KHÔNG CÓ MỘT CƠN GIÓ CHẾT TIỆT NÀO CẢ. Khu rừng im lặng. Giống như một con thú đã chết, hơi thở của nó không còn. Angeline bước đi giữa thảm lá ố màu trên đất. Một chuyển động nhỏ của bầy sóc và chim cũng có thể lọt vào mắt cô, vì không có một cành cây ngọn cỏ nào lay động cả. Giống như thể cả cánh rừng đã bị đóng băng và chỉ có cô là người duy nhất có thể cử động. Mùa thu nào cũng thế cả. Hầu hết lá cây đã rụng hết, để lại những cành cây khô trơ trọi và vài chiếc lá còn bám víu ở trên. Có những chùm quả dại ở các bụi cây nhỏ, khi chín đã không rụng xuống đất hay bị mấy con thú ăn nên héo quắt lại, nhăn nhúm và đen xỉn, bám chặt vào cành cây. Tòa tháp đã hiện ra trước mặt cô, với dòng suối trong vắt và lặng yên ở gần. Những hòn đá phủ đầy rêu ẩm ướt, và khác với mùa mưa, nước của nó chảy rất chậm, bụi lắng xuống nên có thể thấy rõ cả đáy suối. Lũ cá bơi hoảng loạn khi Angeline đi qua. Cô vẫn còn giữ chìa khóa vào tòa tháp. Ở bên trong, người ta đã dọn sạch mọi thứ, căn phòng trở nên trống trải. Angeline nhẹ nhàng khép cửa lại như thể sợ nếu tạo ra tiếng động mạnh sẽ đánh thức ai đó đang ngủ. Cô bước đến gần cửa sập tầng hầm. Mấy tấm ván gỗ cọt kẹt kêu. Angeline cúi xuống nhìn cánh cửa hình vuông trên nền nhà. Ở một góc có một ổ khóa, cái thứ mà cô đã vô tình dẫm vào bao nhiêu lần. Có một lần nó đã làm chân cô chảy máu. Angeline đã từng băn khoăn về cái tầng hầm, nhưng cô quên bẵng nó đi bao năm nay. Chẳng có gì lạ với nó cả: không có những âm thanh lạ hay bất cứ cái gì, nên cô cũng chẳng quan tâm. Khi Angeline mở cửa, cô bắt đầu tưởng tượng về những thứ dưới tầng hầm. Abigail đã dẫn cô đến cái chìa khóa, tại sao? Nó muốn cô biết điều gì? Dưới cái tầng hầm này, rốt cuộc, có gì? Tiếng khóa kêu một tiếng nhỏ và bật mở. Khó khăn lắm cô mới kéo được sợi dây xích sắt dày cộm ra khỏi ổ khóa. Sau bao năm không được sử dụng, lớp gỉ sét đã biến thành thứ keo đặc gắn cánh cửa vào nền nhà, Angeline xoay vặn đủ cách nhưng vẫn không thể mở nó ra. Nó thậm chí chẳng buồn nhúc nhích. Mồ hôi bắt đầu túa ra trên trán Angeline. Cô ngồi xuống sàn nhà, chán nản nhìn cánh cửa. Cảm giác khi đang đứng trước ngay câu trả lời nhưng lại không thể với tới nó như ngọn lửa thiêu đốt bao tử Angeline. Cô nhìn quanh xem có bất cứ thứ gì dùng được không. Nhưng người ta đã dọn dẹp tất cả. Tòa tháp lại lần nữa bị bỏ hoang. – căn phòng ngủ bằng một nửa phòng cô ở lâu đài Quỷ và có độc một ô cửa sổ vỡ ở cuối phòng. Tim cô thắt quặn lại. Cô đã ở đây suốt nhiều năm, và hơi thở quen thuộc của nó làm Angeline chỉ muốn nán lại. Chẳng thể bù cho căn phòng cô đang ở, nó rộng đến trống trải và ma quái. Họ vẫn để lại cái giường. Nó có khung bằng sắt và đã gỉ sét nhiều. Mỗi lần cô cựa quậy, tiếng các khớp nối sẽ cọ vào nhau nghe nhức tai. Những khớp nối của phần khung đều đã lỏng lẻo. Cô xem xét một hồi, sau đó đá mạnh vào mấy thanh xà ngang nối cái khung cuối giường. Nó rung lên nhưng không dịch chuyển mấy. Angeline tiếp tục đá mạnh vào nó, và một lúc sau, thanh xà