Từng có một người yêu tôi như sinh mệnh
Chương 27 : - Part 3
Đến chân tòa chung cư, Khâu Vĩ giúp tôi tháo dây an toàn, anh quay sang nói với tôi: “Gia Ngộ nhờ tôi chăm sóc cô, tôi đã không làm tốt, thật là…”.
Anh thở dài một hơi.
Tôi cười cười: “Anh thở dài làm gì chứ? Chuyện này vốn không liên quan đến anh”.
Khâu Vĩ cúi đầu châm một điếu thuốc, anh hỏi tôi: “Cô có làm một điếu không?”
“Không cần”. Tôi lắc đầu: “Anh Khâu, anh có thể tìm công việc giúp em không?”
Khâu Vĩ quay sang nhìn tôi bằng ánh mắt nghi hoặc. Lúc này tôi mới nhớ ra, anh không biết tôi đi làm thuê ở bên ngoài, tôi vội giải thích: “Hôm Gia Ngộ bị thương, em rời khỏi cửa hàng mà không báo cho ông chủ một tiếng nên bị đuổi việc rồi”.
“Sao cô lại đi ra chợ? Nơi đó hỗn loạn lắm, loại người gì cũng có, một học sinh như cô sao có thể chịu nổi công việc lao động chân tay nặng nhọc đó?”
“Em không có tiền, trong tay em chẳng còn một đồng nào cả”.
Điếu thuốc trên miệng Khâu Vĩ suýt bị rớt xuống sàn xe: “Nhà cô không gửi sinh hoạt phí cho cô sao?”
“Nhà em cũng cần tiền”. Tôi ngoảnh đầu ra ngoài cửa sổ và nói chậm rãi: “Bệnh của mẹ em bây giờ chuyển thành suy thận mãn tính, một tháng phải rửa thận mấy lần…”.
Khâu Vĩ tỏ ra không tin: “Số tiền Gia Ngộ cho cô, cô không giữ lại một ít sao?”
“Không, anh ấy còn cần hơn em”.
Khâu Vĩ há hốc miệng nhìn tôi hồi lâu, sau đó anh rút ví tiền, lấy hết tiền trong ví gồm cả đô la Mỹ và đồng Hryvnia nhét vào tay tôi: “Cô hãy cầm tạm trước đi, vài ngày nữa tôi sẽ đưa cho cô thêm một ít, cô đừng đi làm thuê nữa”.
Tôi đặt tiền lên đùi anh và đẩy cửa bước xuống xe.
“Triệu Mai!”
Tôi đứng lại, quay đầu nói với anh: “Anh ấy đã nợ anh quá nhiều rồi, em không thể nợ anh thêm”.
Khâu Vĩ đập mạnh tay vào vô lăng khiến còi xe kêu inh ỏi một lúc lâu.
Tôi vội vàng đi nhanh vào thang máy, cúi đầu bấm nút thang máy.
Dù khổ sở mệt nhọc thế nào tôi cũng sẽ chịu đựng, tôi không muốn nhìn thấy ánh mắt thương hại của người khác, bởi vì tôi sợ một khi tôi thương hại chính bản thân mình, tôi sẽ không còn dũng khí để tiếp tục kiên trì.
Vài ngày sau Valeria giúp tôi tìm một công việc trông coi cửa hàng ở chợ “Bảy km”. Do phép lịch sự, tôi đến dự hôn lễ của chị.
Tuy Valeria đã có Ivan nhưng đây là lần đầu tiên chị mặc váy cưới nên không tránh khỏi tâm trạng hồi hộp và hưng phấn.
Hôm chị tổ chức đám cưới, tôi xin phép ông chủ nghỉ nửa buổi. Từ cửa hàng tôi đến thẳng nhà thờ nhưng vẫn bị muộn. Khi tôi thở hổn hển kéo cánh cửa nhà thờ, mục sư đã bắt đầu kêu cô dâu và chú rể tuyên thệ trước chúa.
Chú rể có diện mạo bình thường, ít nhất lớn hơn Valeria mười tuổi, nhưng có thể thấy anh ta là người hiền lành lương thiện, có nghề nghiệp ổn định. Quan trọng hơn, anh ta rất yêu thương chiều chuộng Valeria.
