Trâm Ii: Kẻ Yểu Mệnh

Chương 26 : Hồi 19: Than Thở Trăm Năm

Lúc Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần đến nhà họ Tôn, đã thấy một người đàn ông trung niên cao to thuần hậu bồn chồn đứng đó đợi. Nhác thấy bóng họ, ông ta vội bước lên đón: “Dương công công phải không? Tiểu nhân là Chử Cường, người làm ở tiệm ngựa Tiền Ký, lần trước chính tôi cùng các anh em dưới quyền sửa nhà cho Tôn ghẻ.” “A, là cai thầu Chử.” Trong lúc Hoàng Tử Hà chào hỏi ông ta, Chu Tử Tần đã nhanh nhẹn gỡ giấy niêm phong trên cửa ra. Đồ đạc bên trong vẫn y nguyên như lần trước, chỉ là mấy hôm đóng kín cửa, không khí trong nhà càng hầm hập như nung, mùi hôi xộc nên nồng nặc. Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần lại rà soát cửa sổ và nền đất một lượt, rồi bảo Chử Cường: “Các vị làm khá thật, cửa sổ rất chắc chắn.” “Thưa vâng, thế nên tiệm Tiền Ký mới lấn sang lĩnh vực sửa sang nhà cửa chưa lâu, nhưng đã có tiếng trong kinh, mọi người đều tín nhiệm!” Chử Cường tự đắc vỗ vào ván cửa sổ bằng gỗ bản: “Công công xem, nếu cài chốt vào thì gậy sắt cũng không đánh bật ra được! Cái then này chấp cả bốn năm trai tráng cũng đừng hòng xô gãy!” Hoàng Tử Hà gật đầu tán đồng, rồi đứng dậy đi một vòng quanh nhà. Phòng ốc vẫn lộn xộn ngổn ngang, tường treo đầy bùa chú, tượng Phật, tượng gỗ. Chử Cường chỉ những thứ này nói: “Lúc chúng tôi tới đã thất mấy thứ này rồi. Tôn ghẻ có tật giật mình nên đem treo khắp nơi trong nhà, nói là sợ trời phạt!” Hoàng Tử Hà hỏi: “Ông biết hắn ta không có tiền, lại chẳng phải hạng tử tế gì, sao còn nhận lới sửa nhà giúp?” “Ôi chao, chẳng vẫn nghe đồn tên Tôn ghẻ này rủng rỉnh tiền của ư, lão Lữ ở tiệm nhang đèn kể rằng đã được hắn bồi thương rất nhiều tiền, nên mới tha cho đấy. Ai ngờ tên khốn này đền tiền xong thì chẳng còn xu nào nữa, hại tôi bị ông chủ Tiền mắng như tát nước vào mặt, giờ người chết rồi, nợ biết đòi ai!” Chử Cường hối hận ra mặt, hậm hực nhận xét: “Lão Lữ cũng chẳng tử tế gì, vốn đã đi theo để đặt đế đèn, vừa thấy là nhà Tôn ghẻm lão liền biến sắc, trỏ mặt họ Tôn chửi cho một chặp rồi đi thẳng, chẳng thèm đặt đế đèn nữa, thế mà không hề hé răng bảo cho tôi biết Tôn ghẻ đã hết tiền!” Chu Tử Tần không hứng thú với việc tranh chấp tiền nong, nhân lúc hai người trò chuyện, gã lần lượt gỡ hết những tấm bảng phổ độ chúng sinh trên tường, tranh Quán Âm ban con treo trên đầu giường và mấy lá bùa nhăng cuội xuống xem, nhưng chẳng thấy lỗ hổng nào trên bức tường phía sau cả, liền hậm hực ra mặt. Hoàng Tử Hà phân tích: “Mặt tường bằng phẳng như thế, làm sao có lỗ hổng bên trong được?” “Biết đâu đấy.” Chu Tử Tần miệng nói, chân đã giẫm nên bậu cửa, định gỡ tấm bảng sắt Mục Liên cứu mẹ trên đỉnh khung cửa xuống, nào ngờ gỡ mãi không được,gã tiện tay gõ gõ mấy cái, phát hiện ra đó là một chiếc hộp dài rỗng không, gắn vào tường. Chử Cường vội ngăn lại: “Ồ, cái đó không gỡ xuống được đâu, hộp sắt đặt trong tường đó là cái giá đỡ khung cửa đấy.” “Để làm gì vậy?” Chu Tử Tần hỏi. Chử Cường giải thích: “Ban đầu là ông chủ Tiền nhà chúng tôi học được cái này ở chỗ mấy thương nhân Tây Vực, nghe nói bên đó họ thích đặt một chiếc hộp sắt rỗng, chạm trổ hoa văn rất đẹp, dài bằng chiều rộng cửa lên đỉnh khung cửa, coi như đặt một miếng giảm xóc giữa khung cửa và bức tường, như vậy khung cửa sẽ không bị biến dạng. Về sau trong kinh dẫn dần thịnh hành, chúng tôi đến xưởng rèn đặt làm hơn một trăm chiếc, chưa đầy năm đã sắp hết tới nơi. Cái này là tôi chọn bừa, hình khắc bên trên hình như là… Mục Liên cứu mẹ phải không?” “Hình như thế.” Chu Tử Tần kê ghế đứng lên cao ngang tầm chiếc hộp quan sát rồi nhận xét: “Đúng là chạm rỗng, tiếc rằng cứ đen sì, nếu thêm ít sơn vào có phải đẹp không.” Hộp sắt dài bằng chiều rộng khung cửa, cao chừng hai tấc. Mặt hướng vào trong chạm rỗng hình Mục Liên cứu mẹ, mặt hướng ra ngoài thì đặc ruột, vẽ hoa văn cát tường, xong đã nứt rạn đen sì, nhìn rất xấu xi. “Đương nhiên là phải sơn rồi… Ô, rõ ràng lúc gắn lên, tôi gắn cái mới cho hắn kia mà, kẻ nào lại đổi thành thứ đen kịt như đã dùng mấy năm vậy?” Chử Cường ngẩng lên nhìn chiếc hộp đèn sì, nhíu mày: “Sao thế nhỉ, mới mấy hôm mà đã ám khối đen sì thế này rồi? Lúc trước có hoa văn sặc sỡ mà.” Chu Tử Tần nhìn qua lớp hoa văn chạm rỗng vào bên trong hộp, cũng cau mày: “Bẩn quá… Toàn là tro than.” Hoàng Tử Hà lật đật bê ngay một chiếc ghế kê cạnh ghế của Chu Tử Tần rồi trèo lên nhìn vào trong hộp. Chỉ thấy lớp sơn bên ngoài cháy đen như bị lửa thiêu, bên trong hộp toàn tro, ở