Từ sau ngày hôm đó, Vu Thuần Hy thật sự vẫn chưa trở lại lần nào. Ta hằng ngày đi lại trong phủ, cuộc sống rất nhàn rỗi và tĩnh lặng, có khi cả ngày cũng không mở miệng nói lời nào. Có lẽ bởi vì nếu nói quá hai câu thì lồng ngực lại nặng trĩu, hít thở không thông. Lão Triệu nói rằng đó là di chứng của trận hỏa hoạn trước đó, bệnh từ phía trong nên rất khó chẩn đoán chính xác, thế nhưng ông ấy vẫn tìm đủ mọi cách để chế thuốc cho ta. Có một lần ta ngồi nhìn ông ấy cán thuốc, tò mò hỏi: “Vì sao ông lại muốn chữa bệnh cho ta?” Ông ấy cười xuề xòa nói: “Ta đã nhận tiền của người ta rồi, nếu không chữa cho lành bệnh thì cái danh đại ngự y gìn giữ bao năm lại biến thành lang băm thì khổ.” Ta không hỏi gì nữa, ngồi im như thế suốt, xung quanh chỉ có tiếng lưỡi cắt chạy rột roạt trên cối đá và tiếng thở nặng nề của ta. Ba canh giờ liền sau đó ta vẫn ngồi im như cũ, nếu Tiểu Kỳ không chạy đến báo bữa tối thì có lẽ ta vẫn sẽ ngồi như thế mãi. Lúc đứng dậy, hai chân ta vì ngồi lâu mà tê rần đến mất cảm giác suýt chút nữa đã ngã xuống, ta đành dựa vào Tiểu Kỳ để đi ra. Trong bóng tối nhá nhem của buổi chiều tà gần tắt nắng, một bóng người thon gọn đứng ở phía hành lang đối diện nhìn chằm chằm về phía ta. Nhìn thoáng qua ta còn tưởng là binh lính canh giữ của Vu Thuần Hy, nhưng khi ánh nến từ ngọn đèn lồng hắt bên bộ giáp bạc bóng loáng của người đó ta mới biết là không phải. Y cũng giống như lần đầu tiên ta gặp, luôn đeo mặt nạ chạm khắc cầu kỳ che kín chỉ chừa lại đôi mắt sắc lạnh, y đặt tay phải lên thanh kiếm treo bên hông, lưng thẳng tắp đầy sức mạnh. Mùa hạ tháng năm năm Định Xuyên thứ ba, y chính là kẻ đứng ngay bên cạnh Vu Thuần Hy trên sườn núi Du phía sau là đội quân phấp phới cờ hiệu thêu chữ Võ - cánh tay phải trên chiến trường của Phù Đế - Võ Di Nguy. Lâu Phiên đã tiến vào Đại Mạc được gần nửa năm, mặc dù ta không thấy nhưng mọi người trong phủ đều bàn tán xôn xao rằng chiến sự xảy ra còn thường xuyên hơn cả thời của ông nội Tiểu Giảo, vậy mà cứ cách vài ba ngày ta lại thấy y đến một lần, lúc nào cũng đứng từ xa quan sát ta với ánh mắt phức tạp khó hiểu. Tiểu Kỳ nói khẽ bên tai ta: “Võ tướng quân đó lại đến nữa rồi. Em nghe mọi người nói vì ngài ấy có tướng mạo xinh đẹp dịu dàng giống như con gái vậy cho nên để tăng sức uy hiếp quân địch, mỗi lần ra chiến trường đều đeo mặt nạ, lâu dần cũng thành thói quen.” Ta không tin đằng sau đôi mắt sắc như dao găm đó lại là một khuôn mặt thanh tú được. Tiểu Kỳ còn nói thêm: “Em còn nghe bọn họ nói, Võ tướng quân lúc nào cũng đi bên cạnh Bệ hạ, có khi nào... không những khuôn mặt giống nữ nhân mà người ấy còn có tính cách giống...” Ta