Tác giả : Thời Bất Đãi Ngã Edit: Tử Hầu bà bà Chương 15 Thẩm Niệm cũng không ngờ Tề Quân Mộ sẽ nói như vậy, biểu cảm trên mặt hắn đầu tiên là ngạc nhiên nghi ngờ, sau đó là mừng rõ. Trấn Bắc hầu quỳ lạy với hoàng đế, trịnh trọng nói: “Vi thần đa tạ hoàng thượng làm chủ.” Sau đó hắn đứng lên quay lưng về phía Tề Quân Mộ, mĩm cười với Tề Phàm với Ôn Diệu, quả thực là nho nhã tuấn tú, ôn hòa có lễ: “Thế tử, quốc cữu, mời đi.” Ôn Diệu tức đến đỏ mặt, nếu không phải bị cấm vệ đè xuống, gã đã nhảy dựng lên tát vào cái mặt ghê tởm của Thẩm Niệm. Tề Phàm cũng kích động giãy dụa, chỉ là có vẻ bình tĩnh hơn so với Ôn Diệu. Tuy gã là Anh vương thế tử, ai cũng biết Anh vương chỉ là danh hiệu của vương gia, trong đầu gã rõ ràng, thân phận thế tử này của gã trong mắt hoàng đế còn kém xa Trấn Bắc hầu. Sau khi hai người bị đè xuống, Thẩm Niệm thích thú dạt dào đi tới, Tề Quân Mộ lạnh nhạt nhìn. Rất nhanh ngoài điện truyền đến tiếng gậy đánh vào da thịt, xen kẽ tiếng cầu xin tha thứ của Ôn Diệu cùng Tề Phàm. Nguyễn Cát Khánh lén nhìn nét mặt bình tĩnh của hoàng đế, đột nhiên nhớ lại cái chết vì đình trượng (*) của đồ đệ hắn, cả người nhất thời cảm thấy lạnh cả sống lưng. (*)Đình trượng, là hình phạt đặc biệt của đời Minh, cũng chính là hoàng đế sai người dùng côn trượng đánh vào mông của bề tôi. Vào đời Minh, phàm bề tôi vi nghịch ý đồ của hoàng đế, dám chạm vào “nghịch lân” hoàng đế lập tức lệnh cho “Cẩm y vệ” xốc người đó áp giải đến Ngọ Môn mà đánh, rất nhiều người bị đánh chết dưới cây trượng. Đến gậy thứ hai mươi mốt, âm thanh cầu xin của Tề Phàm với Ôn Diệu vì đau đớn mà nhỏ dần đi, tiếng của Thẩm Niệm mơ hồ truyền đến: “Hoàng thượng có thể đủ rồi.” Tề Quân Mộ tất nhiên không khả năng rống lớn đáp lời, y căn dặn Nguyễn Cát Khánh: “Nếu Trấn Bắc hầu thấy đủ rồi, để bọn họ dừng lại đi.” Nguyễn Cát Khánh vội vàng đi ra ngoài điện, lát sau, Thẩm Niệm cùng Nguyễn Cát Khánh đi phía trước tiến vào điện, cấm vệ đỡ Tề Phàm cùng Ôn Diệu theo sau. Trời rất lạnh, nhưng trên trán hai người ướt đẫm mồ hôi, đều oai oái kêu đau đau đau. Cấm vệ muốn đè bọn họ quỳ xuống, Ôn Diệu đau đến mức nước mắt rơi lả tả: “Hoàng thượng, để cho ta nằm sấp được không, quá đau rồi.” Tề Phàm cùng suy nghĩ. Tề Quân Mộ tức giận nhìn bọn họ, nâng cằm ý bảo cấm vệ để bọn họ nằm sấp xuống đất. Sau đó hoàng đế nhìn về phía Thẩm Niệm, chỉ thấy trong mắt Trấn Bắc hầu toàn là thở dài cùng không vừa lòng. Tề Quân Mộ nói: “Thế nào, Trấn Bắc hầu còn chưa tận hứng?” Dáng vẻ này rất có ý là hắn mất hứng, có thể tiếp tục. Tề Phàm với Ôn Diệu tức khắc như cá trong biển bị vớt lên, giãy phịch phịch trên đất. Hai người giận dữ nhìn Thẩm Niệm, chỉ cần hắn dám nói tiếp tục, lập tức liều mạng với hắn. Vẻ mặt Thẩm Niệm thành thật chân thành trả lời: “Hoàng thượng, lúc vi thần ở trong quân, các tướng sĩ làm sai, năm mươi quân côn là nghiêm phạt nhẹ nhất. Da thịt của thế tử cùng quốc cữu gia quá mềm, vừa đánh hai cái đã chịu không nổi, trong lòng vi thần coi như ý nguyện chưa đạt, nhìn mặt mũi của hoàng thượng ngài cũng không dám đánh tiếp.” Tề Quân Mộ vui vẻ, y lạnh lẽo nói: “Thế nào, nghe ngươi nói, trẫm còn