góc còn có mất vết ngón tay quẹt qua. “Có người thò ngón tay qua lỗ hổng, lấy thứ bên trong ra.” Hoàng Tử Hà nhận xét, rồi ngoái lại hỏi Chử Cường: “Cái hộp này mở ra được không?” “Hộp bằng sắt mỏng ấy mà, muốn mở thì lấy kéo cắt ra là xong.” Chu Tử Tần tìm được một cây kéo gỉ ngoèn, bèn cắt rời hoa văn Mục Liên cứu mẹ ra, trong hộp chỉ có một cái khung sắt và lớp tro dày, trên lớp tro còn in hằn một vài vết tích. Chu Tử Tần trỏ một vết khá lớn nhận xét: “Nhìn cái này này, có vẻ vật bị lấy ra là hình tròn.” Lại trỏ một vết dài mảnh: “Nhìn cái này, thì có vẻ là thứ gì đó làm bằng sợi sắt mảnh.” Hoàng Tử Hà nhíu mày, săm soi dấu vết hình tròn khá lớn kia: “Nhìn độ lớn này, công tử có thấy là không thể móc một vật hình tròn to như thế qua lỗ hổng bé thế này không?” Chu Tử Tần dùng ngón tay ước lượng độ lớn của vật tròn, rồi lại gí ngón tay đo chiều rộng lỗ hổng trên mặt hộp sắt mà mình vừa cắt rời ra, ngỡ ngàng nhận xét: “Đúng thật… Chỗ lỗ hổng lớn nhất cũng vẫn nhỏ hơn kích thước vật kia! Công công xem, dài mất là mấy đám mây này, phải đến hai ba tấc ấy, nhưng lại hẹp bề ngang…” “Bởi vậy thứ đó nhất định không phải hình tròn, chỉ là cong cong thôi.” Vừa nói cô vừa quệt ít tro trong hộp ngửi thử, không giấu được nụ cười: “Linh lăng hương.” Giữa gian phòng tranh tối tranh sáng, không khí lởn vởn bụi bặm, nụ cười vui sướng của cô vì vạch trần được âm mưu chợt bừng lên rạng rỡ, khiến Chu Tử Tần nhìn mà ngẩn ngơ. Hoàng Tử Hà rút khăn tay ra, quệt ít tro đen trong hộp gói lại. Ngẩng lên thấy Chu Tử Tần vẫn đờ đẫn nhìn mình, cô buột miệng hỏi: “Sao thế?” “Ờ…” Chu Tử Tần vội nhìn lảng đi nơi khác, luống cuống quệt vội ít tro, chống chế: “Ta cũng lấy một ít về kiểm nghiệm xem có phải linh lăng hương không.” Rời phường Đại Ninh, Chu Tử Tần đi về hướng Tây Nam, còn Hoàng Tử Hà đi về hướng Đông Nam, mỗi người một ngả. Đi đến phường Hưng Ninh, Hoàng Tử Hà chợt thấy rất nhiều người chậy rầm rập trên đường, có kẻ còn la lớn: “Mau tới Thập Lục trạch đi! Chậm là hết đó!” Hoàng Tử Hà không hiểu chuyện gì, đương ngỡ ngàng chợt thấy một bà lão đang chạy thì bị đám đông xô ngã nhào, miệng kêu ôi chao. Cô vội chạy tới đỡ bà ta lên, hỏi: “Các vị chạy đi đâu vậy?” “Ối chao, nghe nói thánh thượng và Quách thục phi đang rải tiền khắp phố ở khu Thập Lục trạch, gần phủ công chúa ấy. Chúng tôi đi nhặt tiền chứ đi đâu nữa!” Hoàng Tử Hà chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, đành chạy theo dòng người. Đến nơi, thấy cả đám đông đang vây chặt cửa phủ,ai nấy đều lom khom nhặt gì đó dưới đất, cô đành níu một người đang nắm chặt vật vừa nhặt được trong tay hỏi: “Đại ca, nghe nói thánh thượng và Quách thục phi đang rải tiền, đúng không?” “Rải tiền cái gì? Đúng là phàm tục!” Người trông như ăn sĩ nọ xòe tay ra cho cô xem. Trong lòng bàn tay ông ta là một đóa hoa cài đầu bằng bạc khảm trân châu, tinh xảo hoa mỹ, hẳn là đồ trang sức trong cung. “Vừa rồi thánh thượng và Quách thục phi giá lâm phủ công chúa để xem điệu Than thở trăm năm mà Lý Khả Cập mới dựng, gấm đoạn trải dài suốt dọc đường thánh giá đi từ trong cung Đại Minh tới đây, mấy trăm người vừa ca vừa múa, hoa cài đầu rơi lả tả, những kẻ này đều kéo đến để nhặt đó.” Hoàng Tử Hà sực hiểu ra, bèn lắng tai nghe, quả nhiên lẫn trong tiếng lao nhao của đám đông, vẫn loáng thoáng nghe thấy tiếng ca múa tờ bên trong vẳng lại. Cô tránh cửa lớn, lánh đến nơi vắng người, quả nhiên nghe rõ mồn một tiếng mấy trăm người đồng ca. Âm điệu bi ai uyển chuyển khiến cô đứng xa xa nghe mà cũng thấy nao nao trong dạ, chạnh lòng buồn thương vô cớ. Hoàng Tử Hà dựa vào tường, lặng lẽ ngẩng đầu nhìn trời. Chiều hạ lặng gió, tiếng ca sầu thảm từ xa đưa lại như cứa vào lòng, khiến nước mắt cô cứ thế lăn dài. Tự thấy mặt mình nhạt nhòa nước mắt sẽ rất khó coi, cô lần tìm khăn tay để lau, nhưng lại sực nhớ ra khăn tay đã dùng gói mấy dúm tro tàn khi nãy. Cầm trong tay gói tro linh lăng hương, còn đang bần thần, Hoàng Tử Hà chợt thấy một chiếc khăn tay trắng muốt chìa ra từ phía sau. Cô ngoái lại, mở to mắt, nhìn qua màn lệ nhạt nhòa. Là Vũ Tuyên. Hắn vận chiếc áo thiên thanh, đứng giữa con hẻm xám nhờ, màu sắc rất thanh nhã, dung mạo rất thuần tịnh. Cô chầm chậm đưa tay nhận lấy chiếc khăn, ấp lên mặt. Nước mắt nóng bỏng thấm vào lần vải mềm mịn, chẳng còn dấu vết. Rồi như vừa bị rút cạn sức lực, Hoàng Tử Hà bất giác dựa người vào tường, vùi mặt trong chiếc khăn tay hắn đưa, thật lâu chẳng chịu ngẩng lên. Trong chiếc khăn là mùi hương của hắn, nhẹ nhàng mà hư