cốc đầu Tiểu Kỳ cười ngặt nghẽo: “Em bớt buôn chuyện với mấy bà thím trong phủ đi, toàn là lái chuyện đi xa tám nghìn dặm luôn vậy.” Võ Di Nguy mặc dù đến thường xuyên nhưng lại không có động thái gì nguy hiểm nên lâu dần ta cũng không để ý đến y nữa. Dù sao nếu y có đến thì cũng là ý của Vu Thuần Hy, mà đã là suy nghĩ của hắn thì mười lần hết đến chín lần ta đã chẳng đoán ra nổi rồi. Thoắt một cái mùa đông đến, thoắt một cái tuyết ngập đầy sân trước, thoắt một cái cây cối trơ trụi trắng xóa. Mùng Năm tháng Chạp, trời chưa sáng mà mưa đã rơi rả rích, ta nghe tiếng nói xôn xao ở bên ngoài. Tin tức Định Xuyên Đế mất cuối cùng cũng bị truyền ra ngoài, mặc dù chưa ai xác định được liệu nó có chính xác hay không, nhưng khi nhìn vào tình hình Phù Đế dẫn quân truy kích lên phía Bắc để dành lại các vùng thất thủ mà không có một lời nào từ phía hoàng cung Đại Mạc thì mọi chuyện đã trở nên quá rõ ràng. Lửa trong chậu than đã tắt ngúm từ lúc nào, ta lặng lẽ trở mình dậy, trong lòng không hiểu vì lý do gì mà nhen nhóm một chút bất an. Qua giờ Mão hai khắc, mây đen che kín cả mặt trời nên cứ âm u mãi, dường như người trong phủ cũng dậy muộn hơn bình thường. Bên ngoài có tiếng bước chân đều đặn, rồi tiếng khép dù, ai đó gõ cửa phòng ta thật khẽ giống như sợ ta nghe thấy. “Diệp cô nương đã dậy chưa vậy?” Là Vi Tử Khải. Ta đứng dậy khoác thêm áo vào, buộc nhanh lại mái tóc rồi đáp: “Đại nhân, mời vào!” Vi Tử Khải thấy ta mặt mũi vẫn còn kèm nhem nên định ra ngoài trước, đợi ta chuẩn bị xong rồi mới vào. “Vậy thì phiền Đại nhân đợi ta một chút, ta đi rồi sẽ quay lại liền.” Có lẽ Tiểu Kỳ vẫn chưa thức dậy nên ta đành tự đi lấy nước rửa mặt. Giếng nước ở phía sau gian nhà, có mấy người làm trong phủ đã tụ tập từ sớm xung quanh nhà bếp gần đó, bởi vì chưa có chủ tử nào thức giấc nên bọn họ được rảnh rang một chút, lúc thấy ta định kéo nước lên rửa mặt thì một người trong số đó đi ra nói rằng bên trong có nước ấm và khăn sạch đã chuẩn bị sẵn. Ta sợ Vi Tử Khải đợi lâu nên rửa mặt súc miệng qua loa rồi lại quay trở lại, lúc đi trên hành lang may mà mưa nhiều nhưng không có gió nên y phục đến khi về phòng cũng không cần phải thay. Vi Tử Khải không biết đã pha sẵn bình trà nóng từ khi nào, tự nhiên rót cho ta một ly giống như đây là phòng hắn còn ta là khách đến thăm vậy. “Đại nhân có việc gì mà mới sáng sớm đã ghé qua đây vậy?” Bệnh phổi của ta Triệu đại phu vẫn chưa tìm được thuốc chữa trị nên đến bây giờ dù muốn nói vòng vo vài lời thì cũng không có khả năng, cho nên ta cứ thế đi thẳng vào vấn đề. Hắn mặt mày nặng nề thở dài hai ba tiếng, không biết nên bắt đầu từ đâu: “Cô nương đã từng