CÔ NGƯỜI HẦU TRẺ TRUNG XINH ĐẸP có đôi mắt nâu và nụ cười quyến rũ mời Howl vào trong nhà. Tóc cô ta cắt ngắn, đồng phục của người hầu trong nhà xộc xệch một cách cố ý. Cô ta đưa Howl đi dọc hành lang căn nhà, đôi khi ngoái lại cười tinh quái. Đây là nhà của vị bác sĩ đã khám bệnh cho Moldark, Dommik Barbatos. Nếu đúng như người ta vẫn nói thì ông ta là một bác sĩ giỏi. Những gì Howl nghe được không ít, hầu hết là những lời khen. Tuy nhiên vẫn có vài người nói rằng ông ta là một kẻ hắc dịch và kiêu ngạo. Cậu chưa gặp ông ta lần nào sau khi Quỷ Vương chết, chỉ có thể viết thư qua lại cho ông ta. Căn nhà của ông ta giống một lâu đài thu nhỏ, nhỏ hơn lâu đài Quỷ rất nhiều nhưng vẫn có khá nhiều phòng và khá đẹp nữa. Đồ đạc đều ngăn nắp, sạch sẽ. Các ô cửa kính mắt cáo đóng kín không mở, chỉ có vài cánh cửa chớp mở hé bên trên. Không có các cột đá cổ kính, tường được đẽo gọt, căn nhà được làm có vẻ đơn giản với các mái vòm nhô ra ngoài hiên và những bức tranh khó hiểu treo trên tường. Howl thoáng trông thấy một tủ thảo dược khi đi lên cầu thang. “Lối này, thưa ngài.” Cô hầu gái nói. Cô ta nhìn cậu không dưới hai lần, từ đầu đến chân. Khi đi qua ngưỡng cửa bước vào thư phòng, cậu tặng cho cô ta một cái cười và dường như điều đó đã khích lệ cô ta. Cô ả xinh tươi, trẻ và quyến rũ, lại là một người hầu trong nhà. Chừng ấy đủ để Howl có vài phỏng đoán về gã Dommik Barbatos mình sắp gặp. “Thưa ngài?” Cô ta nói bằng giọng ngọt ngào. Howl nhìn cô ả từ phía sau rồi thầm nghĩ, cũng chẳng tệ lắm nếu có một vài cô hầu gái giống cô ta. Người đàn ông mặc vét sang trọng đứng bên cửa sổ quay lại. Ông ta đeo kính và cầm một cuốn sách đang mở trên tay. Ông ta chừng ngoài bốn mươi – vẻ ngoài thì thế nhưng tuổi thật của Cambion thì chẳng ai đoán chính xác được. Cằm ông ta lún phún bộ râu quai nón đen, mắt dài, xương gò má cao. Đôi gò má cao kiêu hãnh đó là đặc trưng dễ nhận biết nhất của gia tộc ông ta. “Ngài Lucifer đã đến.” “Cô có thể pha trà cho chúng tôi không, Ruby? Như thế thì tốt quá.” Howl nhướn đuôi mày, ngoái theo khi cô ta đi khỏi. Gương mặt cậu khi bình thường luôn giữ vẻ tự mãn như lúc này. Cậu buông một tiếng cười nhẹ: “Ông có con mắt tinh tế đấy chứ, Barbatos?” “Mời ngồi, ngài cứ tự nhiên.” Ông ta lảng đi và đặt cuốn sách xuống bàn. Howl rảo bước quanh chiếc bàn rồi ngồi xuống ghế. Một ô cửa sổ của căn phòng hé mở, đón những ngọn gió bắc se lạnh từ bầu trời quang đãng bên ngoài. Nhìn qua cũng biết ông ta là loại người tỉ mỉ và ngăn nắp, và có lẽ sạch sẽ quá mức nữa. Mọi thứ đều được xếp rất gọn gàng, đến nỗi cuốn sách và cặp kính trên bàn cũng được đặt rất chỉnh chu. “Tôi đã nghe rằng ngài sẽ đến nhưng không nghĩ là sớm đến vậy.” Howl ngả