ảo, là đóa sen chớm nở ngày hạ, là nhụy mai rơi rụng mùa đông, là lửa nóng, cũng là băng giá trong giấc mơ của cô. “Ta trông thấy muội, từ lúc ở Đại Lý Tự.” Giọng hắn nhẹ nhàng cất lên, tuy còn hơi mơ màng, nhưng vẫn rành rọt lọt vào tai cô: “Muội nấp sau gốc cây, tránh mặt ta. Cũng phải, dù gặp mặt, thì có thể nói gì đây?” Qua giọng nói chậm rãi ấy, cô nghe được rất rõ nỗi bi ai và lưỡng lự trong lòng hắn. Hắn cũng như cô, hắn đang hồi tưởng lại những ngày đầm ấm bên nhau, những điều không thể quên, cũng không thể chết. “Ta đã gặp cô nương ấy, muội cứu cô ấy từ Đại Lý Tự ra đúng không?” Vũ Tuyên ngẩng lên nhìn những đóa mây trắng đến lóa mắt trên đầu, giọng chậm rãi mà xa xăm, “Dọc đường về, ta cứ nghĩ mãi. Nhớ lại năm xưa, chỉ vì một câu cần cân nhắc trên hồ sơ, muội cũng lặn lội ngàn dặm, đi suốt ngày đêm lật lại bản án giúp người dưng. Dù giờ đây phải gánh đủ thứ tiếng xấu, bị dồn vào chân tường, muội vẫn dốc sức giúp đỡ người khác. Vậy mà kẻ thân thiết với muội nhất trên đời là ta lại khăng khăng cho rằng muội là hung thủ, thực… uổng phí tình cảm bấy nhiêu năm nay.” Hoàng Tử Hà cắn môi nín lặng, nhưng bờ vai run bần bật đã bán đứng cô. Vũ Tuyên thở dài, dịu dàng giữ lấy vai cô. Trước đây, họ từng thân mật hơn thế này nhiều. Nhưng lâu ngày không gặp, lần đầu tiên chạm lại vào nhau, Hoàng Tử Hà bất giác nghiêng người né tránh, khiến bàn tay Vũ Tuyên đang vươn ra bị hẫng. Hồi lâu, hắn mới lặng lẽ rút tay lại, nói khẽ: “Muội không nên nói với ta nhưng lời ấy, cũng không nên làm những việc đó, nếu không ta đời nào tin muội gây ra chuyện tày đình như vậy, bất luận thế nào cũng không tin.” Hoàng Tử Hà gập chiếc khăn lại, vẻ mặt bình thản, trừ khóe mắt hơi đỏ thì chẳng còn gì khác thường. Cô hỏi ngược lại: “Muội đã… nói gì với huynh? Muội đã làm gì?” Hắn nhìn cô chăm chú, giọng rất khẽ, xong lại hết sức rành rọt: “Đêm trước khi cả nhà muội qua đời, lúc muội từ Long Châu trở về, ta đến tìm, thấy… muội đang nhìn chằm chằm gói tỳ sương trong tay, vẻ mặt rất lạ.” Hoàng Tử Hà tròn mắt ngạc nhiên nhìn Vũ Tuyên: “Gì cơ?” “Đêm hôm đó, chính hôm muội vừa từ Long Châu trở về ấy. Ta còn nhớ muội gửi cho ta một bức thư, viết rằng vụ án ở Long Châu là vì cô con gái bị người nhà chia uyên rẽ thúy, bèn bỏ cỏ đoạn trường vào thức ăn, đầu độc chết cả nhà. Muội còn bảo, nếu đôi ta lâm vào cảnh ngộ ấy, chẳng rõ muội có vứt bỏ người nhà, bước lên con đường không thể quay đầu hay không.” Ánh mắt Vũ Tuyên nhìn cô đầy đau đớn, “Đọc được câu đấy, ta rất lo lắng, thấy muội vừa về lại lấy tỳ sương ra xem, liền khuyên muội vứt đi, nhưng muội chỉ cất vào tủ khóa lại rồi nói, biết đâu thứ này có thể giúp đôi ta được ở bên nhau.” Hoàng Tử Hà ngỡ ngàng nhìn Vũ Tuyên, như nhìn một người xa lạ: “Muội nhớ chuyện ở Long Châu, cũng nhớ nội dung bức thư ấy, nhưng muội không nhớ mình từng lấy tỳ sương ra… càng không nhớ mình đã nói câu đó!” Vũ Tuyên nhìn xoáy vào cô, ánh mắt sắc như dao, nhưng chỉ thấy mặt cô đầy vẻ ngạc nhiên và đau xót, chẳng có gì sơ hở. Mặt Vũ Tuyên hơi tái đi, hắn day day thái dương, hơi thở cũng nặng nề vì kích động, khó nhọc nói: “A Hà, xem ra, đúng là ta hiểu lầm hành động khi đó của muội rồi… Có điều lúc đó muội cầm gói tỳ sương, nét nặt rất đáng sợ, mà ngay tối hôm ấy, cả nhà muội lại chết vì tỳ sương… Muội bảo ta làm sao tin muội đây?” “Không thể nào!” Hoàng Tử Hà run rẩy cắt lời, “Sau khi mua tỳ sương về, muội lập tức khởi hành đi Long Châu, tới tận lúc về cũng chưa động vào nó! Sao huynh lại thấy muội cầm gói tỳ sương được?” Vũ Tuyên nhìn cô chằm chằm, con người tiêu sái thanh tinh như hắn, lúc này cũng lộ vẻ kinh hoàng, cứ lẩm bẩm mãi mấy chữ: “Không thể nào? Không thể nào…” Nóng và lạnh, máu me và quạnh hiu, mệnh vận không thể đoán trước cùng ý trời khôn lường đều đổ sụp lên người họ. “Dương Sùng Cổ.” Phía sau chợt vang lên một giọng nói lạnh lùng đến gần như vô tình, phá vỡ bầu không khí im phắc như chết giữa hai người. Hoàng Tử Hà ngoái lại, thấy Lý Thư Bạch đang đứng đầu ngõ bất động nhìn cả hai. Ánh sáng từ sau lưng y hắt lại, không trông rõ nét mặt y, chỉ thấy đường nét gương mặt toát lên áp lực vô hình, không thể trốn thoát. Cuối cùng, cô nhìn thấy đôi mắt trong veo sâu thẳm của y, bỗng sực tỉnh khỏi trạng thái mơ màng ngơ ngẩn, nhận ra mình đang đứng giữa một con ngõ vắng tanh. Khúc Than thở trăm năm sâu thẳm vẫn vọng lại từ đằng xa, giục người rơi lệ, tiếng nhạc văng vẳng giữa bầu không, tựa hồ lấn át cả mây trời, khiến mấy ngừng trôi. Vũ Tuyên phía đối diện dường như