đã bung ra. Ở đầu khung xà, sắt được cán phẳng và bẹt. Angeline tiếp tục phá khớp nối đầu kia của thanh sắt. Những lớp gỉ khiến nó dính chặt vào chân giường. Cuối cùng, khi cái móc nối chịu bung ra, thanh xà sắt rơi xuống. Âm thanh kim loại va chạm với nền gỗ tạo ra tiếng động khá lớn, đặc biệt khi xung quanh lại yên ắng như vậy. Bụi cuộn lên và một ít gỉ sắt bong ra. Angeline nhấc chân giường lên để lấy thanh xà ra khỏi, rốt cuộc cô cũng có một cái đòn bẩy khá khẩm. Vấn đề còn lại là liệu cô có thể làm gì với nó và cánh cửa kia. Cô quay xuống tầng một. Thình lình cô nhìn thấy Howl, đứng ở giữa căn phòng như thể cậu đã ở đó từ lâu rồi. Sự xuất hiện của cậu ta tặng cho cô một cú đau tim. Howl nhìn Angeline rồi lại nhìn thanh sắt trên tay cô, nhướn mày. “Có gì cô muốn nói với tôi không?” “Anh làm gì ở đây?” “Tôi về thì thấy cô đang đi vào rừng.” Howl nhún vai. “Trông vội vã lắm, tôi nghĩ chỉ có thể đến đây. Cô tưới mấy cây táo à?” Lời nói của anh ta giống một lưỡi dao cạo, xé dọc một đường từ phổi đến bao tử cô, và sự tự ái lẫn tội lỗi thấm đầy cơ thể Angeline. Cô đứng im như tượng một hồi, cố nuốt trôi cái cục giận dữ đó vào như nuốt một cục than. “Không.” Cô lạnh nhạt. “Tôi tìm thấy vài thứ.” Cô đi qua Howl với thanh sắt trên tay, tưởng chừng như rất muốn đâm trả anh ta một nhát. Những ngón tay cô bấu chặt lấy thanh sắt đến trắng bệch. “Được thôi, thứ gì vậy?” “Tôi chưa biết.” Angeline nói rồi im bặt. Cô nhét phần đầu bẹt của thanh sắt xuống kẻ hở giữa cánh cửa và sàn nhà, rồi lấy hết sức mà bẩy nó lên. Cánh cửa có nhúc nhích đôi chút, những lớp gỉ bong nứt ra. Howl bật cười ngặt nghẽo. “Lùi ra nào, tiểu thư.” Angeline cáu kỉnh nhìn cậu. Howl bước đến, giành lấy thanh sắt trong tay cô và bẩy cánh cửa lên. Những đường gân trên tay và cổ cậu hằn lên rõ. Cánh cửa hơi nhúc nhích, có vẻ lỏng hơn. Chỉ khi gương mặt cậu chuyển sang đỏ gay nó mới bật mở. Howl dựng thanh sắt sang một bên. “Tại sao người ta luôn thích làm cửa bằng sắt nhỉ?” Angeline chẳng nói chẳng rằng, cô cúi xuống và lấy tay kéo cánh cửa sập lên. Cái bản lề cửa kêu rin rít rồi kẹt cứng. Cô tức giận đá mạnh vào nó và cái cửa đổ sập xuống bên kia sàn, để lộ một cái lỗ vuông đen trên sàn nhà. Có một cầu thang dẫn xuống dưới. “Làm sao cô mở được khóa cửa vậy?” Howl ngó xuống dưới. “Tôi tìm thấy chìa khóa trong cây đàn của mẹ anh.” Cô nói gọn lỏn. Howl ngạc nhiên. “Trong đàn của mẹ tôi sao? Sao nó lại ở đó.” “Đừng hỏi tôi. Đó là đàn của mẹ anh mà.” Angeline nhìn quanh. May mắn thay, có một khay nến đặt trên lò sưởi người ta vẫn để nguyên. Cô luôn đặt diêm ở trên thành lò sưởi, cạnh que cời lửa. Angeline lấy diêm thắp những cây nến rồi cô cẩn thận bước xuống bậc thang ở tầng hầm. “Cẩn thận đấy.” Howl nói, trong khi cô mò mẫm từng bậc thang gỗ. Giữa những bậc thang có một kẽ hở lớn, những thanh gỗ mà cô dẫm lên vẫn còn chắc chắn nhưng dính đầy bụi và mạng nhện. Cô có cảm giác ma quái rằng sẽ có một bàn tay nào đó thò ta từ khoảng hở giữa các bậc thang và lôi cô vào