Tôi tìm một vị trí ngồi xuống, đúng lúc này mục sư hỏi chú rể: “Dù giàu có hay nghèo khó, dù khỏe mạnh hay bệnh tật, dù vui vẻ hay lo buồn, anh có đồng ý yêu thương cô ấy, trung thành với cô ấy cho đến lúc đầu bạc răng long?”
Chú rể quay sang nhìn cô dâu bằng ánh mắt thâm tình. Cô dâu xinh đẹp tuyệt trần trong bộ váy cưới màu trắng, trên đầu đội một vương miện hoa kết bằng hoa.
Mục sư hỏi lại: “Anh có đồng ý không?”
Chú rể cầm tay cô dâu nói rõ ràng: “Tôi đồng ý!”
“Cô dâu thì sao?” Mục sư quay sang Valeria: “Cô có đồng ý sẽ yêu thương anh ấy, trung thành với anh ấy cho đến lúc đầu bạc răng long, dù gặp cảnh giàu có hay nghèo khó, dù khỏe mạnh hay bệnh tật, dù vui vẻ hay lo buồn?”
Valeria thẹn thùng cúi đầu nói nhỏ: “Tôi đồng ý!”
Không khí trong nhà thờ náo nhiệt hẳn lên, mọi người bị khuấy động bởi cảnh tượng này.
Một bà già ngồi bên cạnh tôi cầm khăn tay chấm lên khóe mắt: “Đẹp lắm đúng không?”
Tôi đỡ đẫn nhìn cô dâu chú rể, đầu óc trống rỗng.
“Một đôi rất đẹp, một tình yêu rất đẹp”. Bà già tiếp tục tỏ ra cảm động.
Tôi đột nhiên không thể chịu nổi, hạnh phúc của người xung quanh khiến tôi ghen tỵ đến mức phát điên. Tôi đứng dậy chạy ra khỏi nhà thờ, không kịp chứng kiến cảnh cô dâu chú rể trao nhẫn và hôn nhau.
Đứng trên con đường nhỏ bên ngoài nhà thờ, tôi ngẩng đầu nhìn lên trời, nhưng thật ra để che dấu giọt lệ đã trào ra khóe mắt.
Mái vòm cung của nhà thờ ở phía đối diện lúc này nổi bật dưới ánh mặt trời. Trên bức tường đá tinh xảo, một thiên thần đang lướt trong gió nhẹ, vạt áo bay phấp phới. Một đàn bồ câu trắng chao lượn trong không trung, cảnh tượng rất đỗi quen thuộc này khiến trái tim tôi mềm dịu hẳn. Sự thanh bình an lạc rất đỗi bình thường này, từ nơi sâu thẳm dưới đáy lòng tôi đã trở thành một ước mơ xa vời.
Vào buổi chiều tối mười ngày sau đó, khi tôi từ chợ về nhà, tôi đột nhiên nghe thấy tiếng còi ô tô pin pin ở đằng sau.
Tôi quay đầu, một chiếc xe sang trọng màu đỏ chót đỗ ở ngay bên cạnh. Cửa xe kéo xuống, La Tây mỉm cười với tôi.
“Lên xe đi”. Chị ta cất giọng không dễ từ chối.
La Tây đưa tôi đến câu lạc bộ bài trí theo phong cách Nga, nơi Tôn Gia Ngộ thường dẫn tôi đến ăn cơm.
Chúng tôi vừa ngồi xuống, một nhân viên phục vụ quen thuộc liền đi tới châm thuốc cho La Tây và đưa tờ thực đơn.
“Cô muốn ăn gì?” La Tây hỏi tôi: “Bít tết của nhà hàng này không tồi, chúng ta gọi món đó nhé!”
La Tây chưa bao giờ có thái độ tử tế với tôi như vậy, tôi kinh ngạc vội vàng mở miệng: “Chị không cần phải tốn kém đâu, em ăn gì cũng được”.
Khi món salad được dọn lên, hai chúng tôi vẫn ngồi im, không người nào có tâm tư cầm dao dĩa. La Tây đến tìm tôi tuyệt đối không phải vì muốn mời tôi ăn cơm, về điểm này trong lòng tôi biết rõ.
“Chị, có gì chị cứ nói thẳng đi ạ”.
La Tây ngẩng mặt nhả một vòng trói khói thuốc, đến lúc này chị ta mới lên tiếng: “Đã có kết quả rồi, cậu ấy bị hủy tư cách định cư lâu dài, buộc phải xuất cảnh trong vòng mười lăm ngày, nếu không sẽ bị trục xuất”.
