Tử Thư Tây Hạ

Chương 17 : Người tịnh tu bên hồ

1 Mặt trời hửng sáng phía đông, ánh nắng ấm áp vương trên mặt hồ, cũng vương trên mặt Đường Phong, Hàn Giang, Makarov và Lương Viện, bốn người đều đã trải qua một đêm khó nhọc. Đường Phong tỉnh dậy, phát hiện Lương Viện bên cạnh mình vẫn hôn mê chưa tỉnh, anh bất giác thấy trong lòng đầy ắp bi quan. Lương Viện vốn đang ốm đau, lại trải qua bao nhiêu dày vò như vậy, xem ra lành ít dữ nhiều. Đường Phong thấy Hàn Giang và Makarov cũng đã tỉnh lại, anh liền hét về phía họ: “Hai người có cách nào tháo dây thừng ra không?” Không cần Đường Phong hỏi, Hàn Giang và Makarov đều đã ở đó dốc hết sức, định thoát khỏi sợi dây thừng trên người, nhưng hai người họ càng giãy giụa, sợi dây trên người càng thắt chặt, chặt tới nỗi hai cánh tay đều cảm thấy đau đớn. “Đừng phí công nữa, kể cả các người có khỏe mạnh đến nhường nào cũng không thoát nổi sợi dây thừng này đâu.” Phía xa xa bỗng vang lên giọng nói dường như đã từng quen thuộc, mọi người nhìn lại thì người đang đi tới hóa ra là vị thủ lĩnh hôm qua đã trói họ lại, và cả mấy gã trai vạm vỡ hung hãn nữa. Vị thủ lĩnh tiếp tục nói: “Dây thừng này được kết thành từ một loại vỏ cây thần trên vùng núi gần đây, kỹ thuật chế tạo vô cùng phức tạp, hoàn toàn được làm thủ công. Trước tiên phải cắt lớp vỏ cây thần xuống, rửa sạch, loại bỏ tạp chất, sau đó phơi khô, cắt thành đoạn nhỏ, rồi lại ngâm trong nước hồ Thất Sắc Cẩm Hải, vớt lên, đan lại, phơi dưới nắng to bảy bảy bốn mươi chín ngày. Sau khi hoàn thành, còn phải phun thuốc lên, loại dây thừng này cực kỳ chắc chắn, kể cả dùng dao sắc đến mấy cắt nó cũng không chắc một nhát là đứt ngay, bởi vậy, bất luận các người dốc sức thế nào cũng đều uổng công mà thôi.” “Cây thần?... Thả chúng tôi ra!” Ánh mắt Hàn Giang đầy căm thù. “Các người không phải vội, ta sẽ thả các người, nhưng các người vẫn phải chịu đựng thêm một lúc nữa.” “Ông thả cho chúng tôi đi sao?” Đường Phong hình như nhìn thấy tia hy vọng. Vị thủ lĩnh không trả lời câu hỏi của Đường Phong, ông ta lại đi tới trước bốn chiếc hố hôm qua vừa đào, miệng lầm rầm niệm chú, Đường Phong mở to đôi mắt vằn tia máu chứng kiến cảnh tượng này, giờ lại muốn làm trò gì đây? Hôm qua niệm chú xong, hôm nay lại chạy đến đây niệm lần nữa! Anh đột nhiên nhớ lại câu nói ban nãy của vị thủ lĩnh, ông ta sẽ thả họ ra? Vẫn phải chịu đựng thêm một lúc nữa. Thế... thế là ý gì? Đầu óc Đường Phong trống rỗng, tai ù ù, anh cảm giác mình sắp nổ tung đến nơi, anh trợn trừng mắt, đồng tử không ngừng giãn ra... bởi vì anh nghĩ đến nó: Thả chúng tôi? Chịu đựng thêm một lúc nữa? Nghĩa... nghĩa là sắp lập tức chôn sống chúng tôi! Xem ra đêm qua không bị sói ăn thịt, hôm nay cũng không thể thiếu nhát dao này! Đường Phong nhìn chằm chằm vào miệng vị thủ lĩnh, cái miệng đó vẫn đang lầm rầm lẩm bẩm, không ngừng nghỉ. Anh cảm giác những gì từ cái miệng đó niệm ra đều chính là thần chú thắt chặt vòng kim cô của Đường Tăng. Anh không thể chịu đựng thêm được nữa... Nhưng Đường Phong vẫn lắng nghe, lắng nghe, dần dần nghe ra một số điều gì đó; anh nhắm mắt lại, lắng nghe thật kĩ lời nguyền của vị thủ lĩnh, đột nhiên, hình như anh hiểu ra điều gì đó... Lúc này, Hàn Giang đã không sao chịu đựng được nữa liền gầm gào lên với ông ta: “Muốn chôn sống bọn tao thì nhanh lên, đừng có mà tụng nữa!” Vị thủ lĩnh không buồn để ý Hàn Giang, vẫn thản nhiên tụng niệm. Đường Phong nghe thấy tiếng gầm gào của Hàn Giang, anh bỗng mở mắt, nói với Hàn Giang: “Không! Ông ta không chôn sống chúng ta đâu.” “Vậy thì lão ta đang làm gì vậy?” “Đang đuổi ma quỷ, nếu như tôi không nghe lầm, ông ta đang niệm những thứ trong mấy bộ lời nguyền Tây Hạ ‘Kiến thuận quỷ’, ‘Ma đoạn yếu ngữ’ và ‘Bách tự chú dũng thuận yếu ngữ’. Họ coi chúng ta là ma quỷ, theo như tập tục Tây Hạ cổ xưa, lúc đuổi ma quỷ thì trên đất phải đào hố, đứng bên cạnh họ đọc lời nguyền thì ma quỷ sẽ được đưa xuống hố, như vậy là có thể tiêu diệt...” Đường Phong nói tới đây thì cũng vừa lúc vị thủ lĩnh đang đọc lời nguyền bên miệng hố bỗng đột nhiên dừng lại quay người bước nhanh vài bước, xông tới trước mặt Đường Phong, túm lấy ngực Đường Phong, nhìn anh chất vấn: “Các người rút cuộc là ai?” “Tôi còn muốn hỏi ông ý chứ, các người là