bóng tối. Gạt bỏ những suy nghĩ đó, Angeline vẫn tiếp tục dò dẫm trên cái cầu thang. Cô nín thở. Hơi bụi ẩm và thứ mùi hôi ngai ngái xộc lên mũi cô. Cây nến không soi sáng được nhiều, và xung quanh cô đều là bóng tối. Angeline từng bị ám ánh bởi bóng tối khi cô mới đến đây. Cô có thể tưởng tượng ra hàng tá thứ ẩn nấp trong bóng tối, dõi theo cô bằng những con mắt ma mị và sẵn sàng vồ chộp lấy cô bất cứ khi nào. “Ổn chứ?” Howl hỏi. “Tôi không sao.” Cuối cùng, bước chân Angeline đã ở trên nền tầng hầm. Cô thả tay mình ra khỏi tay vịn cầu thang và nhìn xung quanh, những nơi mà ngọn nến soi sáng được. “Soi cho tôi, để tôi xuống.” Howl nói, và Angeline vội giơ những cây nến để soi lối cho cậu. “Bụi.” Howl lẩm bẩm chửi thề khi quần áo và cả tay cậu dính đầy bụi. Angeline bước những bước thận trọng trong tầng hầm. Bấy giờ khi mắt đã quen với bóng tối, cả hai có thể quan sát rõ hơn căn phòng. Tầng hầm khá rộng, không hề có đến một cánh cửa nào cả. Nó được xây bằng đá đặc, sàn nhà bằng gỗ dày. Có một hai cây cột dựng giữa phòng, mục nát và đầy mạng nhện. Những con nhện bò ngay trên đầu Angeline, chạy đi và nấp vào bóng tối. Có một chiếc bàn đá dài kê sát vào tường, có lẽ là bằng đá. Một bồn rửa tay với vòi nước hỏng, nước nhỏ lách tách vang lên giữa không gian im lặng. Angeline cầm khay nến soi vào một cái tủ kính mờ ố. Bên trong đầy những chai thủy tinh kỳ lạ, tất cả đều đã được dán nhãn nhưng chữ viết đã mờ đi. Có một vài lọ đựng những thứ giống thảo dược phơi khô, những cái lọ khác lại chứa các dung dịch đặc quánh, đen lại. Angeline rùng mình khi nghĩ đến việc chúng là gì và để làm gì. Howl xem xét một cái vạc đồng trên bàn đá. Ở bên trong nó đầy những vụn xỉn màu đen và bụi. Một con côn trùng gì đó vội vàng chạy ra khi cậu nhìn vào cái vạc. Giữa nền nhà chính giữa tầng hầm, một ký hiệu hình tròn và ngôi sao năm cánh cùng các dòng ký tự kỳ lạ được vẽ. Angeline nhìn Howl. “Tuyệt lắm.” Cậu nói. “Cô sống trên hang ổ của phù thủy mà không biết sao?” Angeline lắc đầu, nhưng có vẻ không làm cậu tin được. “Chắc chắn nó của mẹ tôi.” Cậu nói, nhấc một con dao cùn lên khỏi bàn. “Bà ấy làm phép ở đây.” “Mẹ anh là phù thủy sao?” “Không.” Howl nói, nhưng rồi cậu cân nhắc sửa lại. “Tôi không biết, nhưng có vẻ bà ấy đã học phép phù thủy ở đâu đó. Nếu cô xin tôi lời khuyên, thì tôi khuyên cô nên tránh xa bọn phù thủy ra. Chúng có thể giết những kẻ không thể giết đấy.” Howl nhìn Angeline như thể cậu ta đang nói về cô. Angeline chột dạ, cô quay đi. “Hoặc làm cuộc sống cô khốn khổ. Tùy theo mức độ đắc tội của cô với mụ phù thủy đó đã.” Angeline không nói gì, cô soi nến và ngắm nghía từng thứ. Một cảm giác gai gai chạy dọc suốt sống lưng cô, cô biết có thứ gì đó ở đây mình cần để mắt. Một thứ gì đó mà Abigail muốn cô tìm thấy. Nhưng tại sao con bé biết về cái tầng hầm này? Nó chưa từng đến tòa tháp, Maya thì có. Vậy có thể Maya đã nói cho con bé. Nhưng Angeline không thấy lý do này thỏa đáng lắm, vì cô vẫn không hiểu nổi chiếc chìa khóa có ở