cũng đã định thần lại, tuy trán còn xâm xấp mồ hôi lạnh, nhưng vẻ mặt đã bình thản như thường. Hắn cúi đầu hành lễ với Lý Thư Bạch rồi quay người bỏ đi, trước khi đi còn ngước nhìn cô. Hoàng Tử Hà cũng lặng lẽ nhìn hắn, trên gương mặt tái nhợt là vô vàn ưu tư phức tạp, khiến cô ngập ngừng, muốn nói lại thôi. Vũ Tuyên khẽ hỏi: “Lần trước muội nói muốn về Thục tra rõ chân tướng ư?” Hoàng Tử Hà gật đầu: “Muội nhất định sẽ về.” “Vậy ta ở Thành Đô đợi muội.” Ánh mắt Vũ Tuyên đăm đăm nhìn vào mắt cô, hệt như lần đầu gặp gỡ, hồi ấy cô còn chưa hiểu tình yêu là gì, nhưng khi nhìn vào đôi mắt đắm đuối của hắn, cô đã thấy bóng mình in trong đó. Chẳng ai biết được, trong khoảnh khắc ấy, cô đã từ một cô bé trở thanh thiếu nữ. Lúc Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà bước vào phủ Đồng Xương, đội múa Than thở trăm năm đã giải tán. Trên nền đá sáng lóa dưới nắng, châu ngọc vương vãi khắp nơi càng lấp lánh chói mắt. Thi thể Đồng Xương công chúa đã nhập quan, nhưng trong phòng vẫn đặt đầy nhưng khối những khối băng lớn có nhỏ có. Bên cạnh còn một cỗ áo quan nhỏ hơn, đặt thi thể Vân nương, bà vú của công chúa, vết hằn vẫn rành rành trên cổ, vẻ mặt nhăn nhó đến tuyệt vọng, cùng công chúa đi vào giấc ngủ vĩnh hằng. Hoàng đế và Quách thục phi ngồi giữa đại sảnh, các cung nữ và hoạn quan phía sau đều đang lau nước mắt. Ngài ngự trông hết sức giận dữ, cơn giận của nỗi tuyệt vọng không thể phát tiết, tích tụ lại mà thành. Vừa nhác thấy Lý Thư Bạch dẫn theo Hoàng Tử Hà bước vào, mấy hoạn quan và cung nữ bên cạnh hoàng đế liền thở phào nhẹ nhõm. Thấy Lý Thư Bạch đưa mắt nhìn Vân nương, hoàng đế nói: “Công chúa một mình dưới đó thì lạnh lẽo quá, nên trẫm cho Vân nương xuống tiếp tục hầu hạ công chúa.” Dù sao người cũng đã chết, nên Lý Thư Bạch chỉ lặng thinh, ngồi xuống bên cạnh hoàng đế. Quách thục phi bưng mặt nức nở: “Còn mấy thị nữ và hoạn quan nữa, những người khác thì thôi, nhưng mấy kẻ đó chuyên hầu hạ bên cạnh công chúa, công chúa xảy ra chuyện, chúng cũng phải chịu trách nhiệm!” Hoàng đế nghĩ ngợi hồi lâu rồi chậm rãi nói: “Lần trước Dương công công đã xin tha cho chúng, trẫm nghĩ cũng có lý, cứ tạm gác chuyện đó lại đi.” “Hoàng thượng thương hại chúng, nhưng thiếp lại lo Linh Huy ở dưới đó cô đơn!” Quách thục phi khóc nấc lên, càng thương tâm khôn xiết: “Linh Huy từ bé sợ nhất là cô đơn, lúc nào cũng cần có người bên cạnh, vậy mà giờ phải xuống dưới đó một thân một mình, không có người hầu hạ, kẻ làm mẹ như thần thiếp làm sao yên lòng đây…” Nghe tiếng khóc thảm thiết của bà ta, Hoàng Tử Hà chỉ thấy một luồng khí lạnh từ gan bàn chân theo cột sống chạy thẳng lên đầu. Lý Thư Bạch cũng đang đưa mắt nhìn cô, cả hai đều thấy dụng ý của Quách thục phi trong mắt nhau. “Thục phi đừng nói nữa, trẫm đau lòng lắm.” Hoàng đế thở dài, nhưng không phản đối, chỉ quay sang nói với Lý Thư Bạch: “Vừa rồi, trẫm đã truyền gọi tên Vũ Tuyên, học chính Quốc Tử Giám mà công chúa yêu quý lúc sinh thời đến.” Quách thục phi ngồi bên vẻ mặt phức tạp, khẽ khàng đặt tay lên mu bàn tay hoàng đế. Xong ngài ngự dường như không hề nhận thấy, vẫn tiếp tục nói: “Trẫm cũng nghe được lời đồn đại trong kinh, Linh Huy từng đề nghị Vũ Tuyên dạy học cho mình, nhưng hắn nhiều lần cự tuyệt, về sau công chúa phải đích thân có lời với tế tửu Quốc Tử Giám, hắn mới chịu đến phủ công chúa giảng Chu Lễ. Bấy giờ trẫm chỉ cười cho qua, nhưng giờ nghĩ lại thì thương Linh Huy đang trẻ trung mơn mởn, lại phải thui thủi một mình dưới đó, nó thích nghe Vũ Tuyên giảng Chu Lễ, lẽ nào trẫm không thể chiều theo nó?” Tim Hoàng Tử Hà giật thót, nhưng rồi cô sực nghĩ mình vừa gặp Vũ Tuyên đi ra, xem chừng hoàng thượng đã tha cho hắn rồi. “Trẫm quả thật định giết hắn.” Hoàng đế thẫn thờ giây lát mới ngẩng lên thở hắt ra, “Nhưng sau khi gặp mặt, chẳng hiểu sao lại từ bỏ ý định đó.” Lý Thư Bạch không đáp, chỉ hơi nghiêng đầu nhìn sang cỗ áo quan của công chúa. “Có lẽ trẫm già rồi, không đành lòng bẻ gãy cây ngọc.” Đoạn hoàng đế quay sang hỏi Lý Thư Bạch: “Tứ đệ đã gặp Vũ Tuyên bao giờ chưa?” “Thưa, thần đệ gặp rồi. Quả là thanh tú thuần tịnh, tuyệt thế vô song.” Lý Thư Bạch hờ hững đáp. Quách thục phi ngẩn người ra hồi lâu, rồi đột ngột đứng phắt dậy, chạy đến cạnh quan tài Đồng Xương công chúa, vịn vào mép áo quan khóc lóc. Trái lại, Lý Thư Bạch vẫn thản nhiên như thường: “Hoàng thượng không giết hắn là phải. Nếu không, để hắn bầu bạn cùng công chúa ở dưới đó, thì phò mã phải làm sao?” Hoàng đế gật đầu, nhắm nghiền mắt lại vẻ mết