ai?” Đường Phong không tỏ ra yếu thế, cũng trợn mắt nhìn ông ta. Vị thủ lĩnh từ từ buông Đường Phong ra, nghiêm giọng hỏi: “Sao ngươi lại biết như thế?” “Xem ra những gì tôi nói đều là đúng!” Đường Phong ngẩng cao đầu, không khỏi có chút đắc ý. “Không sai! Ngươi nói đều đúng, kể từ hôm qua các người xâm nhập vào Thất Sắc Cẩm Hải, bọn ta đều coi các người là quỷ, bởi vậy mới đào hố ở đây, đọc lời nguyền để xua đuổi quỷ! Ngươi còn biết được bao nhiêu nữa?” “Tôi còn biết... Nếu như tôi đoán không lầm thì đôi nam nữ nhảy xuống vực hôm qua đã tự tử vì tình, nhưng các người không hề đau buồn, ngược lại còn nhảy múa uống rượu, đó cũng là tục lệ Tây Hạ cổ xưa.” “Ta không biết Tây Hạ, Đảng Hạng gì cả, nhưng ngươi nói đúng, bọn ta ở đây từ cổ xưa đến nay đều như vậy, nam nữ vui hoan, không cần phải bi ai, chỉ là họ bay lên thiên quốc, có gì mà phải khóc! Chàng trai trẻ, hãy nói hết ra những gì cậu biết đi, ta muốn biết cậu hiểu biết được bao nhiêu về bọn ta?” “Tôi biết không nhiều, tuy hôm qua các ông đã bắt chúng tôi, mặc dù vốn không muốn lấy mạng của chúng tôi, nhưng các ông đào mấy cái hố ở đây chỉ là để dọa chúng tôi mà thôi, mau cởi trói cho chúng tôi đi, chúng tôi ở đây còn có một người ốm.” Đường Phong nói. Vị thủ lĩnh nhìn nhìn Lương Viện đang hôn mê, rồi lại lạnh lùng cười với Đường Phong, đáp: “Chàng thanh niên, cậu biết cũng đủ nhiều rồi đấy, nhưng có một chuyện cậu đã nói sai rồi, bọn ta đào hố ở đây là để đuổi quỷ, quả thật không phải để chôn sống các cậu, nhưng điều này không có nghĩa là ta không muốn lấy mạng các người!” 2 “Cái gì? Ông vẫn muốn giết chúng tôi?” Đường Phong toàn thân run rẩy. “Không! Không! Không! Cậu nói sai rồi, không phải ta giết các cậu, ta cũng không thể giết các cậu, đêm qua ta trói các cậu ở nơi này là muốn bầy sói ở đây, và cả chim ưng trên trời nữa sẽ nếm thử mùi vị của các cậu. Nếu như bốn người các cậu trở thành bữa ăn của bầy sói và chim ưng thì mấy cái hố này của ta cũng không phải là uổng công đào.” “Ý ông là, sẽ chôn đống xương tàn của chúng tôi bị bầy sói và đám chim ưng ăn thừa xuống mấy cái hố này?” Nghĩ tới đây, Đường Phong liền cảm thấy nổi da gà. “Đúng vậy, ta vốn nghĩ rằng sáng nay đến đây sẽ nhìn thấy đống xương tàn của các người mà sói ăn thừa.” “Vậy thì chúng tôi làm ông thất vọng rồi?” “Các người đã làm ta thất vọng, các người vẫn sống sờ sờ, quả thật là ma quỷ mà ưng sói cũng không ăn! Đến cả sói ác và chim ưng mà cũng không dám lại gần các người. Bởi vậy ban nãy ta lại vừa đọc thêm một lượt lời nguyền.” “Lời nguyền đuổi quỷ thì có tác dụng gì! Các người rút cuộc muốn chúng tôi thế nào đây?” Đường Phong hỏi vị thủ lĩnh. “Các người là ma quỷ mà đến cả sói và chim ưng cũng không dám lại gần, ta đã không còn quyền quyết định số phận của các người nữa. Ta sẽ đưa các người đi gặp một người, số phận của các người sẽ do người này quyết định!” “Ai vậy?” Đường Phong và Hàn Giang đồng thanh kinh ngạc hỏi. “Đại Lạt ma! Đại đức trí giả mà ở đây không ai có thể cao hơn ngài.” Nói xong, vị thủ lĩnh dặn dò mấy gã trai vạm vỡ hung tợn gỡ bốn người ra khỏi gốc cây rồi áp giải họ đi về phía thượng lưu Thất Sắc Cẩm Hải. Mọi người đi men theo Thất Sắc Cẩm Hải, hướng về phía thượng lưu. Họ đi qua thôn xóm cạnh vịnh nước, những người dân trong thôn nhìn hội Đường Phong như nhìn quái vật vậy. Đường Phong vốn tưởng rằng chỗ ở của Đại Lạt ma chắc là cách thôn xóm không xa lắm, nhưng ra khỏi thôn, anh liền phát hiện ra, tiếp tục đi men theo hồ nước hướng về phía thượng lưu lại toàn là đường núi khúc khuỷu. Anh và Hàn Giang thay nhau cõng Lương Viện. Thẳng tiến trên vách núi cheo leo khoảng nửa tiếng, mọi người đã thở hổn hển, vị thủ lĩnh đó cũng mệt rã rời, vậy là mọi người dừng lại nghỉ ngơi. Đường Phong đứng trên vách núi, nhìn xuống Thất Sắc Cẩm Hải phía dưới, nó vẫn tĩnh lặng diễm lệ nhường vậy, còn rặng núi phía xa xa lại càng hùng vĩ tuyệt đẹp. Đường Phong thở hổn hển quay đầu lại nhìn vị thủ lĩnh: “Chúng ta còn phải đi bao xa nữa?” “Đừng có hỏi nhiều, đi theo chúng tôi là được rồi.” Nghỉ ngơi chốc lát, mọi người lại lên đường. Đường dưới chân, từ từ rời xa vách núi cheo leo bên hồ nước, Đường Phong cảm giác họ đang đi vào trong núi. Quả nhiên, sau khi họ vượt qua hai ngọn núi, thì đã hoàn