nghe qua Thiết Phù Đồ trận hay chưa?” (Thiết Phù Đồ: là đội kỵ binh hạng nặng mà Tứ hoàng tử Ngột Truật của nhà Kim dùng để đối đầu với tướng Nhạc Phi của Nam Tống.) Ta nhớ lại trong đầu lúc còn nhỏ cha ta hình như từng nhắc qua từ này một lần, ông nói đây là cách bày trận rất mạnh mà số người tạo ra được chỉ đếm trên đầu ngón tay của một bàn tay. Ở những vùng thảo nguyên rộng lớn, ngựa được nuôi dưỡng từ giống ngựa Đề Ký hoang dã, vừa to lớn khỏe mạnh lại có thể thồ được vật nặng đi đường xa gấp trăm lần ngựa của vùng đồng bằng chúng ta. Người cưỡi ngựa cũng được huấn luyện rất khắt khe, có khả năng sử dụng nhiều loại vũ khí và di chuyển trên mọi địa hình mà không hề tán loạn mất trật tự. Cha ta nói đội kỵ binh tinh nhuệ này phải sử dụng một loại áo giáp rất đặc biệt bao bọc toàn bộ người lẫn ngựa nhưng ông lại không nói rõ cho nên ta không thể hình dung ra được. (Đề Ký: Đề có nghĩa là móng thú, Ký là bền bỉ, gộp chung lại là giống ngựa móng chắc khỏe chạy bền đường dài.) “Ta có từng nghe cha nói qua một lần, nhưng lại chưa được tận mắt nhìn thấy bao giờ. Không lẽ nào Lâu Phiên có người có thể sử dụng được trận pháp này?” “Cách đây mấy ngày, đội kỵ binh tinh nhuệ Thiên Không quân của Phù Đế ra quân đối đầu với hai nghìn quân Thiết Phù Đồ do Ngô Đề Vương của Lâu Phiên chỉ huy, nếu không rút quân kịp thời e rằng toàn bộ quân ta đều bị mất sạch, trong khi chẳng đụng được đến một sợi tóc của kẻ địch.” Ta không kìm được ngạc nhiên và hoảng hốt, cha ta đúng là có nói Thiết Phù Đồ rất mạnh nhưng ta không thể tưởng tượng được nó lại có sức tàn phá kinh khủng đến vậy. Vi Tử Khải đến tìm ta không lẽ hắn nghĩ rằng đến cả Vu Thuần Hy còn không thắng được mà ta lại có khả năng đó sao? “Đại nhân đến đây lúc sáng sớm chắc không phải chỉ để kể cho ta nghe chuyện này thôi đúng không?” “Lúc trước vì để đề phòng sau này Lâu Phiên phá vỡ giao ước tiến sang tấn công Đại Mạc, ta và vi sư có từng bàn qua trận pháp và cách phá giải Thiết Phù Đồ. Ai cũng sẽ nghĩ với một đội quân tiến lên san sát nhau không có nổi một kẽ hở hay nhược điểm như vậy thì dù có tốn cả đời cũng không tìm ra được phương pháp đánh bại nó. Thế nhưng bởi vì quân lính quá tinh nhuệ cho nên trăm người mới chọn được một, một khi ngã xuống thì không kịp lấy người khác bù vào. Hơn nữa vì để biến người ngựa trở thành một bức tường sắt thì áo giáp mà bọn chúng dùng rất nặng, dù ngựa Đề Ký có thể chịu đựng được về lâu dài nhưng tốc độ của chúng lại bị giảm đi đáng kể. Vậy thì...” Vi Tử Khải đột nhiên dừng lại, nhìn thẳng vào ta như chờ đợi. Cha ta thích nhất là trò hạ gục người khác, đặc biệt là những kẻ luôn nghĩ rằng mình bất