Mặc dù La Tây không nói rõ nhưng tôi biết chị ta đang nhắc đến ai, tôi thở phào nhẹ nhõm: “Gia Ngộ lúc nào mới được thả ra?”
La Tây mỉm cười: “Cậu ấy đã được thả rồi, hiện đang ở nhà tôi”.
Tôi ngẩng đầu, trầm mặc nhìn chị ta.
La Tây lại nhả khói: “Bây giờ cậu ấy chỉ có thể di chuyển bằng xe lăn, nhà tôi rộng rãi lại có người phục vụ nên rất tiện lợi”.
Tôi cảm thấy cổ họng khô rát, nuốt nước bọt rồi mở miệng một cách khó khăn: “Em có thể gặp anh ấy không?”
“Cô muốn gặp cậu ấy sao?” La Tây biết rõ còn hỏi lại tôi.
“Vâng, em muốn gặp anh ấy”. Tôi nhấn mạnh.
La Tây chống tay lên quai hàm nhìn tôi hồi lâu, bình thường rất hiếm khi chị ta có cử chỉ nữ tính như vậy.
Tôi im lặng nhìn chị ta.
“Cô em, tôi sẽ kể cho cô nghe một chuyện thú vị”. La Tây cuối cùng cũng dập tắt điếu thuốc lá, chị ta nhếch mép nở nụ cười mỉa mai: “Sáng hôm qua Lão Tiền đến chỗ tôi, anh ta mang theo một cuộn băng đi tìm Gia Ngộ. Anh ta nói muốn đổi cuộn băng này lấy mạng lưới làm ăn Gia Ngộ gây dựng ở Ukraine trong suốt bảy năm qua, nếu không anh ta sẽ công khai cuộn băng lên mạng. Gia Ngộ không còn cách nào khác, chỉ có thể nghe lời anh ta. Tâm huyết suốt bảy năm trời, cô có biết là khái niệm gì không? Còn nữa, cô có muốn biết nội dung của cuộn băng đó?”
Đầu óc tôi nổ tung, hai tai ù ù, tôi trợn mắt nhìn La Tây: “Ý chị là gì?”
“Cô cho rằng ý tôi là gì?” Chị ta nhướng mày cười nhạt: “Hai mươi ngàn đô la cho một lần lên giường với đàn ông, gái gọi cao cấp nhất ở Odessa cũng không có cái giá đó, cô tưởng cô là ai chứ?”
Tôi hít một hơi dài, hai cuộn chặt thành nắm đấm, chặt đến mức móng tay bấm sâu vào da thịt.
“Cô muốn biết Lão Tiền đã làm gì đúng không?” La Tây nhìn tôi bằng ánh mắt chán ghét: “Đúng vậy, Lão Tiền đã dùng cô để chơi Gia Ngộ một vố. Triệu Mai, sao cô không chịu động não tìm hiểu xem chuyện đó có hợp tình hợp lý? Cô nghĩ đàn ông đều chịu vung tiền qua cửa sổ hay sao?”
Giống như bị sét đánh trúng đầu, tôi nắm chặt hai thành ghế khép mi mắt. Hóa ra tôi đã quá đề cao bản thân, bây giờ tôi đã hiểu, nhưng cái giá phải trả là quá lớn.
“Bạn gái dùng thân thể để đổi lấy tiền cứu mạng người đàn ông. Đây là hành vi cầm dao đâm thẳng vào ngực cậu ấy, cô có biết không? Cậu ấy còn mặt mũi nào gặp cô nữa?” La Tây vô ý thức cất cao giọng, khiến những khách hàng ở bàn xung quanh đều dồn mắt về phía chúng tôi.
Tôi không thể chịu nổi ánh mắt của chị ta nên cúi thấp đầu, chỉ muốn tìm một lỗ chui xuống.
La Tây nhìn tôi một lát, giọng nói của chị ta đột nhiên trở nên mềm mại hẳn: “Triệu Mai, lúc tôi bằng tuổi cô, tôi còn ngốc hơn cô nữa. Tôi dạy cô câu này, cô hãy ghi nhớ, cô đừng bao giờ đánh giá cao mức độ ảnh hưởng của bản thân với đàn ông, bọn họ có thế giới và nguyên tắc của bọn họ. Cô cũng đừng bao giờ hy sinh bản thân vì bọn họ, bởi vì làm vậy bọn họ cũng chỉ cảm kích cô chứ không yêu cô hơn”.