toàn không nhìn thấy Thất Sắc Cẩm Hải diễm lệ, xung quanh đều là rừng rậm tối đen trùng trùng điệp điệp, không thấy giới hạn. Vị thủ lĩnh nhắc nhở họ: “Các người phải bám sát theo sau đấy, đừng có để lạc đội hình, cũng đừng có ý định bỏ trốn ở đây. Mấy trăm năm nay, những người vào nhầm khu rừng rậm này gần như đều lạc mất trong này, không bao giờ trở lại được nữa.” Đường Phong chốc chốc lại nhìn xung quanh, khu rừng rậm nguyên sơ âm u này khiến anh bất giác run lẩy bẩy, bỏ trốn? Anh vốn không nghĩ tới! Vị thủ lĩnh đi đầu, dẫn mọi người rẽ vào một chỗ ngoặt, đường đi xuất hiện một con đường đá dăm, và họ lại đi ra khỏi rừng, lại nhìn thấy hồ nước, con đường đá dăm này thông thẳng tới ven Thất Sắc Cẩm Hải. Trên vách núi bên cạnh Thất Sắc Cẩm Hải, một ngôi nhà gỗ tinh xảo xuất hiện trước mắt mọi người. “Một ngôi nhà nhỏ thật yên tĩnh, Đại Lạt ma tu hành ở đây sao?” Đường Phong hỏi vị thủ lĩnh. Ông ta không trả lời, nhưng Hàn Giang vẫn tiếp lời: “Một người tu hành bên hồ tuyệt làm sao, tu hành ở nơi tĩnh mịch đẹp đẽ thế này ắt hẳn là cao nhân, tôi rất muốn gặp vị cao nhân ngoại thế này đấy.” “Ừm! Quả thật rất thần kỳ, mọi người có phát hiện ra không? Hồ nước đến đây hình như có vòng qua một quãng, đứng ở đây đã không nhìn thấy hạ lưu hồ nước nữa rồi.” Makarov nhắc nhở khiến Đường Phong và Hàn Giang cũng đi tới bên vách núi quan sát. Quả nhiên, vị trí mà họ đang đứng là một khúc quặt của hồ nước, đứng ở đây không còn nhìn thấy hạ lưu của hồ nước, nhìn lên thượng lưu, cũng không nhìn thấy thượng lưu của hồ bắt nguồn từ đâu. Họ tới trước ngôi nhà gỗ. Ngôi nhà gỗ xem ra rất rộng rãi, xây trên vách núi cạnh hồ. Vách núi vốn không quá cheo leo, cách mặt nước cũng khoảng hơn ba chục mét, phía sau căn nhà gỗ chính là những dãy núi trùng điệp. Đứng trước mái hiên của căn nhà phóng tầm mắt ra xa, tầm mắt ngút ngàn, chỉ thấy um tùm tươi tốt. “Đẹp quá!...” Đường Phong cảm giác bản thân mình đã hoàn toàn chìm đắm trong tranh thủy mặc, núi, nước trong giây phút này bỗng gần gũi mình đến vậy, mọi cảnh vật đều tuyệt đẹp và đều có thể chạm tay tới. “Suỵt!” Vị thủ lĩnh lấy tay ra hiệu im lặng, cắt ngang cảm xúc của Đường Phong, sau đó khẽ cảnh cáo họ: “Các người nhìn thấy Đại Lạt ma nhất định phải cung kính, phải hoàn toàn phục tùng, tôn trọng ý kiến của Lạt ma. Ta nói lại lần nữa, số phận của các người nằm trong tay Lạt ma đấy.” 3 Trong gian Phật đường của ngôi nhà gỗ, ánh nắng đong đầy, một vị Lạt ma mặc áo thầy tu, quay lưng lại phía mọi người, ngồi khoanh chân trước gian thờ, một thiếu nữ đứng bên cạnh phục dịch. Đường Phong vừa nhìn thấy thiếu nữ này, lập tức sững sờ, thiếu... thiếu nữ này chẳng phải chính là cô gái bí ẩn mất tích trên vách núi sáng hôm qua sao? Đường Phong chăm chú quan sát thiếu nữ bí ẩn này: cô gái mặc một chiếc áo choàng màu trắng, trước ngực có đeo viên đá quý lam ngọc và san hô đỏ, mái tóc dài đen láy tết thành hình thù kỳ dị trên đầu, phần còn lại buông xõa tự nhiên sau lưng. Thiếu nữ chú ý thấy Đường Phong đang nhìn cô, nhưng lại không chút ngượng ngùng, cô ta cũng chớp chớp mắt, không rời mắt khỏi Đường Phong. Đường Phong luôn cho rằng đôi mắt của mình có thể nhìn thấu thế giới nội tâm của người khác, nhưng giây phút này, anh lại bị thiếu nữ trước mặt nhìn tới nỗi trở nên lúng túng, đành phải lảng tránh ánh mắt của cô ấy. Lạt ma quay người lại. Đường Phong lại giật bắn mình, một Đại Lạt ma mới đẹp làm sao! Chỉ thấy Lạt ma nét mặc trầm tư như dòng nước chảy, râu tóc bạc phơ, ngồi ngay ngắn trên chõng, hai mắt khép hờ, trên tay nắm một chuỗi tràng hạt xương người đáng sợ, ắt hẳn là một trí giả đại đức đã tu hành nhiều năm. Vị thủ lĩnh áp giải Đường Phong và mấy gã vạm vỡ hung hãn vừa nhìn thấy Lạt ma đều quỳ hai gối, cúi rạp xuống đất. Lạt ma không hề mở mắt, cũng không nói gì, chỉ khẽ nhấc nhấc tay phải đang cầm tràng hạt xương người, những người đó liền đứng lên. Vị thủ lĩnh cung kính nói vài câu với Lạt ma bằng thứ ngôn ngữ mà Đường Phong nghe không hiểu. Dứt lời, ông ta đem tất cả những đồ đạc của hội Đường Phong, bao gồm cả ba khẩu súng đặt hết lên trước mặt Đại Lạt ma, sau đó lại kề sát vào tai Lạt ma, nói nhỏ vài câu. Đại Lạt ma nghe xong, vẫn khép hờ đôi mắt, không nói gì, cũng không kiểm tra