mỏi. Hoàng Tử Hà đứng hầu phía sau, im lặng lắng nghe. Chiều mùa hạ râm ran tiếng ve. Cô nghe thấy giọng hoàng đế yếu ớt lẫn trong tiếng ve inh ỏi: “Sáng mai, Đại Lý Tự sẽ xét xử công khai vụ này. Trẫm đã hạ lệnh, sau khi thẩm vẫn, lập tức đưa phạm nhân tới pháp trường, lăng trì tùng xẻo.” Lý Thư Bạch trầm tư hỏi: “Vụ này đã có kết luận rồi ư?” “Nhân chứng vật chứng đủ cả rồi.” “Nếu bắt được hung thủ, cũng an ủi được vong linh công chúa trên trời.” Lý Thư Bạch ngoái lại liếc Hoàng Tử Hà rồi nói: “Thần đệ giữ chức trong Đại Lý Tự, sáng mai cũng sẽ có mặt.” “Trời nóng quá, Linh Huy cũng không thể để lâu, trẫm quyết rồi, sau khi hung thủ chịu hình phạt, sẽ tạm thời quàn linh cữu công chúa vào Trinh lăng của phụ hoàng, đợi khi nào lăng công chúa xây xong, sẽ cho an táng.” “Thế là ổn nhất.” Lý Thư Bạch tán đồng, xong chỉ thấy hoàng đế ngả người dựa vào lưng ghế, ngửa mặt nhìn trời bất động, thậm chí mắt cũng không hề chớp, hơi thở mỗi lúc một nặng nề. Y làm thinh hồi lâu rồi cáo từ hoàng đế, cũng Hoàng Tử Hà rời khỏi phủ công chúa. Chiều mùa hạ, cả kinh thành chìm trong nóng nực, đường phố cũng vắng ngắt. Trong thùng đá lạnh trên xe đặt một khối đá lớn đẽo hình núi tiên, trời nóng quá nên những hình thần tiên và cây cỏ đều tan chảy cả, chỉ còn thấy dáng dấp ngọn núi mà thôi. Nước đá tan chảy tí tách nhỏ xuống lòng thùng. Dù ngồi ngay cạnh khối đá, Hoàng Tử Hà vẫn thấy nóng bức, mồ hôi rịn ra ướt cả lưng. Cảm giác được cái nhìn chăm chú của Lý Thư Bạch, cô càng căng thẳng tột độ. Rơi vào cảnh này, quả là biết mình không biết người, đáng mất khả năng khống chế cục diện. Cuối cùng, để tránh kết cục bi thảm, cô đành nghiến răng lên tiếng trước: “Nô tài muốn thỉnh giáo vương gia một chuyện.” Ánh mắt chăm chú của y toát lên vẻ ngạc nhiên: “Gì cơ?” “Có cách nào khiến người ta sinh ra ảo giác, trông thấy một việc không hề xảy ra không?” Lý Thư Bạch lắc đầu: “Không có.” “Nhưng vừa rồi gặp Vũ Tuyên, huynh ấy có nói, vào hôm cha mẹ tôi qua đời, từng thấy tôi cầm gói tỳ sương, vẻ mặt hết sức quái dị.” Khi thốt ra hai tiếng Vũ Tuyên, lòng cô như dậy sóng, nhưng rồi, cơn sóng lại loang ra thành từng gợn lăn tăn, dần dần tan biến. Lý Thư Bạch thoáng trầm tư: “Có lẽ chuyện đó có thể giải thích vì sao hắn cứ khăng khăng cho rằng ngươi là hung thủ. Bởi hắn đã chính mắt chứng kiến ngươi có cử chỉ khác thường ngay trong ngày hôm đó.” “Nhưng tôi thực sự không làm gì cả!” “Là hắn nhớ lầm, hay là ngươi quên mất?” Lý Thư Bạch vặn lại. “Huynh ấy nhớ lầm rồi.” Hoàng Tử Hà đáp ngay không hề do dự. “Cũng có thể còn một khả năng nữa, là hắn nói dối.” “Nhưng… huynh ấy nói dối người trong cuộc để làm gì?” Hoàng Tử Hà ngỡ ngàng hỏi. “Ngươi là người trong cuộc còn không hiểu, làm sao ta hiểu được?” Lý Thư Bạch lạnh lùng, “Huống hồ, chẳng phải các người đã hẹn gặp ở Thành Đô ư? Đến lúc đó đối chất lại là rõ.” Nghe giọng điệu lạnh băng của y, Hoàng Tử Hà đành nín lặng ngồi nghe nước đá nhỏ xuống tí tách, xe ngựa cũng từ từ dừng lại, đã đến phủ Quỳ. Vừa bước xuống xe, hơi nóng bên ngoài đã tạt thẳng vào mặt Hoàng Tử Hà như một con sóng hữu hình, khiến cô lảo đảo. Lý Thư Bạch phía sau vội giơ tay ra đỡ cô. Hoàng Tử Hà vừa đứng vững, đang định cảm tạ thì y đã buông tay, xăm xăm băng qua cô đi thẳng vào trong. Cô đứng nhìn theo bóng y giây lát rồi quay người đi về phía tàu ngựa. Lý Thư Bạch không hề quay đầu, nhưng như có mắt sau gáy, lạnh lùng hỏi: “Đi đâu?” “Cung Thái Cực.” Cô ngoái lại đáp, “Tôi muốn xem thử có thể cứu mấy hoạn quan và thị nữ bên cạnh công chúa hay không.” “Dương công công vẫn khỏe chứ?” Vương hoàng hậu vừa ngủ trưa dậy, vẫn còn uể oải. Hoàng hậu da băng xương ngọc, áo lụa như mây quấn quanh mình, ngồi giữa đại điện thâm u, hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi cái nóng hầm hập ngày hè. Trái lại, Hoàng Tử Hà cưỡi ngựa dãi nắng chạy đến nên trông rất lôi thôi, tóc mái bết vào trán, mồ hôi lấm tấm hai cánh mũi, quần áo vừa sửa sang vội vàng bên ngoài điện, vẫn còn xộc xệch. Vương hoàng hậu giơ tay cho tất cả người hầu lui xuống, rồi cầm khăn gấm trên bàn đưa cho cô: “ Công công vội đến tìm ta như vậy, có chuyện gì chăng?” Hoàng Tử Hà cung kính nhận lấy, thấm mồ hôi trên mũi, sẽ giọng thưa: “Chúc mừng hoàng hậu nương nương sắp quay về cung Đại Minh.” Vương hoàng hậu nhìn xoáy vào cô, thấy không có vẻ giả trá mới mỉm cười nói: “Gác Bồng Lai gần hồ, mát hơn ở đây nhiều, nếu chóng về được thì tốt quá.” Hoàng Tử Hà gật đầu: “Nô tài biết nương nương nhất định đã chuẩn bị về cung, nhưng