Tôi cúi mặt lặng thinh. Trái tim tôi đau đớn đến mức tê liệt.
La Tây lại thở dài: “Gia Ngộ đúng là có số đào hoa, cả cuộc đời đều chết trong tay phụ nữ, cứ yêu ai thật lòng là gặp đen đủi. Đầu tiên là Phạm Miểu, tiếp đó là Bành Duy Duy, cuối cùng là cô. Lần đầu tiên gặp cô, tôi không khỏi giật mình, nhìn qua thì không giống lắm nhưng lúc cô cười nói thì đúng là bản sao của Phạm Miểu”.
Tôi đờ đẫn nhìn đống dao dĩa cốc đĩa ở trước mặt, không thể há miệng thốt ra một thanh âm nào, giống như tôi đã hoàn toàn mất đi năng lực ngôn ngữ. Tôi không biết, tiếp theo còn bao nhiêu điều bất ngờ mà tôi cần phải chuẩn bị tâm lý chịu đựng.
La Tây dường như không để ý đến sự thay đổi trên gương mặt tôi, chị ta nói tiếp: “Gia Ngộ chưa từng nhắc đến Phạm Miểu với cô? Con bé đó kém Gia Ngộ hai khóa, là hoa khôi có tiếng trong khoa của cậu ấy. Gia Ngộ vất vả theo đuổi suốt một năm trời, con bé đó mới gật đầu đồng ý. Cậu ấy nâng niu con bé như một bông hoa. Năm đó sau khi chôn cất ông già, Gia Ngộ lập tức sang Hungary trả nợ. Trong tay cậu ấy còn hơn ba trăm ngàn nhân dân tệ, cậu ấy đưa hết cho con bé đó nhờ nó thanh toán khoản tiền hàng cuối cùng. Ai ngờ nó thấy nhà họ Tôn lụi bại, không còn như trước kia, thế là nó lặng lẽ làm thủ tục đi du học. Đợi đến khi cậu ấy lên máy bay, nó cũng biến mất cùng với số tiền ba trăm ngàn. Thời điểm đó là năm chín mấy, ba trăm ngàn là con số không nhỏ. Gia Ngộ bị khốn đốn ở Hungary, lúc thê thảm nhất trong tay cậu ấy chỉ có sáu trăm đô la Mỹ, không đủ tiền mua vé máy bay về nước. Cậu ấy hết cách nên đành phải sang Ukraine làm ăn”.
Nói đến đây, La Tây mỉm cười.
Tôi có thể tưởng tượng ra, lúc Tôn Gia Ngộ mới đến Odessa, anh không người thân không bạn bè, ngôn ngữ không thông, chắc chắn La Tây đã giúp đỡ anh. Nam nữ ở nơi tha hương nương tựa vào nhau, cùng đạt những thứ mình cần.
Cuối cùng tôi mở miệng hỏi chị ta: “Anh ấy hận cô ta hay không quên nổi cô ta?”
La Tây lại châm một điếu thuốc và nở nụ cười bất lực: “Những người đàn ông theo đuổi cô trước kia, sau bao nhiêu năm sau, cô có nhớ diện mạo của họ không?”
Tôi lắc đầu.
“Thế thì đúng rồi, đàn bà sẽ nhớ mãi không quên những người đàn ông rơi lệ vì họ. Còn đàn ông sẽ chỉ nhớ người phụ nữ khiến họ đau lòng.”
Không cần nói gì thêm, tôi tựa người vào thành ghế, toàn thân mềm nhũn, chân tay cứng đờ không thể cử động.
Cuối cùng La Tây đưa cho tôi một cái túi giấy: “Ở nơi công cộng cô đừng mở ra, về nhà rồi xem sau. Nếu cô muốn tốt cho Gia Ngộ thì đừng bám lấy cậu ấy nữa, để cậu ấy yên tâm rời khỏi nơi này.”
La Tây xoa đầu tôi, chị ta định nói điều gì đó nhưng lại thôi.
Chị ta đi ra ngoài thanh toán tiền rồi rời khỏi nhà hàng.
Tôi vẫn ngồi bất động một chỗ, lâu đến mức nhân viên phục vụ tiến lại gần hỏi thăm: “Thưa cô, cô có cần giúp gì không?”