người ra ghế, không hiểu sao thấy không thoải mái lắm: “Lẽ ra tôi không phải đến gặp ông.” Cậu nói. “Nhưng tôi không thích cái cách ông đã viết qua thư. Ông đang che giấu điều gì thế, Barbatos? Có điều gì ông không thể nói qua thư à?” Ông ta đẩy kính, thở dài. Cùng lúc đó, tiếng giày nện trên sàn vang lên lộp cộp và Ruby mang vào một khay trà. Howl nhìn thứ nước màu xanh ngọt rót ra khỏi cốc cùng với vài mẩu lá khô. Mùi trà bốc lên thơm dịu. Cô ả đẩy cho Howl một cốc, nháy mắt với cậu rồi bỏ đi. “Ngài cũng biết mà.” Barbatos nhấc cốc trà của mình lên, đổ vào chút đường. “Có những thứ chỉ có thể nói trực tiếp. Tôi không tin tưởng những lá thư, chúng qua tay rất nhiều người trước khi người cần nhận nhận được.” “Tôi thì cho rằng thư từ là cách liên lạc vô cùng tiện lợi.” Howl nhấp một chút trà, mũi nhăn lại vì nó quá ngọt. “Ông không có rượu à?” “Thảo mộc đấy, thưa ngài.” Ông ta nói. “Vô cùng tốt cho sức khỏe.” Howl nhoẻn cười. “Một chút vang cũng không làm phiền tôi đâu.” Khóe môi Barbatos kéo thành một nụ cười, ông ta lên tiếng gọi Ruby và bảo cô ta pha cà phê. Không phải thứ Howl muốn nhưng vẫn còn hơn loại trà ngọt như đường mía này. “Tôi chỉ có một tủ rượu, nhưng bà vợ của tôi nghiện chúng nên tôi buộc phải khóa lại và giấu chìa đi.” Ông ta giải thích. “Quay về vấn đề chính, thưa ngài, ngài đến đây vì Moldark?” “Rõ ràng rồi. Tôi đoán ông làm lộ chuyện cha tôi bị giết? Đáng buồn quá nhỉ. Hội đồng đang bàn về hình phạt dành cho ông đấy.” “Vậy sao, họ đưa ra những đề nghị gì thế?” Dù đã che giấu nhưng Howl biết ông ta đang lo sợ. Cốc trà của ông ta rung rung trong lòng bàn tay. “Đó là chuyện bí mật. Vài… gợi ý, thế thôi. Ông không có vẻ là người hay buôn chuyện. Ông cũng không phải kẻ tối ngày say lướt khướt.” Howl dừng một lúc. Cậu quan sát thật kỹ từng biểu hiện trên mặt ông ta. “Để tôi đoán. Ông đã nói với một người và dặn kẻ đó phải giữ bí mật, nhưng hắn đã không làm thế, phải không?” Ruby lại trở lại phòng, mang theo ly cà phê của Howl. Cậu liếc nhìn cô ta, rồi liếc nhìn Barbatos. Bỗng dưng, cậu hiểu ra mọi chuyện. Cậu đợi cô ta rời khỏi phòng rồi mới cất giọng cười hả hê: “Vậy đấy, ông bạn. Ông có lắm bí mật ghê đấy! Vợ ông chưa biết gì phải không?” Barbatos mím môi, cặp mắt hoảng hốt. Ông ta đặt chiếc cốc xuống bàn và hơi nhoài người về phía cậu, cặp kính trễ xuống sống mũi: “Làm ơn, thưa ngài. Tôi không cố ý khi nói ra chuyện đó, tôi chỉ lỡ lời.” “Với cô ta.” Howl nhướn mày. “Tôi tự hỏi lúc đó ông và cô ta đang làm gì.” Barbatos nhín bặt, còn Howl chỉ cười. Những câu chuyện kiểu này không phải hiếm gặp, nó mang lại lợi thế khủng khiếp cho Howl. Những ông chồng dối trá và những bà vợ dâm đãng. Họ sẽ chết để bảo vệ bí mật