có thể giúp nương nương về sớm dăm ngày, cũng là chức trách của nô tài.” “Ngươi nói xem, sao phải vội vã đến đây thông báo chuyện này?” Vương hoàng hậu ngả người trên sập, phe phẩy cây quạt tròn họa hình thiên nữ rải hoa. “Quách thục phi có một bí mật, có thể đã bị mấy hoạn quan và thị nữ hầu hạ bên cạnh Đồng Xương công chúa biết được, nên giờ chỉ muốn bọn chúng phải chôn theo công chúa.” Vương hoàng hậu dùng quạt che miệng, nhưng không che được đôi mắt cong cong: “Xem ra, hẳn là một bí mật quan trọng.” “Thực ra… chỉ là một câu nói thôi.” Cô thì thào, “Nô tài còn một chuyện, xin hoàng hậu đồng ý.” “Chuyện gì?” “Việc này liên quan đến một người nữa, là học chính Quốc Tử Giám Vũ Tuyên… người quen cũ của nô tài. Nô tài tin rằng bí mật này chỉ cần bẩm báo với hoàng hậu là đủ để dạy bảo Quách thục phi, không cần thiết làm toáng lên cho mọi người đều biết.” Vương hoàng hậu cười: “Đương nhiên rồi, bản cung đã dung dưỡng được Quách thục phi trong cung bấy nhiêu năm, về sau cũng muốn ả ta tiếp tục làm trợ thủ cho ta.” Hoàng Tử Hà cúi đầu khẽ đáp: “Thưa, đúng vậy.” “Vậy thì, bí mật của Quách thục phi là câu nói gì?” Khung cảnh lần đầu gặp gỡ Vũ Tuyên chợt hiện ra như ảo ảnh, những đóa sen trong lòng cô lả tả rơi xuống, trôi bồng bềnh trên mặt hồ loang đầy những gợn nước lăn tăn. Hôm đầu tiên dọn ra ở riêng, Vũ Tuyên không ngủ được, đành chạy đến đứng trước cửa nhà cô cả đêm, mặc cho tuyết phủ khắp người, những bông tuyết trên mi tan ra, chảy dài như nước mắt. Vào ngày xảy ra thảm án, hắn ôm một ôm hoa mai giùm cô, những đóa mai đỏ rực như lửa đặt cạnh nụ cười của hắn, còn tươi thắm hơn máu đào. Cả những mảnh vụn lá thư bị hắn xé nát bỏ vào lò hương chùa Hưng Đường, từ từ tan biến trong lửa, chỉ còn lại tàn tro. Cô nhắm nghiền mắt, nói thật khẽ, như mê sảng: “Muốn theo trăng trôi chảy đến chàng.” Ráng chiều như gầm phủ lên toàn bộ Trường An. Hoàng Tử Hà quay đầu về Tây, thấy bầu không thấp đến nỗi tưởng chừng chỉ giơ tay ra là chạm đến. Sau ráng chiều lộng lẫy, là một ngày sắp trôi qua. Hoàng Tử Hà quay về phủ Quỳ, vào phòng ngồi xuống, rút cây trâm trên đầu ra, vô thức vạch vạch lên giường, sắp xếp lại toàn bộ manh mối. Xác định không còn gì lầm lẫn, cô mới cắm trâm lại chỗ cũ, ngồi trên giường ngẫm nghĩ một lúc, cuối cùng cũng phát hiện được cảm giác bất ổn này từ đâu đến… Lý Thư Bạch không cho gọi cô. Bình thường, khi cô về đến phủ, nhất định sẽ có người chạy ra báo, vương gia truyền ngươi đến. Vậy mà hiện giờ, cô vừa nắm được một bước tiến quan trọng của vụ án, lại không biết phải bẩm báo tình hình với ai. Hoàng Tử Hà thở dài, nằm vật ra giường, ngơ ngẩn ngẫm lại tình cảnh xảy ra hôm nay trong con ngõ cạnh phủ công chúa. Vũ Tuyên nói đã trông thấy cô cầm gói tỳ sương, vẻ mặt quái dị. Không có khả năng đó. Như cô nhớ thì, sau khi mua tỳ sương về, cô còn chưa kịp tiến hành vụ cá cược đã nghe được ở Long Châu xảy ra vụ thảm án giết chết cả nhà, bèn chạy ngay đến Long Châu điều tra, cuối cùng phát hiện hung thủ chính là con gái nhà đó, vì bị cha mẹ ngăn cấm tình duyên nên mới hạ độc vào đồ ăn, để cả nhà, bao gồm cô ta, cùng xuống suối vàng. Thấy vậy cô rất xúc động, bèn viết thư cho hắn. Hai ngày sau, cô về đến phủ Thành Đô. Cả ngày bôn ba vất vả, về tới nhà cũng đã hoàng hôn, ăn cơm xong, cô lập tức lên giường, ngủ say như chết, chẳng mộng mị gì. Sáng sớm hôm sau, lúc Vũ Tuyên đến cô cũng vừa trở dậy, hắn hỏi han chuyện cô kể trong thư, thấy cô không có gì khác lạ, bèn cùng ra sân sau ngắm hoa mai, mãi đến khi bà và chú cô đến mới cáo từ ra về. Bấy giờ cô còn chưa hề mở ngăn tủ đựng tỳ sương ra, sao có thể cầm nó lên xem được chứ? Là hắn nhớ lầm, hay chính cô nhớ lầm đây? Hay là Vũ Tuyên bịa đặt? Nhưng nhìn vẻ mặt hắn không có gì giả trá, hơn nữa, hắn nói dối cô thì được tác dụng gì chứ? Hoàng Tử Hà thấy cả người rời rã, mệt mỏi đến cùng cực, bất giác năm ngửa ra giường, thẫn thờ nhìn lên trần nhà. “Nghĩ gì mà đờ người ra thế?” Một giọng nói vang lên ngay bên cạnh. Cô đang mơ màng, vô thức lẩm bẩm gọi: “Vũ Tuyên…” Vừa buột miệng, cô bỗng sởn da gà, mồ hôi lạnh túa ra, lập tức lật người ngồi phắt dậy, nhìn về phía Lý Thư Bạch đang đứng trước cửa. Trời đã nhá nhem, sắp sập tối đến nơi, ánh hoàng hôn nhạt nhòa phủ lên đường nét gương mặt y, càng khó trông rõ vẻ mặt. Cô cuống quýt leo xuống giường bước ra đón y: “Nô tài đang nhớ đến mấy câu huynh ấy nói.” Cũng chẳng hiểu sao cô phải vội vã giải thích như vậy, tiếc rằng Lý Thư Bạch vẫn thản nhiên như không, chỉ nhìn xoáy vào