phải thay hai người bọn họ cảm tạ ngươi hay sao?” Thẩm Niệm lắc đầu xấu hổ rồi cười: “Vi thần nào dám để hoàng thượng cảm tạ, qua việc này, có thể để thế tử cùng quốc cữu gia chín chắn, vết thương trên mặt của vi thần cũng không có nhận không.” Tề Quân Mộ cũng từng gặp qua kẻ không biết xấu hổ, nhưng chưa từng thấy kẻ không biết xấu hổ như Thẩm Niệm. Y bình tĩnh nhìn vẻ ngượng ngùng cùng cảm động trên mặt Thẩm Niệm, đột nhiên cảm thấy phiền lòng, hối hận vì dùng người này làm đao. Người này khiến y bực bội với người khác như thế, ngày nào đó Thẩm Niệm đối với bản thân như thế, Tề Quân Mộ nghĩ thầm biết đâu chính mình không nhẫn được mà giết người. Thẩm Niệm cũng chẳng để ý mấy sự uy hiếp ẩn ẩn hiện hiện trong mắt hoàng đế, trên mặt hắn còn để lộ nụ cười ngại ngùng, cứ như bản thân làm chuyện lớn dẫn dắt người khác đi trên con đường đứng đắn, nhưng lại chẳng để tâm đến danh tiếng cùng thân thể chính mình. Trấn Bắc hầu cùng hoàng đế đối mặt không động tĩnh, Ôn Diệu thì tức đến khóc rống lên, khóc tức tưởi đến mức muốn tắt thở trông rất thương tâm. Vẻ khiếp sợ được diễn đạt trên khuôn mặt Thẩm Niệm, hắn cúi đầu, toàn thân như hiện lên vẻ sao ngươi còn ôm mặt khóc. Tề Quân Mộ bị tiếng của Ôn Diệu làm nhức cả tai, y trừng Thẩm Niệm trầm giọng nói: “Trấn Bắc hầu, có chừng có mực thôi.” Sau đó sai người đưa Ôn Diệu cùng Tề Phàm đuổi về nhà. Đồng thời còn truyền khẩu dụ của hoàng thượng đến hai nhà, để Anh vương cùng Ôn Trác quản giáo tốt con của chính mình, lần sau còn tái phạm, sẽ không dễ khoan dung thế đâu. Sau khi Ôn Diệu cùng Tề Phàm được cấm vệ tống tiễn đi, Tề Quân Mộ nhìn Thẩm Niệm nói: “Trấn Bắc hầu nếu không có việc gì khác, vậy đi thăm dò án tử đi. Hiện tại không chỉ có trẫm, trên dưới triều đình đã ngóng trông xem bản lĩnh của ngươi.” Thẩm Niệm vui vẻ cười: “Thần đa tạ hoàng thượng che chở.” Chuyện vừa rồi trong ngoài triều đình mọi người sẽ biết rất nhanh, mặc kệ có phải hoàng đế vì binh quyền trong tay Thẩm Niệm mà trách cứ Tề Phàm với Ôn Diệu hay không. Hiện tại Thẩm Niệm là người được hoàng đế hết sức ưu ái là sự thật không thể thật hơn. Nếu như có thể, mọi người nên tạm tránh mũi nhọn Thẩm Niệm, như vậy hắn làm việc sẽ thuận tiện hơn nhiều. Tề Quân Mộ nhìn Thẩm Niệm lại thấy phiền lòng, y khoát tay áo, đau đầu nói: “Xuất cung đi.” Đáy mắt của Thẩm Niệm hiện lên nét cười yếu ớt, lần đầu tiên hắn thấy hoàng đế có vẻ hết cách như thế. Chung quy không như mang mặt mạ băng lạnh, ngăn cách bản thân với người khác, người tức khắc có sức sống hơn, như một người có hỉ nộ ái ố. Chuyện phát sinh trong cung truyền đi rất nhanh, nhất là dưới tình huống không ai muốn giấu diếm. Thẩm Niệm đi ra cửa cung, Trình Cẩm – cận vệ của hắn- tới đón, vẻ mặt Trình Cẩm đoan chính ngay thẳng, khuôn mặt chữ điền, người rất nghiêm túc. Hiện tại vẻ nghiêm túc này có thêm vẻ kinh hoảng, Thẩm Niệm nhìn hắn nói: “Làm sao vậy?” Trình Cẩm nhìn bốn phía nhỏ giọng nói: “Hầu gia, vừa rồi Anh vương thế tử cùng quốc cữu gia bị cẩm vệ đưa ra thì khóc lóc ầm ĩ, nói là vì đắc tội với ngươi nên bị đánh, người nghe thấy không ít, sợ rằng đã truyền khắp kinh thành rồi.” Thẩm