nhỏ của mình. Và cậu sẽ làm việc mà cậu cần làm: mang lợi thế về cho mình. Nhà Lucifer luôn giỏi, luôn luôn giỏi, trong tìm ra nhược điểm của người khác và sử dụng nó. “Tôi không nặng nề lắm về chuyện này đâu, ông bạn, đừng lo lắng thế. Hãy cảm thấy may mắn vì người ta đang dồn sự chú ý về việc tại sao Quỷ Vương lại chết. Ông có manh mối nào không?” Barbatos bồn chồn đứng dậy. “Theo tôi, thưa ngài.” Ông ta nói một cách ngoan ngoãn. Howl nhíu mày nghi ngờ, rồi đứng dậy, cầm theo cốc cà phê. Barbatos dẫn cậu khỏi thư phòng, đi lên cầu thang. Howl nhìn lướt qua một ô cửa sổ xuống sân sau của ngôi nhà và thấy lũ trẻ, tầm ba, bốn đứa, đang nô đùa quanh những bụi cây. “Con ông đấy à?” “Phải.” “Lũ trẻ không biết nói dối đâu, hãy đảm bảo rằng bọn chúng không nhìn thấy gì nhé.” Cậu nói nửa đùa nửa thật, còn ông ta chỉ nín im. Vài phút sau, họ lên tới tầng năm và rẽ vào một căn phòng đầy những tủ thuốc, giấy tờ, có cả một bàn khám và những dụng cụ kỳ lạ. Trên các kệ thuốc, có những chiếc lọ chứa các dung dịch đủ màu, đặc quánh và tởm lợm. Kế đến là đủ loại thảo dược, một tủ sách rồi ba chiếc giá gỗ đặt các chậu cây ngoài ban công hình vòm. Barbatos cẩn thận khóa cửa lại rồi kéo kín rèm cửa. “Ông tàm tôi rối trí đấy.” Howl nói. “Những thứ này là gì vậy?” “Ngài biết đấy, những căn bệnh thông thường thì rất dễ chữa. Một chút phép thuật can thiệp có thể chữa khá nhiều loại bệnh. Tôi có thể chữa bệnh cúm, sởi, nhiễm trùng, vân vân, của con người bằng vài loại thuốc rẻ tiền bằng thảo dược và bùa phép.” Howl không tỏ ra ngạc nhiên. “Tôi không nghĩ ông là loại đi chữa những bệnh như thế.” “Không.” Ông ta nói. “Phức tạp hơn thế nhiều. Tôi không nhận những ca thông thường. Nhưng nếu ai đó bị ma sói cắn, hoặc bị một phù thủy bỏ bùa, tôi có thể làm gì đó đấy.” Howl dựa người vào mép tủ. “Nói cách khác, ông là bác sĩ chuyên về phép thuật. Được thôi. Ông muốn nói gì nào?” Barbatos đi quanh giá sách như tìm kiếm thứ gì. “Vùng Bóng tối đầy những điều huyền bí, thưa ngài. Có những thứ trong lịch sử có tồn tại nhưng bây giờ thì không. Ngài biết những cách nào để giết một Cambion?” Howl nhún vai, nhìn lên trần nhà. Rốt cuộc, ông ta chẳng trả lời cho hẳn hoi. “Tuổi già chăng?” Ông ta quay lại nhìn Howl, lắc đầu, rồi lôi mấy cuốn sách ra nhưng lại cất lại. “Cambion chỉ có một nửa là Quỷ. Chúng ta đâu có bất tử? Chỉ là sống dai hơn và khó chết hơn. Nếu xé tôi ra làm đôi thì tôi cũng chết thôi.” Có vẻ như Barbatos đã tìm ra cuốn sách mình cần. Nó dày và nặng, nằm ở góc trên cùng của giá sách. Cơ mặt giãn ra và ông ta thở phào. “Đã từng có một thời tồn tại những Cambion bất tử. Họ là những Cambion có dòng máu Quỷ tinh khiết và có lẽ là thế hệ đầu. Một vài trong số