đồ đạc của mọi người, chỉ khẽ gật gật đầu, sau đó hất hất tay, vị thủ lĩnh liền dẫn mấy gã trai vạm vỡ hung hãn lui ra. Phật đường chìm trong sự im lặng đáng sợ. Đường Phong nhìn vị Lạt ma trước mặt, rồi lại quay đầu nhìn về cửa chính của Phật đường, anh không biết những người kia có còn ở bên ngoài hay không? Nếu như ở đây chỉ có mỗi Đại Lạt ma, và cả thiếu nữ kia, có lẽ... Đúng lúc Đường Phong đang suy nghĩ rối bời thì Đại Lạt ma đột nhiên mở mắt, nhìn bốn vị khách không mời mà đến, ánh mắt đó không có sự uy hiếp nhưng lại lẫm liệt không thể xâm phạm khiến trong lòng Đường Phong âm thầm kinh ngạc, không ngờ lão Lạt ma xem ra đã già nua thế này mà đôi mắt lại có thần đến vậy. Đại Lạt ma chăm chú nhìn hồi lâu, rồi lại cụp mắt xuống, chậm rãi hỏi: “Cô nương đó sao lại hôn mê bất tỉnh vậy?” Tiếng phổ thông của Đại Lạt ma rất chuẩn, hơi mang khẩu âm Tây Bắc, điều này cũng khiến Đường Phong và Hàn Giang đều cảm thấy kinh ngạc. Đường Phong vội vàng đáp lại: “Cô ấy ốm rất nặng, cần phải được chữa trị ngay lập tức, xin Đại Lạt ma thả chúng tôi ra, chỉ cho chúng tôi một con đường thoát…” Đường Phong vẫn chưa nói hết, thì đã bị Đại Lạt ma nhấc tay lên cắt ngang: “Dìu cô ấy đến chỗ ta.” Lời của Đại Lạt ma ngắn gọn, rõ ràng, không có gì để hoài nghi. Đường Phong đành phải dìu Lương Viện tới trước mặt Đại Lạt ma. Ông nhìn sắc mặt Lương Viện một lượt, rồi lại lật mí mắt của Lương Viện lên, dặn dò thiếu nữ đứng phục dịch bên cạnh: “Hắc Vân, đem thảo dược mà lần trước ta hái từ trên núi về đến đây.” Đợi một lúc, thiếu nữ Hắc Vân đó bưng lên một bát thuốc màu xanh đen, Phật đường lúc đó bỗng ngào ngạt một mùi thơm đặc biệt. Đường Phong nhìn bát thuốc màu xanh đen, có chút nghi ngờ hỏi: “Thuốc này có ổn không ạ?” Đại Lạt ma không trả lời câu hỏi của Đường Phong, mà lại bảo anh: “Mở miệng cô ta ra!” Đường Phong vội vàng nâng hai má Lương Viện lên, định mở miệng cô ra, nhưng Lương Viện cắn chặt răng, nên cho dù Đường Phong dùng sức thế nào cũng không thể mở được miệng cô ấy. Đại Lạt ma nhìn thấy vậy, khẽ thở dài một tiếng, hất hất tay, ý bảo Đường Phong tránh ra, còn Đại Lạt ma thì buông tràng hạt xương người xuống, một tay cầm bát, một tay khẽ đưa ra, đặt lên hai má Lương Viện, miệng lẩm nhẩm đọc, giống như đang tụng kinh, lại giống như đang nói chuyện với ai đó. Hai phút sau, điều thần kỳ xuất hiện, không một ai thấy Đại Lạt ma dùng sức, nhưng miệng Lương Viện vẫn tự động mở ra. Đại Lạt ma rất nhẹ nhàng bón bát thuốc lá cho Lương Viện uống. 4 Bón thuốc cho Lương Viện xong, Đại Lạt ma lại dặn dò Hắc Vân: “Dìu cô ấy vào trong phòng con, cô ấy cần được tĩnh dưỡng cẩn thận.” Sau khi sắp xếp cho Lương Viện xong xuôi, Đại Lạt ma nhìn lướt qua Đường Phong, Hàn Giang và Makarov thêm một lượt, nói: “Các người cũng đều lại đây, ta xem xét vết thương cho.” Makarov bước tới trước tiên, Đại Lạt ma kiểm tra vết thương trên vai Makarov, rồi đưa cho ông ta một viên thuốc tễ màu đen, tiếp đến là Đường Phong. Đường Phong cũng không hiểu sức mạnh nào đã đẩy mình mà anh lại mất tự chủ đi tới đó. Đường Phong vốn không bị thương nặng, chỉ cảm thấy tứ chi rệu rã, trên người có nhiều vết xây xước, chắc là do bị trói cả đêm nên cánh tay có vài chỗ bị tụ máu và hơi đau âm ỉ. Đại Lạt ma di lên cánh tay anh vài cái, anh cảm thấy có chút tê tê, lại cúi đầu nhìn xuống, vết tụ máu bỗng nhiên lập tức biến mất. Đường Phong kinh ngạc trợn mắt nhìn, đúng lúc anh ngây người ra thì Đại Lạt ma cũng đưa cho anh một viên thuốc tễ màu đen. Sau khi anh nửa tin nửa ngờ nuốt viên thuốc vào, thì ngay tức khắc, anh cảm thấy tinh thần mình sảng khoái, tinh lực dồi dào. Cuối cùng chỉ còn lại Hàn Giang đứng nguyên chỗ cũ, nhất định không động đậy. Đại Lạt ma hỏi: “Chàng thanh niên, cậu không cần ta xem thế nào sao?” “Không! Tôi không cần.” “Vậy cậu cần gì?” “Tôi cần ăn, đã mấy ngày mấy đêm tôi không được ăn gì rồi.” Hàn Giang trả lời rất chân thành khiến Đại Lạt ma bật cười: “Được! Được! Hắc Vân, đem đồ ăn đến cho họ.” Chẳng mấy chốc, một bàn thức ăn thịnh soạn đã được bày lên, từng miếng thịt bò to, sườn dê, thịt muối, bánh khoai tây, bánh bột ngô, cơm rang ngũ sắc, rượu lúa mạch. Hàn Giang cũng không biết mình rút cuộc đã bao nhiêu ngày chưa ăn, phải chăng anh đã đói đến đỉnh