cô, hờ hững “ừm” một tiếng. Hoàng Tử Hà lấy làm ấm ức, tại sao cô đứng trong phòng, bị ráng chiều soi rõ mồn một nét mặt, còn y lại đứng ngược sáng, khiến cô cố thế nào cũng không trông rõ được y, càng không biết trong đôi mắt thăm thẳm kia ẩn giấu điều gì. Lý Thư Bạch chẳng buồn để ý tới cô, quay lưng đi thẳng ra ngoài. Hoàng Tử Hà thấp thỏm đi theo đến đài Chẩm Lưu. Dọc đường y cứ im lìm, khiến cô càng căng thẳng. Mãi tới khi bước vào bên trong, cô mới đánh bạo lên tiếng: “Nếu gia có chuyện cần truyền, cứ bảo bọn Cảnh Dục gọi tôi là được mà…” Nào ngờ y phớt lờ câu này, hỏi ngay sang chuyện khác: “Ngươi đến cung Thái Cực, hoàng hậu phản ứng thế nào?” “Chắc hẳn nương nương sẽ sai người triệu Quách thục phi đến, dù sao thời cơ cũng chín muồi rôi.” “Ừm, hoàng thượng lạm sát kẻ vô tội vì Đồng Xương công chúa, hôm nay trong triều cũng có mấy vị đại thần khuyên can, xong đều bị thánh thượng trách phạt. Các thái phi trong cung vì chuyện này mà lo lắng không yên. Nhưng ai dám trách móc hoàng thượng? Đánh đổ tất cả tội lỗi lên đầu Quách thục phi thôi.” Lúc này, cả triều đình và hậu cung đều đồng lòng nhất trí, mong Vương hoàng hậu trở về kiềm chế Quách thục phi, thậm chí dân chúng trong kinh thành cũng xôn xao bàn tán. “Có lẽ ông trời giúp Vương hoàng hậu, trong lúc quan trọng nhất thì Đồng Xương công chúa, chỗ dựa vững chắc nhất của Quách thục phi lại qua đời, khiến trong triều ngoài nột náo loạn cả lên.” Hoàng Tử Hà khẽ nhận xét. Lý Thư Bạch lắc đầu: “Vương hoàng hậu đi được đến ngày hôm nay, hoàn toàn không phải nhờ may mắn. Kẻ chống lưng cho bà ta quả không thể xem thường.” “Là nhà họ Vương ư?” “Phải, mà cũng không phải.” Lý Thư Bạch nhìn về phía con cá nhỏ đang lặng lẽ lặn xuống đáy bình lưu ly, giọng chậm rãi: “Một kẻ mạng họ Vương, xong lại ly khai nhà họ Vương, mới thực sự là bàn tay âm thầm thao túng cả triều đình này.” Trước mắt Hoàng Tử Hà chợt hiện ra nam nhân đứng trên lầu gác ở cung Thái Cực, nhìn cô chòng chọc từ xa. Áo tía đai ngọc, mắt như rắn độc. Y từng ấn tay cô vào chậu cá, để A Già Thập Niết mút mát máu dính trên tay. Cô sực hiểu ra, lẩm bẩm gọi cái tên đó: “Vương Tông Thực.” Lý Thư Bạch chỉ nhếch môi: “Nếu không nhờ Vương Tông Thực chống lưng, ta sao có thể đi đến ngày hôm nay, ngồi vào vị trí này?” Hoàng Tử Hà nín lặng. Mười năm trước, tiên hoàng qua đời, Vương Tông Thực là trung úy trong Tả thần sách hộ quân, đã giết chết bọn Vương Quy Trường, Mã Công Nho, Vương Cư Phương mưu đồ làm phản, đích thân dẫn đội nghi trượng tới nghênh đón hoàng đế vào cung, là công thần hàng đầu trong việc đăng cơ của đương kim thánh thượng. Sau khi bước lên ngôi cửu ngũ, hoàng đế mới hiểu ra, ngai vàng vốn không dễ ngồi. Gần trăm năm nay, triều đình phần nhiều do hoạn quan nắm giữ, những triều thần chết trong tay chúng nhiều không đếm xuể, thậm chí có cả hoàng đế. Tiên hoàng phải giả ngây giả dại, ẩn nhẫn nhiều năm, cuối cùng mới lật đổ được hoạn quan Mã Nguyên Chí từng phò trợ mình lên kế vị, nhưng đương kim thánh thượng chẳng cách nào lừa được Vương Tông Thực luôn luôn phòng bị, cũng chẳng có khả năng chống lại. May sao, ba năm trước Từ Châu đại loạn, nhờ Quỳ vương Lý Thư Bạch dẹp yên, uy hiếp thế lực của lục đại tiết độ sứ, kinh thành thập ty hầu như đều nghe theo lệnh y, cuối cùng hoàng thất mới vực dậy được thế lực. Mấy năm nay, nhờ Quỳ vương kiềm chế quân Thần sách, triều đình và hoàng đế mới được yên lòng. Nhìn gương mặt bình thản của y, Hoàng Tử Hà thầm nghĩ, lúc tiên hoàng băng hà, y mới mười ba tuổi, bị đuổi ra khỏi cung Đại Minh, là tình cảnh thế nào? Trong sáu năm làm Thông Vương mờ nhạt, y đã sống ra sao? Mười chín tuổi đại thắng, vang danh bốn biển, hiển lộ tài năng, từ bấy gánh trên vai toàn bộ sự tồn vong của hoàng thất Đại Đường, y đã nghĩ những gì? Y mang vô số trọng trách, lúc nào cũng phải tận tâm kiệt lực, chẳng được một ngày thảnh thơi. Có lúc, cô đã vắt óc nghĩ xem y thích gì, nhưng giờ ngẫm lại thì, ý thích đối với y là một thứ quá chừng xa xỉ, cả cuộc đời y có lẽ chỉ mang nặng trách nhiệm với hoàng thất Lý Đường, chẳng lúc nào được sống cho mình nữa. Bởi vì y họ Lý, y là Quỳ vương Lý Thư Bạch. Hoàng Tử Hà lặng lẽ nhìn y, đúng lúc y ngoái lại, ánh mắt đôi bên giao nhau thật lâu. Cuối cùng cô cụp mắt xuống trước, còn y vẫn nhìn cô chăm chú: “Bí mật của Quách thục phi bại lộ, ngươi thử nghĩ Vũ Tuyên sẽ có kết cục thế nào?” Cô cắn môi đáp khẽ: “Vương hoàng hậu sẽ không tiết lộ đâu, lộ ra thì hoàng hậu có lợi lộc gì chứ? Cách làm thông minh nhất là cảnh