bại, càng khiến bọn họ ê chề nhục nhã mà thua cuộc lại càng khiến cho cha ta sung sướng vỗ đùi đen đét. Ông nói rằng: “Trên đời này, không có thứ gì là hoàn hảo không một điểm yếu, cho nên muốn đánh bại chỉ cần tìm đúng điểm đó rồi biến nó trở thành vũ khí của chúng ta.” Ta tiếp lời Vi Tử Khải: “Vậy thì chỉ cần tạo ra một loại áo giáp mỏng nhẹ cộng thêm sức ngựa dẻo dai nhanh nhạy của chúng ta...” Ta dừng lại, phát hiện ra có gì đó không đúng ở đây: “Nhưng lấy đâu ra loại áo giáp đó?” “Vi sư từng ra lệnh chế tác nhưng trước khi qua đời lại chưa hề nói gì với ta. Ta muốn hỏi cô nương liệu có nhớ gì về chuyện như vậy hay không?” Cái lắc đầu gần như ngay lập tức của ta khiến cho đáy mắt hắn hiện lên nổi thất vọng rõ rệt, hắn cúi đầu xuống nhìn vào nước trà nâu nhạt trong ly. “Cha chưa từng nói cho ta nhưng có lẽ Bàng thúc sẽ biết, để ta gửi thư cho thúc ấy hỏi thử.” “Ta sẽ cho người cưỡi ngựa tốt nhất để đưa thư.” Mặc dù vấn đề chưa chắc đã được giải quyết, nhưng khi hắn ra về mặt mày cũng đỡ ủ dột hơn trước. Ta đột nhiên muốn hỏi hắn một chuyện. “Đại nhân không sợ một khi hắn có được Đại Mạc rồi thì sẽ giết ngài trừ hậu họa giống như đã trở mặt với Tư Đồ Cung sao?” Sau đêm mưa năm năm trước, ta đến Đại Mạc dốc hết sức lực tìm kiếm rõ ràng rốt cuộc chuyện gì đã xảy ra. Hóa ra là do Tư Đồ Cung vì thất thế trong cung mà ngấm ngầm cấu kết với Vu Thuần Hy nhằm gây chính biến buộc Đại Mạc xưng thần, từ đó dựa vào quyền uy của hắn mà đoạt lấy quyền lực qua mặt cha ta. Nhưng không may cho lão ta, sau khi kế hoạch thành công, Vu Thuần Hy lại thẳng thừng chối bỏ lời hứa hẹn, những quan lại dưới cấp tham gia vào kế hoạch này đã quay ngược lại chỉ trích lão khiến thế lực của lão trong triều dần sa sút. Sau tất cả vẫn là bọn họ tự giết hại lẫn nhau lại đẩy luôn cha ta vào cuộc, mà Vu Thuần Hy chính là kẻ ngư ông đắc lợi hơn cả. Lúc biết được sự thật ta chỉ muốn xông vào hoàng cung một dao đâm chết lão ta, nỗi hận thù lúc đó lấp đầy từng khe hở máu thịt vậy mà vẫn phải âm thầm sống mà chịu đựng. Vi Tử Khải xoay mặt ra màn mưa bên ngoài, cười nhạt: “Ta đúng là đã từng nghĩ đến kết cục này, mặc dù miệng nói là giúp cho dân chúng có một cuộc sống ấm no nhưng những điều này có khác gì là bán nước cho giặc. Tuy nhiên có lẽ cô nương không nhớ điều mà vi sư vẫn thường luôn nhắc nhở bên tai: Quan chết thì vẫn có người khác lên thay, nhưng lòng dân mà chết thì đất nước ắt sẽ vong. Ta chỉ hy vọng có thể hoàn thành tín ngưỡng này của vi sư, ít nhất có chết cũng không phụ lòng ông ấy nuôi dưỡng dạy dỗ ta bao nhiêu năm qua.” Hắn quay lại nhìn ta, ánh mắt loáng lên một tia sáng lạnh lẽo: “Nhưng