điểm. Anh, Đường Phong, và cả Makarov, ba người ngồi xuống bàn, ăn như lũ cuốn, trong vòng mười phút đã tiêu diệt hết cả một bàn thức ăn thịnh soạn. Cuối cùng, Hắc Vân lại bưng lên cho họ một bát canh màu trắng đậm đặc, mùi vị vô cùng tươi ngon - Đường Phong tò mò hỏi: “Đây là canh nấu bằng gì mà mùi vị ngon vậy?” Hắc Vân mỉm cười nói: “Loại cá mà chỉ Thất Sắc Cẩm Hải mới có, mùi vị của loại cá này rất đặc biệt, là đặc sản ở đây, canh này được nấu bằng loại cá đó.” Đường Phong gật gật đầu, rồi lại hỏi thiếu nữ: “Cô tên là Hắc Vân?” “Ừm! Mọi người đều gọi tôi là Hắc Vân.” Hắc Vân gật đầu. “Sáng hôm qua chúng tôi nhìn thấy cô.” Hàn Giang đột nhiên nói xen vào. “Sáng hôm qua?” Mặt Hắc Vân đang rạng rỡ bỗng nhiên tối sầm lại. “Đúng vậy, trốn vách núi dưới hạ lưu.” Hàn Giang tiếp tục nói. “Đúng!... Đó là tôi!” Hắc Vân cúi đầu. “Vậy thì đôi nam nữ nhảy vực chắc chắn là người thân của cô phải không?” “Sao anh biết?” “Nếu như không phải là người thân của cô thì cô sẽ không gào thét rách cả tâm can và bất chấp tất cả lao như bay trên vách núi như vậy.” “Ừm, cô gái nhảy xuống vực đó là em gái tôi.” Giọng Hắc Vân càng lúc càng hạ xuống. “Em gái cô! Thật là đáng thương, trẻ tuổi vậy mà đã... cô ấy và chàng trai đó tự tử vì tình phải không?” Đường Phong hỏi Hắc Vân. Hắc Vân gật đầu: “Đúng vậy, cha mẹ của hai gia đình đều không đồng ý cho họ yêu nhau, thế nên...” “Bây giờ là thời đại nào rồi mà lại có những chuyện như vậy!” Hàn Giang phẫn nộ nói. Sự phẫn nộ của Hàn Giang khiến Đại Lạt ma ho khan một tràng, mọi người quay nhìn Đại Lạt ma rồi đều ngậm miệng lại, không khí trong Phật đường bất giác trở nên im lìm. “Sự sống quả thật mong manh!” Tiếng xuýt xoa của Đường Phong phá vỡ bầu không khí gượng gạo. Hàn Giang đột nhiên nhớ ra điều gì đó, lại hỏi Hắc Vân: “Sau này chúng tôi lên đó tìm cô, nhưng không thấy cô đâu, cô trốn đi đâu vậy?” “Tôi...” Hắc Vân ấp úng, vẫn chưa trả lời thì đã nghe thấy giọng nói sang sảng của Đại Lạt ma: “Các anh đã ăn uống no say rồi, cơ thể cũng không bệnh tật gì nữa, bây giờ, ta phải làm quen với các anh chút đã.” 5 “Đến lúc giới thiệu một chút rồi.” Đường Phong vẫn mang tâm lý phòng bị, không đợi Đại Lạt ma nói xong, anh đã cướp lời: “Đây là đâu? Các người là ai? Các người có quyền gì mà trói chúng tôi?” Trước một loạt câu hỏi chất vấn của Đường Phong, Đại Lạt ma không hề tức giận, ông nhẫn nại nghe hết, sau đó hỏi lại: “Chúng tôi là ai cũng không quan trọng, là các anh đột nhập vào đây, phá vỡ cuộc sống yên tĩnh của chúng tôi, bởi vậy tôi có quyền biết về tình hình của các anh.” Đường Phong nói: “Chúng tôi chỉ là du khách thông thường, lạc vào một hang động đá vôi, sau đó thì đi đến đây.” “Du khách thông thường mà lại mang theo súng? Hơn nữa, tôi thấy mấy khẩu súng này cũng rất ổn!” “Tôi là cảnh sát...” Hàn Giang vội vàng giật lại súng rồi trả lời. Hàn Giang vẫn còn muốn tranh luận giải thích nhưng Đại Lạt ma đã nghiêm giọng cắt ngang anh: “Hãy nói thật đi, tôi không có nhiều thời gian, thời gian của các anh cũng không còn nhiều đâu.” Đường Phong và Hàn Giang đưa mắt nhìn nhau, hạ quyết tâm, quyết định bộc bạch hết: “Được rồi! Tôi nói thật, chúng tôi đang bị người ta truy sát!” “Ồ! Truy sát...?” Đại Lạt ma trầm ngâm hồi lâu, im lặng không nói gì, trong phòng yên tĩnh lạ thường nhưng trong lòng Đường Phong, Hàn Giang và Makarov lại bồn chồn bất an, không biết sau đây sẽ gặp phải điều gì. Đại Lạt ma trầm tư rất lâu, rút cuộc đã mở miệng: “Được rồi! Ta quyết định thả các người đi, đợi sau khi cô gái đó khỏe lại ta sẽ sai người đưa các người rời khỏi đây. Nhưng trước đó, các người hãy ở chỗ ta, nhớ là không được tùy tiện đi lại lung tung, chỉ được đi lại gần ngôi nhà gỗ. Còn nữa, sau khi rời khỏi đây, nhất định không được kể lại những gì các người nhìn thấy ở đây cho những người bên ngoài nghe, nhất định phải ghi nhớ, nếu không thì bất luận là các người hay là chúng ta cũng đều sẽ bị đại họa giáng xuống đầu!” Nghe xong những lời Đại Lạt ma nói, Đường Phong, Hàn Giang và Makarov thần kinh đang căng như dây đàn rút cuộc cũng được thả lỏng. Xem ra Đại Lạt ma không hề có ý hại họ, nhưng những lời của Đại Lạt ma khiến ba người có chút thất vọng. Đường Phong không kiềm chế được lớn tiếng hỏi: “Tại sao ông