Niệm cảm thấy thoả mãn với điều này, hắn gật đầu, mặt có vẻ đắc ý: “Ừ, là bởi vì ta mà bị đánh, hoàng thượng để ta giám sát, ta nhìn thật sự bị đánh hai mươi mốt gậy mới nói ngừng.” Trình Cẩm nghe thế càng thêm lo lắng, chỉ là trên khuôn mặt nghiêm túc này thật sự không hợp với biểu cảm như thế, trông vô cùng quái đản. Hai người đi tới bên cạnh bia đá Hạ Mã, Trình Cẩm dắt ngựa đi qua, Thẩm Niệm nhìn dáng điệu này buồn cười nói: “Làm sao vậy?” Bia đá Hạ Mã (*), là bia đá được lập từ thời xa xưa, quan văn xuống kiệu, quan võ xuống ngựa. (*) Bia đá Hạ Mã: là tấm bia đá ở bên cạnh phố Quốc Tử Giám, được tạo ra để bày tò sự kính ngưỡng đối với Khổng Tử.  Thẩm Niệm cùng Trình Cẩm đều là võ tướng, không quen ngồi kiệu, đều cưỡi ngựa đến. Trình Cẩm im lặng ngước mắt, suy nghĩ hồi lâu mới nói ra một câu: “Hầu gia, heo quá mập sẽ bị giết trước.” Thẩm Niệm câm nín, hắn nói: “Ý ngươi là ta là heo mập, hoàng thượng là đồ tể?” Trình Cẩm nói: “Tuy rằng nghe không hay lắm, nhưng rất thích hợp.” Trình Cẩm nghĩ rằng hoàng đế đang nuôi mập Thẩm Niệm, có điều không phải nuôi mập bằng tức ăn, hoàng đế cho ăn chính là quyền lợi là ưu ái. Thẩm Niệm xoay người lên ngựa, tay áo tung bay, hắn nói nhỏ: “Cho dù là vậy thì sao? Ngươi có thể phản kháng sao?” Khi đánh ngựa rời đi, hắn nhìn hoàng cung nguy nga: “Hiện tại là ta không kêu một tiếng, tùy ý người khác nhục mạ, bọn họ cũng muốn thấy ta là người chết, nếu như vậy, mắc chi để chính mình khó chịu chứ?” Trình Cẩm cũng không cảm thấy dễ chịu, vẻ lo lắng trên mặt hắn càng nhiều thêm. Thẩm Niệm thu hồi ánh mắt, hắn nói: “Đi thôi, chúng ta chỉ là sủng thần, vì hoàng thượng làm việc, phải xứng đáng với phần ân sủng này.” Trình Cẩm bất đắc dĩ, đành phải đuổi theo. Trong khi Thẩm Niệm điều tra cái chết của Quan Hàn, ở trong cung Tề Quân Mộ đang nhìn tấu sớ của Thanh Châu tri phủ Trương Vấn Vãn đệ trình lên, nói gần đây Thanh Châu đột nhiên trở lạnh, tuyết lớn đổ xuống liên tục, trong tấu sớ của Trương Vấn Vãn rất lo lắng Thanh Châu sẽ xảy ra lũ lụt cùng bão tuyết, mong muốn triều đình có thể sớm thu xếp. Còn một tấu sớ của đại tướng quân Trấn Tây Thường Thịnh ở Tây cảnh trình lên, nói là Đông Địch Tây Di quốc có động thái khác thường, mong hoàng đế còn thế tăng binh phòng ngự cùng tiền bạc cho Tây Cảnh. Hai tấu sớ này đều rất quan trọng, Thanh Châu là phạm vi thế lực gia tộc bên mẹ của Tề Quân Hữu, bọn họ ở nơi này chiếm quyền lớn, căn cơ rất sâu. Trước đây nhận được tấu sớ này, Tề Quân Mộ với Lâm Tiêu đã thương lượng rất lâu, cuối cùng phái người đi kiểm tra tình hình. Lúc này xác định Thanh Châu thật sự có bão tuyết, triều đình cuối cùng đã tổn hao một lượng lớn sức người sức của mới khống chế được tình hình thiên tai, dân chúng Thanh Châu còn nghĩ rằng trong lòng hoàng đế còn vướng hoài nghi với Bình Vương, cố ý thấy chết không cứu. Còn tấu sớ Tây Cảnh, Tề Quân Mộ cùng Lâm Tiêu cũng không quá lưu tâm, Tây Địch thay đổi quân vương, tân quân nhanh chóng phải người đưa thư tới, nguyện ý cùng Đại Tề không xâm phạm. Không ai muốn gây chiến tranh, Đại Tề cũng như vậy, biên cương Bắc Cảnh đã ngừng chiến loạn, dân chúng Đại Tề