họ vẫn còn sống đấy.” Barbatos nói, trầm tư. “Nhưng họ khá kín tiếng.” Howl nghĩ là mình đã nghe thấy điều này ở đâu đó nhưng cậu không chắc. Những Cambion thế hệ đầu, trải qua các cuộc chiến và sinh sống ở thời loài Quỷ đang còn bước trên mặt đất. Họ có quyền năng mạnh, gần bằng một con quỷ thật sự lại dễ trà trộn. Nhưng cậu chưa từng gặp một Cambion nào bất tử cả. Howl ngước nhìn lên trần nhà. Cậu băn khoăn nếu mình cũng bất tử giống họ. Bất tử. Ai mà không muốn điều đó chứ? “Cambion đã từng rất mạnh.” Barbatos nói và im lặng một lúc, ông ta nhìn chằm chằm vào mép cuốn sách đến nửa phút, sau đó mới tiếp tục lật tìm các trang sách. Howl biết. Điều này ai cũng biết. Cambion được sinh ra bởi quỷ và con người, dòng máu Quỷ đang thoái hóa dần qua mỗi thế hệ. Tất cả các gia tộc Cambion đều lo lắng về sự thoái hóa ấy. Nó khiến Cambion yếu hơn, nhu nhược hơn, mang tính người hơn. Bằng chứng là hầu như không còn Cambion nào có thể sống bất tử nữa. Giống như một vị vua bị phế ngôi, những đứa con mang dòng máu Quỷ đều phần nào đó nuối tiếc về thời đại trước đây của mình. “Khi đó, chỉ có Nephilim hoặc các Thiên Thần mới có thể giết được một Cambion bất tử.” Barbatos giải thích. “Tuy nhiên, vẫn còn một cách khác.” “Nhưng điều này thì liên quan gì đến cha tôi?” “Ồ, ngài không biết sao?” Ông ta ngạc nhiên, đứng thẳng dậy. “Moldark Lucifer là một Cambion bất tử.” Howl nhăn trán nghi ngờ. Cậu cười khẩy. “Chắc ông đùa.” “Không hề, thưa ngài. Đôi khi dòng máu Quỷ trội hơn bình thường sẽ dẫn đến sự ra đời của một Cambion bất tử.” Howl vò đầu. Cậu chỉ biết vò đầu. Nếu Moldark thật sự là một Cambion bất tử, cái chết của ông ta càng đáng ngở hơn. Cậu tựa đầu vào tủ kính, nhìn Barbatos lật những trang sách. “Cách thứ hai là gì?” “Khi Moldark chết, tôi đã xin được giải phẫu ông ta nhưng không được cho phép.” Ông ta ngước nhìn Howl qua cặp kính như đó là lỗi của cậu. “Dẫu sao, tôi cũng đoán được vài điều. Ngài không phiền nếu lại đây chứ?” Barbatos vuốt phẳng phiu mép sách, hẳn ông ta đã tìm được cái cần tìm. Howl đến gần cái bàn rồi chống một tay xuống. “Gì đây?” “Những câu thần chú.” Barbatos trả lời. “Nghi lễ.” “Ông trữ cả thứ này sao?” “Tôi là người ham hiểu biết.” “Được rồi.” Cậu nói cho qua chuyện. Những trang sách dày đặc chữ, biểu tượng và hình vẽ. Chúng viết bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau mà chỉ một vài trong số đó là Howl biết. Ngón tay Barbatos di trên các dòng chữ: “Ngài thấy đấy, đây là một câu thần chú cổ, đòi hỏi một người có quyền năng lớn. Nó được viết vào lúc cánh cổng Thiên Đàng và Địa Ngục chưa bị đóng, bởi một phù thủy tên Melanie Rita.” “Melanie Rita? Ông chắc chứ?” Howl không khỏi nghi hoặc. Melanie Rita