không phải là không có cách để tránh việc này. Nếu Diệp cô nương có thể giành được sự tin tưởng của Phù Đế thì chẳng phải việc trừ khử hắn dễ như trở bàn tay sao.” Hóa ta hắn cũng không hiểu ta: “Năm đó ở Thang Âm cốc, ta đã giết hắn một lần, bây giờ đại nhân lại muốn ta giết hắn thêm lần nữa? Để ta nói cho người biết, ta không làm được, ta không chịu được nỗi đau đó thêm một lần nữa. Ai muốn mắng muốn chửi rằng ta là con rùa rụt đầu cũng được, đánh chết ta cũng sẽ không làm thêm lần nào nữa.” Ta bây giờ chỉ muốn cho mình một cơ hội để từ bỏ mối tình này, không phải bởi vì hết yêu hết hận mà là vì không còn sức để yêu để hận nữa rồi. Sau khi Vi Tử Khải rời đi, trời tạnh mưa dần, mây tan nắng tụ, khoảng sân quang đãng ánh sáng tỏa đấy. Ta mở một cánh cửa sổ, ngồi xuống bàn viết hai phong thư gửi cho Bàng thúc, một cái hỏi về chuyện áo giáp của cha, cái còn lại là nhờ thúc ấy gửi đến cho lão Trần phòng trường hợp thúc ấy không biết chuyện này. Ta nghĩ lão Trần là Thần Phong trong Mạc Thám hội, có thể ít nhiều tham gia vào những chuyện trước kia của cha ta. Quả nhiên ba ngày sau đó, Tống An cho người gọi ta ra tiền sảnh gặp lão Trần. Đi cùng lão là khoảng chục người đi xe ngựa chở theo năm nghìn áo giáp do cha ta chế tác ra. Sau khi nghe ta kể lại kế hoạch của Vi Tử Khải, Tống An không chậm trễ gì thêm nữa, lập tức dẫn lão Trần và đoàn xe đến doanh trại Tuyên thành. Trước khi bọn họ đi, ta đã kịp nhét một phong thư vào tay lão Trần dặn lão đưa cho Vu Thuần Hy, vạn sự kinh qua giữa ta và hắn đều đã gói gọn vào trong bức thư này rồi. Ta còn nhờ lão nếu có gặp Tiết Thống thì gửi lời ta dặn hắn giữ gìn sức khỏe đừng chạy ra tiền phương đấu đá này nọ nữa, ta hy vọng hắn sẽ sống tốt. Mùng Mười tháng Chạp, vì là sinh thần của ta nên Vu Thuần Hy cho người canh gác lỏng lẻo hơn một chút, đến chiều các nội nhân trong phủ tổ chức một bữa tiệc nhỏ dành cho ta, mọi người vui vẻ cười nói đến tận tối muộn mới tàn, ai về phòng người nấy. (Nội nhân: vợ, con gái hoặc thê thiếp trong nhà.) Ta bưng khay đi ra cười nói với Tiểu Kỳ: “Trời tuyết lạnh lắm, em mang một ít canh nóng cho người canh gác bên ngoài đi.” Đầu canh ba, người làm trong phủ đã đi ngủ hết, còn một canh giờ nữa là đến giờ đổi gác, ta thay áo quần nam trang buộc tóc thành búi nhỏ lẻn ra bên ngoài, lén nhìn ba người lính đang gục mặt ngủ say trên hành lang rồi ẩn mình vào đêm đen. Sáng ngày Mười Một tháng Chạp, tuyết ngừng rơi trên chiến trường Tuyên thành như báo hiệu một trận chiến khốc liệt chuẩn bị xảy đến. Các đội quân được điều động từ khắp nơi đã tụ tập đông đủ ở Tuyên thành, chỉ riêng đội của lão tướng Lý Nguyên Hạo vẫn