không hỏi nữa, sao không hỏi xem tại sao chúng tôi bị truy sát? Và bị ai truy sát?” Đại Lạt ma nhắm mắt lại, lắc đầu nói: “Những người tu hành từ lâu đã nhìn thấu hồng trần sự tục, tại sao các ngươi bị truy sát, bị ai truy sát thì liên quan gì đến ta!” “Không phải ban nãy ông rất hứng thú với chúng tôi sao?” Hàn Giang hỏi lại. “Ta chỉ cần các ngươi thành thật, các ngươi đã nói thật như vậy rồi thì ta cũng không cần phải hỏi nữa.” Đại Lạt ma bình tĩnh giải thích. “Được rồi, ông không hỏi chúng tôi nữa, nhưng chúng tôi vẫn muốn hỏi ông, các ông là ai?” Hàn Giang tiếp tục hỏi. “Không phải là việc các ngươi cần biết thì một chữ ta cũng sẽ không nói. Những gì các ngươi cần biết ban nãy ta cũng đã nói rồi.” Đại Lạt ma nói xong, bắt đầu tụng kinh văn thật to, không buồn để ý ba người. Ba người Đường Phong đứng trân trân trong Phật đường, không biết nên làm thế nào. Lúc này, Hắc Vân đi tới, nói với ba người: “Các anh đi theo tôi, tôi sẽ sắp xếp phòng cho các anh.” Ba người nhìn nhìn Hắc Vân, rồi lại nhìn nhìn Đại Lạt ma, đành phải chán nản lui ra khỏi Phật đường, nhưng đúng lúc ra đến cửa thì Đại Lạt ma lại gọi họ đứng lại. 6 “Đợi một chút, ta vẫn có việc muốn hỏi các anh.” Tiếng gọi của Đại Lạt ma khiến ba người Đường Phong giật thót tim. Đại Lạt ma lại nhớ ra gì đây? Ba người trở lại Phật đường, lo lắng chờ đợi câu hỏi của Đại Lạt ma. Đại Lạt ma vẫn cụp mắt xuống, chậm rãi hỏi: “Các người ở trong hang động đá vôi đã xâm nhập vào đại sảnh trụ cột?” Ba người cùng nhìn nhau, không biết Đại Lạt ma hỏi ý gì, và nên trả lời thế nào? Ai cũng không biết nếu như trả lời sai thì sẽ bị hình phạt gì giáng xuống đầu. Hàn Giang đẩy Đường Phong tới trước mặt Đại Lạt ma. Đường Phong đứng không vững, xém chút nữa trượt ngã khiến Hắc Vân đứng sau bịt miệng cười trộm. Đường Phong bó tay, đành phải thu hết dũng khí, đáp lại: “Đúng vậy, chúng tôi đã nhìn thấy đại sảnh trụ cột đó.” “Những linh hồn trong đó vẫn ổn chứ?” “Ý ông nói những vò gốm sứ?” “Không! Đó không phải là những vò gốm sứ thông thường, đó là tráp hồn cất giữ những linh hồn của tiền nhân!” “Đúng, tráp hồn, những tráp hồn đó đều được bảo tồn rất tốt. Những người đó là... của các ông?” Đường Phong vẫn muốn hỏi gì đó nhưng bị Đại Lạt ma ngắt lời: “Vậy thì tốt! Các người có thể ra ngoài rồi, đồ đạc của các người có thể mang đi, còn mấy khẩu súng đó thì hãy để ta giúp các người bảo quản vài ngày.” Ba người lắc đầu, cầm ba lô của mình lui khỏi Phật đường. Hắc Vân dẫn ba người tham quan toàn bộ căn nhà gỗ, không ngờ ngôi nhà gỗ trông bình thường như vậy mà bên trong lại rộng lớn bất ngờ. Toàn bộ ngôi nhà gỗ, ngoài Phật đường ra còn có bảy tám gian phòng, nhà bếp, nhà vệ sinh đầy đủ, trước cửa chính, còn có một khoảnh sân bằng phẳng có thể nhìn bao quát Thất Sắc Cẩm Hải. Đường Phong đứng trên khoảnh sân, tắm mình trong ánh nắng ấm áp, bất giác trầm trồ: “Đây chính là một biệt thự nghỉ ngơi an dưỡng, có một khoảnh sân ngắm cảnh rộng thế này. Điều đáng tiếc duy nhất ở đây là không có trang thiết bị hiện đại, mà mọi thứ đều nguyên sơ, tự nhiên.” Câu nói của Đường Phong lại lần nữa khiến Hắc Vân cười khùng khục. “Cô có gì mà buồn cười vậy?” Đường Phong không hiểu hỏi lại Hắc Vân. “Tôi cười điệu bộ của anh ban nãy!” Hắc Vân nhìn Đường Phong nói. “Hắc Vân, tôi muốn hỏi cô một chuyện, cô tên là Hắc Vân, vậy cô họ gì?” Hàn Giang đột nhiên hỏi. Hắc Vân mơ hồ lắc lắc đầu, “Tôi cũng không biết tôi họ gì, nghe nói tôi họ Hạ Lai, là Đại Lạt ma đặt tên Hắc Vân này cho tôi, kể từ khi tôi hiểu chuyện thì mọi người đều gọi tôi là Hắc Vân, từ trước đến nay chưa từng có ai gọi họ của tôi cả.” “Cái gì? Hóa ra cô không có họ? Thế cha mẹ cô đâu?” Đường Phong kinh ngạc hỏi. “Tôi không có cha mẹ, là Đại Lạt ma nuôi tôi khôn lớn.” “Thế em gái cô tên là gì?” “Bạch Vân.” “Hắc Vân? Bạch Vân? Tên gọi thật là có ý nghĩa văn thơ, nhưng lại rất kỳ quái!” Đường Phong cảm thán. Đường Phong nhìn Hắc Vân đứng trước mặt, đôi mắt trong veo thật ngây thơ, nhưng anh lại không sao có được câu trả lời mà anh muốn nghe từ trong đôi mắt trong veo ngây thơ đó. “Hắc Vân, có thể nói cho chúng tôi biết về các cô không? Các cô là ai? Tại sao lại sống trong vùng núi rộng lớn cách biệt với thế giới bên ngoài này?” Hắc Vân lại lắc