đâu ra. “Xem này.” Howl nói. Cậu tìm thấy thứ gì đó trên bàn - một cuốn sách dày và nặng, dính trắng mạng nhện và bụi. Angeline đến gần cậu và chăm chú nhìn cuốn sách. “Cuốn sác Bóng tối của phù thủy.” “Là gì thế?” Cô hỏi. “Mỗi phù thủy đều có một cuốn sách Bóng tối. Họ dùng sách này để ghi chép mọi thứ: những câu thần chú, các loài thảo dược, vân vân. Tóm lại giống một cuốn ghi chép riêng của phù thủy vậy.” Cậu vén lớp mạng nhện dày khỏi cuốn sách. Một con nhện lồm cồm bò ra và vội vãi chạy đi. Howl mở cuốn sách, lật từng trang. Giấy đã ố vàng, mực viết nhòe đi và đầy các lỗ mọt. Angeline đặt khay nến xuống bàn. Tất cả mọi thứ trong cuốn sách đều là viết và vẽ tay. Trong lòng cô nhen lên chút ngưỡng mộ trước những hình vẽ đẹp như in ấy. “Bà ấy khéo tay thật.” Angeline nói. “Ước gì tôi hưởng được chút điều đó.” Cô bật cười. Những ghi chép về ma thuật chỉ tốn một nửa cuốn sách. Có lẽ mẹ Howl không phải là một phù thủy thật sự, bà chỉ làm phép khi cần thiết. Trong sách hầu như chỉ là thông tin về các loài cây, nguyên liệu và một vài câu thần chú không có gì đáng nói. Angeline nhận ra những tờ giấy ghi chép về câu thần chú của cây táo được xé ra từ cuốn sách này. “Xem này.” Howl nói. Phần sau của cuốn sách giống một cuốn nhật ký. Với những nét chữ thưa nghiêng nghiêng và dài, và dẫu mực đã nhòe đi, cả hai vẫn đọc được một vài dòng khi lật qua lại các trang giấy. “Đây là nhật ký của bà ấy.” Howl mím môi. Angeline lén nhìn cậu, thấy trong đôi mắt cậu phảng phất sự bồn chồn. Cô có thể cảm nhận được sự nôn nóng lẫn bất ngờ tỏa ra từ người Howl như một mùi hương đặc trưng. “Có thể chúng ta sẽ biết gì đó về cái chết của bà ấy.” Angeline nói. “Có lẽ là anh sẽ biết.” Cô sửa lại lời mình. “Chúng ta sẽ mang nó đi.” Howl gấp cuốn sách lại. Thậm chí nó còn hơi bám dính xuống chiếc bàn. Khi cậu nhấc cuốn sách lên để lại một ô hình chữ nhật trên bàn không bị dính bụi. Lũ mọt chui ra. Cuốn sách khá nặng. Howl đi trước, và Angeline cầm khay nến theo sau cậu. Cậu không nói thêm một lời nào, và cô băn khoăn không biết cậu ta đang nghĩ gì. Một điều gì đấy vừa thoáng gợn lên trong đôi mắt cậu, Angeline khó mà cắt nghĩa được nó. Cô thổi tắt nến và đóng cánh cửa hầm lại. Khi cô khóa xong cánh cửa rồi trở ra ngoài, cô bắt gặp Howl đang ngồi bên bờ suối với cuốn sách đang mở. Trong giây phút ấy, cô chợt nhận ra một điểm tương đồng giữa mình và Howl. Cả hai đều không còn gia đình. Những mảnh yêu thương, những mảnh hạnh phúc còn sót lại đều nằm lạc trong quá khứ. Cả hai đều cô đơn. Angeline hiểu sự cô đơn này, bởi cô đã trải qua nó mỗi ngày. Mỗi ngày từ khi cô bước chân sang vùng Bóng tối. Cô tự hỏi liệu Howl cũng đang gánh chịu cảm xúc tương tự. Cậu có yêu mẹ không? Cậu có nhớ gương mặt bà không? Giọng nói của bà? Hẳn là cậu không thể. Sự tương đồng ấy làm trái tim Angeline quặn lại như trúng độc. Cô chợt bắt gặp ánh mắt Howl khi cậu ngẩng lên và nhìn mình. Cả hai quay đi trong sự khó xử. Khi hai người trở về lâu đài, không ai nói một lời gì thêm.