thể cô đang cố tự thuyết phục mình tin như vậy, nhưng Michael quyết định làm một quý ông lần này và không chỉ điều đó ra. “Cô có lạnh không?” thay vào đó anh hỏi. “Không lạnh lắm,” cô nói. “Cô nói dối.” “Chỉ một chút.” Anh bước sang bên, dành chỗ cho cô lại gần ngọn lửa hơn. Khi anh không nghe thấy cô tiến lại gần, anh đưa tay về phía chỗ trống. “Tôi nên quay về phòng mình,” cô nói. “Vì Chúa, Francesca, nếu cô lạnh, thì cứ đến bên ngọn lửa. Tôi không cắn đâu.” Cô nghiến răng và bước tới, bên cạnh anh gần ánh lửa. Nhưng cô ở hơi chếch sang bên một chút, giữ một chút khoảng cách giữa họ. “Trông anh ổn,” cô nói. “Cô cũng thế.” “Cũng khá lâu rồi.” “Tôi biết. Bốn năm, tôi tin vậy.” Francesca nuốt khan, ước sao chuyện này không khó khăn đến vậy. Đây là Michael, vì chúa. Lẽ ra nó không nên khó khăn. Phải, họ đã chia tay rất tệ, nhưng đó là những ngày đen tối ngay sau cái chết của John. Họ đều đang đau đớn lúc đó, những con thú bị thương cắn xé bất cứ ai chúng gặp. Lẽ ra bây giờ phải khác. Có chúa chứng giám cô đã thường xuyên nghĩ về thời khắc này. Michael sẽ không thể xa cách mãi mãi, tất cả bọn họ đều biết vậy. Nhưng khi cơn giận dữ ban đầu của cô đã qua, cô hy vọng rằng khi anh thực sự trở về, họ có thể quên đi bất cứ điều gì khó chịu đã xảy ra giữa họ.