cáo Quách thục phi, biến phi thành một trong những người ra mặt đề nghị hoàng hậu hồi cung.” “So với Vương hoàng hậu, Quách thục phi quá khờ khạo. Chỉ có một đứa con gái mà dám vọng tưởng dựa vào lòng sủng ái của hoàng thượng với công chúa, lật đổ một Vương hoàng hậu đã sinh một trai một gái, còn đích thân nuôi nấng thái tử; huống hồ, sống giữa chốn cung đình phải cẩn trọng từng li từng tí, vậy mà dám ngang nhiên viết thơ tình gửi cho người, để rồi bị kẻ khác nắm thóp.” Lý Thư Bạch lạnh lùng nhận xét, nghĩ ngợi giây lát rồi hỏi: “Ngươi khẳng định người tư tình với Vũ Tuyên là Quách thục phi chứ không phải Đồng Xương công chúa từ bao giờ?” “Thưa gia, từ khi nhìn thấy hai câu thơ dang dở ở vườn Tri Cẩm.” Hoàng Tử Hà ngước lên nhìn ra cửa sổ, thấy sắc trời đang tối dần, từng ngọn đèn lồng lần lượt được thắp lên, “Đó không phải nét chữ Đồng Xương công chúa, như vậy kẻ ở vườn Tri Cẩm ngày hôm đó mới thực sự là hung thủ giết hại Đậu Khấu. Công chúa vốn đã định cho Đậu Khấu chuyển ra ngoài ở, vậy mà vì bảo vệ kẻ đó, đành để phò mã hiểu lầm rồi sinh ra oán hận mình… Người được công chúa dốc sức bao che như vậy, đương nhiên chỉ có… mẹ ruột mình, chính lá Quách thục phi. Nét chữ của phi, giống hệt nét chữ trên bức thư bị Vũ Tuyên thiêu hủy.” Trời tối dần, khiến ngọn đèn trong phòng càng rực lên, soi sáng hai người, chỗ sáng càng thêm sáng, chỗ tối càng thêm tối. “Hơn nữa, hai câu trong thư, ‘cùng nghe ngóng lúc nay chẳng thấy, muốn theo trăng trôi chảy đến chàng’ cũng không phải lời lẽ của công chúa. Công chúa muốn gì được nấy, đã đến thẳng Quốc Tử Giám tìm tế tửu đòi Vũ Tuyên đích thân tới giảng bài cho mình, sao có thể viết cho huynh ấy những câu thơ ai oán, cứ như gần trong gang tấc mà biển trời cách mặt như thế được?” Lý Thư Bạch mỉm cười, nhìn con cá nhỏ đang bất động như say ngủ: “Ngoài phố đồn đại Quách thục phi liên tục ra vào phủ công chúa là vì có tư tình với phò mã Vi Bảo Hoành; lại có lời đồn rằng, Đồng Xương công chúa ép học chính Vũ Tuyên của Quốc Tử Giám vào phủ giảng bài, làm mất mặt phò mã, nhưng có mấy ai rõ chân tướng sự thực đâu.” “Gia phát hiện ra chuyện này từ bao giờ?” “Sớm hơn ngươi.” Y ngồi xuống bàn, mắt vẫn không rời con cá, vẻ mặt bình thản, “Khi trâm Cửu loan biến mất, ngươi đến gác Thê Vân tra xét, ta đứng ở lan can bên ngoài, nhìn xuống dưới thấy Quách thục phi dúi cho Vũ Tuyên vật gì đó. Về sau, ngươi nói rằng đó là một phong thư, cũng kể cho ta biết câu thơ còn sót lại.” Hoàng Tử Hà ngập ngừng, nhưng cuối cùng vẫn hỏi: “Sao gia không nói với tôi?” “Ta cho rằng việc đó chẳng liên quan gì tới ngươi, cũng chẳng liên quan tới vụ án.” Hoàng Tử Hà nín lặng, hồi lâu mới lên tiếng: “Bất kể thế nào, Vũ Tuyên với tôi cũng là chỗ quen biết nhiều năm, tôi nên biết chuyện của huynh ấy…” “Vậy cần gì ta kể? Hắn đợi ngươi ở Thành Đô kia mà, ngươi cứ tự đi mà hỏi hắn.” Từ khi quen biết đến giờ, lần đầu tiên Lý Thư Bạch gay gắt cắt lời cô như thế. Hoàng Tử Hà ngạc nhiên ngước mắt nhìn y, khẽ khàng thưa: “Vương gia đã nói khi nào chuyện này kết thúc, sẽ lập tức đưa tôi đi mà.” “Nóng lòng quá không chờ nổi nữa chứ gì?” Y cười nhạt. Hoàng Tử Hà ngỡ ngàng: “Lẽ nào phải ở lại kinh thành ít lâu nữa ư?” “Nếu đã nóng lòng như thế, sao không theo Vũ Tuyên về Thục quách, còn đòi ta đưa đi làm gì?” Hoàng Tử Hà bối rối, chẳng hiểu sao y lại đột ngột trở mặt, chỉ biết phân trần: “Vụ án đó đã có phán quyết, nếu không có gia giúp đỡ, nô tài rất khó lật lại bản án. Trước đây chúng ta đã thống nhất rồi kia mà, lẽ nào bây giờ gia lại nuốt lời?” “Bản vương chưa bao giờ nuốt lời.” Mặt Lý Thư Bạch đã lạnh càng thêm lạnh, y quay đi không buồn nhìn cô, lạnh lùng nói: “Ngươi nói đúng, chúng ta vốn chỉ là quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau mà thôi. Đợi khi nào phá được vụ án gia đình ngươi, hai ta cũng đường ai nấy đi, không nợ nẫn gì nhau nữa.” Hoàng Tử Hà cảm thấy lời lẽ của y có gì đó rất khó chấp nhận, nhưng theo giao hẹn ban đầu giữa hai người thì đúng là như vậy. Ngẩng đầu lên, bắt gặp gương mặt lạnh băng của Lý Thư Bạch, lòng cô rối như tơ vò, bất giác nhích lại gần y một bước: “Bất luận ra sao, xin vương gia đừng quên giao hẹn, dẫn tôi về Thục điều tra huyết án của gia đình, rửa sạch oan khuất…” Vừa nói, Hoàng Tử Hà vừa với tay về phía y, khi cánh tay vươn qua mặt bàn, cô chợt thấy cổ tay lành lạnh, thì ra chiếc bình lưu ly đặt ở góc bàn đã vô tình bị kéo theo, rơi xuống nền gạch xanh vỡ tan tành, nước bắn tung tóe, con cá đỏ giãy đành đạch trên mặt đất.