cũng cần phục hồi thể xác cùng tinh thần. Lúc thu được thư của tân chủ, Tề Quân Mộ đã buông việc của Tây Địch. Chẳng qua phải ngăn ngừa ngộ nhỡ, mặc dù y không có trưng binh đi Tây Cảnh, nhưng cũng giao tiền bạc phái người xây dựng củng cố tường thành. Kết quả sau hai năm, Tây Địch khai chiến, công trình phòng thủ biên cương Tây Cảnh một trận tấn công đã vỡ, Thường Thịnh bị bắt, mấy vạn tướng sĩ biên giới bị giết, chiến tuyến Tây Cảnh sụp đổ, may mà ải Hàn Môn có lão tướng Yến Vân Đài, sau cùng cũng bảo vệ được phòng thủ biên cương cuối cùng này. Tề Quân Chước lấy thân phận Thân Vương xuất chinh tiếp sức tướng sĩ, trận chiến dịch này đánh mất tháng, Tề Quân Chước cùng Yến Vân Đài đẩy lùi Tây Địch thu hồi đất đai đã mất, cũng không lâu sau đó, Tề Quân Chước biến mất tại Tây Cảnh. Nghĩ vậy, tay của Tề Quân Mộ gõ gõ lên tấu sớ. Thanh Châu lại ở Tây Cảnh. Đây cũng là nguyên nhân ban đầu y bằng lòng phái Tề Quân Chước đi, y không tin tưởng Tề Quân Hữu. Đương nhiên, hiện tại nếu đã sống lại, việc này không thể làm như thế. Lông dê ở trên thân dê, lúc đó Thanh Châu gặp chuyện không may Tề Quân Hữu nhân cơ hội thu được danh tiếng tốt, vậy lần này gã nên xuất lực xuất tiền. Về phần xây dựng phòng thủ biên cương Tây Cảnh, y cần phải cân nhắc đắn đo nhiều. Ngay lúc ai ai cũng lo lắng sự việc của chính mình, Ôn gia cùng Anh vương phủ lại vang vọng tiếng khóc. Ôn Trác với Anh vương đều chỉ có một đứa con trai trưởng bảo bối, bây gờ lại bị đánh như vậy, bọn họ sẽ không đau lòng muốn chết sao. Anh vương phi khóc đến nhòe trang điểm, Tề Phàm đã khóc lóc từ đầu, thấy bộ dạng Anh vương phi này, gã chỉ lo an ủi bà, vết thương trên mông cũng quên luôn. Anh vương hèn nhát đứng một bên lo lắng suông, còn không dám nổi cáu với Anh vương phi. Chuyện Tề Phàm chịu đòn Tề Quân Mộ đã phái người nói rõ rành mạch, đều do cái miệng của Tề Phàm mà ra. Biết rõ Thẩm Niệm bây giờ là tâm phúc, còn cùng Ôn Diệu nói bậy, nếu hoàng đế không đánh Tề Phàm, Anh vương cũng nghĩ là hoàng đế bất mãn với bọn họ, đầu một nhà cũng đã rơi xuống đất rồi. Anh vương phi cũng biết vương phủ bọn họ nghe rất có thể diện, nhưng bên trong không chịu nổi một kích, bà khóc ròng: “Coi như Phàm nhi có sai, hoàng thượng cũng không thể hạ thủ nặng như vậy.” Anh vương yêu thương vương phi, cũng yêu thương con trai, không thể làm gì khác ngoài an an ủi ủi một chút, để cho bọn họ đừng khóc quá mà hủy mắt làm tổn thương thân thể. So với Anh vương phủ, tình hình của Ôn gia tất nhiên không tốt lắm. Nhất là Ôn phu nhân, đối với lời nói của người được Tề Quân Mộ phải căn bản không lọt lỗ tai. Chờ người trong cung rời đi, bà nhìn Ôn Diệu nghiến răng nghiến lợi nói: “Việc này tuyệt đối không thể quên, ngày mai ta vào cung gặp thái hậu, hoàng hậu nương nương, dù hắn có là Trấn Bắc hầu cũng không thể không nói đạo lý như thế.” Ôn Trác cũng nảy sinh tức giận với Tề Quân Mộ, gã chỉ có một mụn bảo bối này, đánh con của gã chẳng khác nào đánh vào mặt gã. Trong đầu của Ôn Trác cảm thấy tồi tệ. ~~~ Bia Hạ Mã ở Quốc Tử Giám, ở Việt Nam cũng có bia Hạ Mã nằm ở di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám (Hà Nội)