đầu: “Không! Tôi không nói được, ban nãy tôi nói cũng đủ nhiều rồi, Đại Lạt ma không cho phép tôi kể chuyện về chúng tôi cho người ngoài nghe.” Hắc Vân cúi đầu, trầm ngâm hồi lâu, rồi lại nói: “Kể cả tôi muốn kể cho các anh, nhưng tôi cũng không biết được bao nhiêu. Đại Lạt ma… trong ông ấy hình như có vô số những bí mật, tôi cũng có rất nhiều chuyện muốn biết, ví dụ như cha mẹ tôi là ai, nhưng... Đại Lạt ma lại chưa bao giờ chịu nói với tôi, tôi cũng không hiểu tại sao ông lại phản đối chuyện hôn nhân của em gái tôi.” “Ý cô nói là em gái cô tự tử vì tình là do Đại Lạt ma phản đối không cho cô ấy kết hôn với chàng trai đó?” Hàn Giang kinh ngạc hỏi. “Ừm, không chỉ Đại Lạt ma phản đối, mà gia đình chàng trai cũng phản đối chuyện hôn nhân này.” Hắc Vân lặng lẽ chảy hai hàng nước mắt. “Cũng có nghĩa là, thực ra em gái cô là bị Đại Lạt ma bức tử?” Đường Phong rút ra kết luận như vậy. “Không! Không! Anh không thể nói như vậy. Đại Lạt ma nuôi chúng tôi từ tấm bé, ông nhất định muốn tốt cho chúng tôi, ông không đồng ý chuyện hôn nhân của em gái tôi nhất định là có lí do của ông.” Hắc Vân hoàn toàn không thể chấp nhận kết luận của Đường Phong. “Tôi thấy cô đã bị Đại Lạt ma tẩy não rồi đấy, vẫn còn bảo vệ ông ấy như vậy!” Đường Phong nhìn cánh cửa Phật đường đóng im ỉm, trong lòng bắt đầu có phán đoán mới: Đại Lạt ma này rút cuộc là quái nhân kiểu gì nhỉ? 7 Hắc Vân trở vào phòng, chuẩn bị phòng ốc cho ba người, trên khoảnh sân chỉ còn lại Hàn Giang, Đường Phong và Makarov. Đường Phong nhìn xung quanh, phát hiện đám người áp giải họ không thấy đâu nữa: “Xem ra đám người đó quay về rồi?” Hàn Giang càng cẩn thận nhìn lướt một lượt, đám người đó quả thực không ở đây nữa, anh kéo Đường Phong sang một bên, nói nhỏ: “Bây giờ ở đây ngoài chúng ta ra, chỉ có Đại Lạt ma và Hắc Vân, nếu không phải là Đại Lạt ma đồng ý cho chúng ta đi, thì bây giờ tôi muốn...” “Anh muốn bỏ chạy?” Đường Phong ngạc nhiên nói. “Hiện tại lúc này không muốn nữa rồi, tạm thời ở đây đã, xem tình hình rồi tính tiếp!” “Anh cho rằng chúng ta có thể ra ngoài?” “Ở đây chắc chắn có đường thông ra ngoài, tôi không tin những người này có thể không dựa vào bên ngoài, sống cuộc sống thường nhật ‘không biết Tần Hán, bất luận Ngụy Tần’. Trong đào nguyên ngoại thế này, cậu lẽ nào không chú ý tới đồ dùng mà họ sử dụng sao?” “Đồ dùng?” “Ví dụ như bát sứ mà chúng ta ăn cơm, còn cả những đồ đạc bày biện trong ngôi nhà gỗ, những thứ đó đều không thể sản xuất ở đây được. Điều đó cho thấy, ở đây không phải là đào nguyên ngoại thế cách biệt với thế giới bên ngoài, chắc chắn có đường thông ra bên ngoài.” “Nói có lý, nhưng, có lẽ con đường đó rất khó đi thì sao?” “Đường có khó đi chăng nữa, nhưng họ đã đi được thì chúng ta cũng có thể đi được!” Hàn Giang nói rất kiên định. “Tôi thấy, hiện giờ chúng ta vẫn không nên manh động, thử xem Đại Lạt ma sắp xếp cho chúng ta ra ngoài thế nào. Nếu như ông ta nuốt lời thì chúng ta sẽ tính toán sau.” “Ừm! Ý tôi cũng vậy!... Cậu thấy mọi thứ ở đây thế nào? Đặc biệt là những người đó?” Hàn Giang quay lại hỏi ý kiến của Đường Phong. Đường Phong ngẫm nghĩ một hồi rồi nói ra suy nghĩ của mình: “Tôi cũng không biết nói thế nào, ban đầu khi nghe thấy vị thủ lĩnh đó niệm chú đuổi ma bên miệng hố thì đoán rằng đây là tập tục cũ của Tây Hạ, cộng thêm một số chứng cứ khác, ví dụ như phát hiện ra đại sảnh trụ cột, vậy là tôi bắt đầu tin rằng những người này chính là nhánh người Đảng Hạng trở lại nơi khởi nguồn của dân tộc Đảng Hạng sau khi Tây Hạ bị diệt vong, nhưng vị thủ lĩnh đó lại nói ông ta không biết Tây Hạ, Đảng Hạng nào cả. Khi tôi đi qua thôn xóm của họ cũng quan sát kĩ thôn trại, nhưng không phát hiện ra có gì khác thường, tuy thôn dân ăn mặc có chút kỳ dị nhưng cũng rất giống với cách ăn mặc của dân tộc Tạng khu vực phía tây Tứ Xuyên.” “Ý của anh là gì? Những người đó có khả năng là một nhánh của dân tộc Tạng?” “Hoàn toàn có khả năng đó, nhưng cũng có khả năng là một nhánh của dân tộc Khương, bởi vì tôi quan sát kiến trúc của họ rất giống Khương Trại mà chúng ta từng nhìn thấy, cũng là ngôi nhà được xây bằng từng viên đá.” “Ồ, còn phức tạp vậy sao?” “Đúng vậy, quả thực khó mà đoán định. Cứ cho rằng nhánh người Đảng Hạng năm đó đã từng đến đây, nhưng