trấn giữ ở cửa ải Liêm thành Thượng Nhai tuyệt đối không để người Lâu Phiên tiến vào một bước, cắt đứt nguồn lực chi viện của quân địch. Dân nhiều nơi chạy nạn về thành một khối, các thành khác đều được hạ lệnh vườn không nhà trống. Trận này nếu còn không thể thắng hoàn toàn, quân Lâu Phiên buộc phải rút về nước để dưỡng sức. Mặt trời vừa lên sau núi, hai bên không hẹn mà cùng bày trận. Gió bắc nổi lên, cờ hiệu bay phấp phới. Phía bên kia là Ngô Đề Vương và Ô Luân Vương dẫn đầu ba mươi vạn quân hùng hậu, trên đài cao người mặc áo bào đeo vàng bạc châu báu có lẽ là Khả Hãn của Lâu Phiên Sắc Kỳ Đôn. Bên này, cánh hữu là Lý Khởi Nghiêm dẫn đầu, vị trí trung quân gồm bốn vạn quân cùng quân tinh nhuệ của Vi Tử Khải vẫn luôn do Võ Di Nguy dẫn, cánh tả được dẫn bởi... Hoàng Tước. Hình như từ lần cướp vàng đó đến bây giờ mới gặp lại. Vu Thuần Hy đích thân dẫn năm nghìn kỵ binh Thiên Không quân mặc áo giáp của cha ta đi ngay phía sau vùng trung tâm, mục đích để bảo toàn lực lượng đối địch với Thiết Phù Đồ. Trống trận nổi lên, toàn quân hai bên lao về phía nhau như hai mũi tên trượt ra khỏi cung, ta theo dòng người của cánh tả binh giáp vũ khí nặng nề hét to chạy lên. Ta đã tự hỏi bản thân nhiều lần, rốt cuộc là ta cần gì, đáp án chính là sự giải thoát, giải thoát khỏi số mệnh cay nghiệt này. Nhưng ta đường đường là con trai của Hữu thừa tướng Diệp Chính, cha ta nói làm nam nhân có chết cũng phải chết trên chiến trường, ta muốn ít nhất một lần, trong cuộc đời nhiều lắm những thất bại của mình, có thể thực hiện được những điều cha răn dạy. Hai bên giằng co được một lúc lâu thì quân địch bắt đầu rút lui, quân Mạc Phù tiếp tục tiến mạnh. Thế nhưng chỉ sau thời gian chưa đến một nén hương, tiếng gót sắt của ngựa Đề Ký đã vang lên rầm rầm ở ngay phía sau quân địch. Võ Di Nguy ra lệnh: “Toàn bộ kỵ binh ngừng truy kích, cung thủ ở phía sau sẵn sàng, bộ binh chia thành hai nhánh tiến đánh gọng kìm quân Lâu Phiên.” Vừa dứt lệnh cũng là lúc Thiên Không quân và Thiết Phù Đồ chạm vào nhau. Ta vừa chạy vừa quay đầu lại nhìn ai ngờ gặp trúng ánh mắt của Vu Thuần Hy, hắn hoảng hốt nhìn về phía này, môi mấp máy điều gì đó nhưng vì quá ồn ào nên ta không nghe thấy. Ta nhìn hắn, rồi mỉm cười, nụ cười trong vắt như nước, nụ cười của lần đầu hai ta gặp nhau. Bỗng nhiên sau gáy ta có gì đó nện vào, không đau nhưng hai mắt tối sầm lại, Vu Thuần Hy muốn chạy đến nhưng lại bị quân lính xung quanh bảo vệ chặt chẽ. Lúc này đây, ta đã bước qua ranh giới rồi vỡ tan, ta tự hỏi bản thân có hối hận vì gặp gỡ người hay không? Không, ta chỉ nghĩ không cần gì khác cả, vì một niềm tương tư ấy thôi cũng đẹp lắm rồi.