được tôn sùng là một vị Thánh trong giới phù thủy. Ả có vô số tín đồ, những kẻ sử dụng phép thuật hắc ám và nung nấu ý định lật đổ cả Thiên thần lẫn Quỷ. Theo như Howl nhớ, ả không chỉ có quyền năng lớn hơn hết thảy các phù thủy khác, mà còn có cái đầu gian xảo nên mới có thể đưa đội quân của mình tiến xa đến thế. Tuy nhiên, ả đã chết. Ả chết trên một cái cọc. Rita và hàng trăm phù thủy khác bị xử tử và thiêu sống vào cái ngày mà cánh cửa tới Thiên Đàng và Địa Ngục bị đóng. Câu thần chú này là một mảnh sót lại của ả, cùng với vô vàn những nghi thức khác ả đã sáng tạo ra. “Melanie Rita là phù thủy đầu tiên và là người viết ra câu thần chú có thể giết được Quỷ, Thiên thần.” Barbatos giải thích. “Câu thần chú đó cũng có tác dụng lên cả Cambion và Nephilim. Bà ta rất giỏi, tôi phải thừa nhận là thế.” “Được rồi. Ý ông là đây chính là hung khí?” Barbatos chớp chớp mắt. “Tôi khá chắc chắn đấy.” Ông ta cúi xuống, dịch lại cho Howl: “Câu thần chú này đòi hỏi sự công phu và kiên nhẫn.” Ông ta mím môi. “Nó đòi hỏi sự hiến tế.” “Hiến tế ấy à?” “Hiến tế một trinh nữ.” Barbatos nuốt nước bọt. “Cô ta phải đủ mười tám tuổi. Đó là nguyên liệu đầu tiên. Nguyên liệu thứ hai là “hạt giống gieo rắc tội lỗi.” Xin lỗi ngài, tôi không chắc lắm về đoạn này. Dịch ra thì đúng là thế nhưng chẳng có nghĩa gì cả.” Howl kéo ghế ngồi xuống. Cậu chống tay xuống bàn. “Tiếp tục đi.” Barbatos đẩy kính. Những nếp nhăn trên trán ông ta gấp lại, lấm tấm mồ hôi. Cậu đoán không phải ông ta không dịch được cuốn sách, hẳn ông ta đã phải đọc qua rồi. Ông ta căng thẳng có lẽ vì những gì sắp phải nói với cậu. “Nguyên liệu thứ ba là là “Sự tinh túy của sự sống”. Barbatos thở dài. “Tôi không thể hiểu nó có nghĩa gì. Hạt giống phải được nuôi sống bằng sự tinh túy của sự sống. Cuối cùng là máu của Cambion sẽ bị giết.” Howl đưa tay xoa trán. “Lũ phù thủy. Chúng không học được cách viết rõ ràng à?” “Cuối cùng là tụng thần chú.” Barbatos nói thêm. “Hạt giống tội lỗi phải được gieo trên xác của trinh nữ, sau đó tưới bằng máu của Cambion. Tụng thần chú trong mỗi mùa trăng tròn và chăm sóc hạt mầm bằng “sự tinh túy”. Thành quả đầu tiên của hạt giống có thể ngay lập tức giết Cambion.” Barbatos ngồi xuống ghế, gương mặt kiệt quệ, đầm đìa mồ hôi. Trông ông ta như vừa phải lăn một tảng đá lên trên núi rồi lại lăn về. Cả hai ngồi im lặng một lúc lâu. Sự im lặng kết thúc bằng tiếng cười nhạt của Howl. “Có lẽ là cây? Hạt giống thì phải là cây, phải chứ?” “Tôi không chắc bà ta viết theo nghĩa đen.” Ông ta nhún vai. “Nếu là một cái cây thật, nó sẽ là cây gì đây?” “Ông nói thành quả đầu tiên có thể giết Cambion ngay lập tức.” Howl nhăn mày. “Nhưng bằng cách nào? Nó không phải vũ khí thông