mấy trăm năm qua đi rồi, họ có thể đã di chuyển đến nơi khác, ví dụ như vùng Mộc Nhã nằm trên rặng núi tây nam Tứ Xuyên. Rất nhiều học giả đều cho rằng, người Mộc Nhã ở đó mới chính là người Đảng Hạng di chuyển trở về cố hương, cũng có khả năng họ đã hoàn toàn bị đồng hóa vào những dân tộc Hán, Tạng, Khương và nhiều dân tộc khác lân cận.” “Cũng có nghĩa là khả năng người Đảng Hạng đã hoàn toàn biến mất rồi?” “Ừm, giới học thuật từ lâu đã nhận định người Đảng Hạng biến mất rồi, cứ cho rằng người ở đây có huyết thống của người Đảng Hạng, thì khả năng cũng có thể bảo lưu ít nhiều phong tục của người Đảng Hạng.” Hàn Giang suy tư hồi lâu, nói với Đường Phong: “Xem ra có thể giúp chúng ta giải mã được bí ẩn, thì chỉ có một người.” “Ý anh là... Đại Lạt ma?” Đường Phong nghĩ ngay tới điều này. “Đúng, Đại Lạt ma! Kể từ giây phút đầu tiên tôi nhìn thấy Đại Lạt ma, tôi đã cảm thấy chúng ta có thể có được thứ chúng ta muốn từ bản thân Đại Lạt ma!” Hàn Giang đáp. “Đúng vậy! Tôi cũng có cảm giác đó.” Đường Phong và Hàn Giang nói chuyện xong, nhìn thấy Makarov vẫn im lặng từ đầu đến giờ, họ đi tới đó, hỏi ông: “Lão Mã, bác đang nghĩ gì vậy?” “Tôi chẳng nghĩ gì cả.” “Không nghĩ gì cả? Ở một nơi bí ẩn như thế này, gặp phải bao nhiêu chuyện như vậy, bác lại chẳng nghĩ gì cả là sao, đây không giống với tính cách một lão binh!” “Khà khà, cái này thì cậu không biết rồi, kẻ địch muốn chiến thắng cậu thì cần tới đầu óc thông minh, nhưng trong thời gian tôi phục vụ trong quân đội đã hình thành một thói quen: khi cậu không sáng suốt đối diện với vấn đề khó khăn, thì thà rằng đừng suy nghĩ gì; không cần nghĩ gì cả, chỉ cần đi theo trình tự, làm tốt những việc trước mắt là được, đây cũng là một con đường sinh tồn của tôi.” “Đây ngược lại cũng là một quan điểm sinh tồn rất thực dụng.” “Đúng như những gì cậu nói, cả quãng đường mà chúng ta đến đây, trừ gặp phải chuyện bị truy sát, thì còn gặp hết điều bí ẩn này đến điều bí ẩn khác. Hiện nay, các loại dấu hỏi đều đang kín mít đầu óc tôi, nó đã vượt quá sức chịu đựng của tôi, tôi già rồi, không còn được như hồi trẻ nữa, bởi vậy, hiện giờ tôi không suy nghĩ điều gì cả.” “Nhưng vẫn phải nghĩ xem bước tiếp theo nên làm thế nào?” “Không cần phải nghĩ, vị Đại Lạt ma đó đã chỉ rõ đường đi cho chúng ta rồi, yên tâm ở lại đây đi, ăn uống, nghỉ ngơi tử tế, đợi Lương Viện hồi phục rồi ông ấy sẽ tiễn chúng ta ra khỏi đây, như vậy không phải rất tốt sao? Chúng ta vừa hay có thể ở lại đây hưởng thụ một chút kỳ nghỉ không chủ định hiếm có này.” “Bác đúng là nghĩ thoáng thật đấy!” Đường Phong bị Makarov nói cho đến mức không còn gì để nói, anh quay ra nhìn chăm chú về ngọn núi tuyết phía xa xa. Đại tuyết sơn vẫn nguy nga tĩnh mịch, giống hệt như sáng sớm hôm qua khi lần đầu tiên họ nhìn thấy nó. Đỉnh tuyết sơn ẩn nấp trong mây khói, không lộ diện, nhìn mãi nhìn mãi, Đường Phong đột nhiên có cảm giác bản thân đang chìm đắm trong sương khói. Ba người tận hưởng ánh nắng hiếm có sau ban trưa trên khoảnh sân. Mặt trời lặn đằng tây, Hắc Vân lại chuẩn bị cho họ một bữa tối thịnh soạn. Lúc ăn cơm, họ không nhìn thấy Đại Lạt ma, Đường Phong hỏi Hắc Vân: “Đại Lạt ma không đến ăn cùng sao?” “Đại Lạt ma đã ăn rồi.” “Ăn rồi?” Trong lòng Đường Phong lại nghi ngờ. Ăn xong bữa tối, Hắc Vân dẫn ba người đến ba phòng khác nhau, sau đó nói với mọi người: “Cô nương đó ở trong phòng tôi, tôi sẽ chăm nom tử tế cho cô ấy.” Cuối cùng, Hắc Vân cảnh cáo mọi người: “Trong căn nhà gỗ này, chỗ nào cũng có thể đi, chỉ có gian Phật đường đó là không được phép vào. Nhất định phải nhớ lời tôi nói, nhất định không được vào trong Phật đường.” Ba người không hẹn mà gặp cùng liếc về phía Phật đường một cái, Phật đường bí ẩn, Lạt ma cũng bí ẩn như vậy! Đường Phong trước khi ngủ lại tranh thủ qua phòng Hắc Vân thăm Lương Viện. Lương Viện tuy vẫn chưa tỉnh nhưng sắc mặt cô đã hồng hào trở lại. Đường Phong lúc này mới có phần yên tâm, trở về phòng mình. Trong căn nhà gỗ trên núi này, mọi thứ đều giống như trở về thời cổ đại, không có đèn điện, không có giải trí, thì có thể làm gì trong bóng đêm? Nằm ra giường ngủ, đầu óc lại bị vô số những điều bí ẩn quấy nhiễu, lật trái lật phải, trăn trở hồi lâu, Đường Phong mới có thể chìm dần vào giấc ngủ.