Tôi lắc đầu, anh ta cười cười với tôi rồi đi chỗ khác.
Tôi không nghe theo lời khuyên của La Tây, xé túi giấy và thò tay vào bên trong. Sau đó tôi không kiềm chế nổi, nhếch mép mỉm cười.
Trong túi là năm xấp tiền một trăm đô la Mỹ.
Có một tờ giấy kẹp giữa xấp tiền, trên cùng là hai chữ: “Mai Mai”, bên dưới là một khoảng trống trắng tinh, cuối cùng mới là dòng chữ xiêu vẹo: “Em hãy quên hết tất cả, tiếp tục theo đuổi ước mơ của em. Hãy tiến về phía trước, rồi sẽ có người yêu em hơn anh”.
Tôi thẫn thờ nhìn túi giấy rồi bật cười thành tiếng.
Đúng là khôi hài thật, người bạn gái đầu tiên ôm tiền của anh chạy mất, anh lại dùng tiền để xua đuổi người vừa ở bên cạnh anh.
Đây có được coi là tiền bồi thường không? Mười tháng trái tim tan nát đổi về hơn bốn trăm ngàn nhân dân tệ. Vụ giao dịch này kể ra cũng lời thật đấy. Tôi vẫn mỉm cười, bởi vì tôi không khóc nổi.
Tôi đốt tờ giấy trên ngọn nến, mở to mắt nhìn tờ giấy từ từ hóa thành tro bụi.
—————————–
Khi ngẫm nghĩ lại, tôi không tin từng cử chỉ bộc lộ tấm chân tình và sự yêu thương anh dành cho tôi trong thời gian qua chỉ vì tôi giống một ai đó.
Tôi cũng không tin anh nhẫn tâm không chịu gặp tôi chỉ vì tôi không hiểu lòng người hiểm ác làm chuyện dại dột. Chúng tôi đã trải qua bao nhiêu khó khăn trắc trở như vậy, gần như một đời một kiếp của người khác.
Tôi không tin một chút nào.
Trong lòng tôi vẫn nuôi một tia hy vọng, tôi đếm từng ngày trôi qua.
Nhưng Tôn Gia Ngộ vẫn biệt tăm biệt tích, cho đến buổi tối ngày thứ mười lăm giống cái đêm anh lặng lẽ biến mất.
Tất cả đã kết thúc.
Cành cây bên ngoài cửa sổ đã rụng hết hoa, lá xanh bắt đầu nhuộm màu vàng. Mùa hạ dài dằng dặc của Odessa cuối cùng cũng qua đi.
Tôi bắt đầu thu xếp hành lý chuẩn bị về nước. Tôn Gia Ngộ nói đúng, thành phố này không có duyên với tôi.
Đồ đạc không mang về tôi đều đem tặng cho người khác. Tôi muốn xóa sạch những ký ức liên quan đến thành phố này. Tôi sẽ không bao giờ quay trở lại nơi đây.
Người duy nhất ra sân bay tiễn tôi là Khâu Vĩ. Tôi mỉm cười chào tạm biệt anh ở cửa kiểm tra.
“Triệu Mai, cô đừng hận cậu ấy…”. Khâu Vĩ nhìn tôi.
Tôi ngắt lời anh, cố gắng nở nụ cười nhẹ nhõm: “Anh Khâu, nếu anh về Bắc Kinh, nhớ gọi điện cho em, em sẽ mời anh ăn cơm”.
Chiếc máy bay Boeing 747 cuối cùng cũng lăn bánh trên đường băng và lao vút lên bầu trời xanh lam. Từ trên cửa sổ máy bay nhìn xuống, bên dưới là đồng bằng Ukraine rộng lớn và biển Đen cuộn sóng lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời.
Hôm đó là ngày hai mươi tư tháng tám, đồng bằng Ukraine đẹp đẽ đã bước vào đầu thu. Nhưng tôi không còn cơ hội đi dưới ánh nắng ấm áp của mùa thu, đằng sau là con đường dọc bờ biển đầy lá vàng rơi, trước mặt là rừng cây sơn tra đỏ rực đẹp như một bức họa.
Tôi giơ tay lên cửa sổ vẫy chào.
Tạm biệt Odessa!
Tạm biệt Ukraine!
Hết chương 11
Truyện khác cùng thể loại
55 chương
123 chương
112 chương
67 chương
58 chương
10 chương