thường.” “Theo như tôi nghĩ...” Barbatos nói. “Nó là độc. Một thứ gì đó để tẩm độc vào.” “Quả cây.” Howl lẩm bẩm. Cậu nhìn ra cửa sổ, nơi một ô cửa kính vừa rung lên qua trận gió. Sau đó, Howl đứng dậy. Cậu cảm thấy bế tắc hoàn toàn, dù có vẻ chìa khóa câu trả lời đang ngay trước mắt. Cậu còn chưa thể hình dung ra cụ thể thứ hung khí ấy có hình dạng như thế nào. “Viết cho tôi bản dịch của câu thần chú, Barbatos.” Cậu nói. “Rồi gửi cho tôi bản gốc sau. Tôi cần đưa nó ra trước Hội đồng.” “Được, thưa ngài.” Howl chăm chú cúi nhìn cuốn sách trong khi Barbatos ghi lại những điều thiết yếu. Những hình vẽ trong trang giấy không đưa lại nhiều manh mối cho cậu. Cuối cùng, Ruby tiễn cậu ra về. Howl cầm tờ giấy trong tay và đọc đi đọc lại nó. Cậu vẫn hy vọng mình hiểu gì đó. Chúng lặp lại và khó hiểu giống như một đoạn mã vậy. Cậu suýt đâm rầm vào Ruby khi cô ta đột ngột dừng lại, chặn giữa cậu với đoạn cầu thang hẹp trước mặt. Howl nhướn mày. “Ngài có muốn chút rượu trước khi về không? Tôi có chìa khóa cái tủ rượu chết tiệt đó.” Cô ta kéo ra dưới lớp áo mình chiếc chìa khóa đồng. Howl hiểu lời mời đó có nghĩa là gì. Cậu nhoẻn cười rồi ngoái đầu nhìn quanh. “Cô không sợ bị phạt à? Ông chủ của cô dễ dãi nhỉ?” “Ngược là khác.” Cô ta kéo cổ áo Howl. “Tôi thích bị trừng phạt lắm.” Tiếng giày nện trên các bậc thang vang lên. Howl ngó ra sau lưng cô ta thì thấy một người phụ nữ đang đi lên này. “Đủ rồi, Ruby.” Bà ta nói. “Đừng để tôi phải nói lại lần nữa.” Cô hầu tóc đỏ thở sườn sượt một tiếng chán nản rồi bỏ đi xuống cầu thang. Người phụ nữ khoanh tay nhìn cô ta đi khỏi. Bà ta có mái tóc nâu hạt dẻ búi cao, gương mặt đã có tuổi, ánh mắt điềm lặng. Ở tay trái bà ta, một điếu thuốc vẫn đang bốc khói. “Xin lỗi ngài. Mẹ cô ta là điếm nên di truyền cho cô ta.” Bà nói, rít một hơi dài từ điếu thuốc và nhả ra một làn khói. “Vợ của Dommik. Hân hạnh.” Âm sắc trong giọng nói bà ta rất đều. Đôi mắt bà ta phảng phất sự uy quyền. Một người vợ lãnh đạm và thờ ơ, cùng một gã chồng trăng hoa. Howl cười mỉa mai trong dạ, thật là một gia đình ấm áp làm sao. “Tôi cũng thế.” “Ngài có gì đây?” Bà ta giật lấy tờ giấy trong tay Howl, chậm rãi giơ lên đọc. “Ngài và Dommik có vấn đề với lũ ma cà rồng à? Lũ thú vật ấy.” Bà ta hạ âm ở câu cuối cùng. “Tại sao bà nghĩ thế?” Howl hỏi. Chẳng có gì trong tờ giấy liên quan tới sinh vật này cả. Chúng thích máu. Có chăng chỉ có dòng chữ “Máu của Cambion” nhưng cũng chẳng có tính gợi nhắc gì. “Tinh túy của sự sống.” Bà ta kẹp tời giấy giữa hai ngón tay, tay kia rẩy rẩy cho những mẩu thuốc bay đi. “Đó là cách chúng gọi về Máu người. Ngài không biết sao?” Howl lấy lại tờ giấy. Cậu cười mỉm. “Không. Tôi vẫn đang cố lý giải đây. Nhưng tôi phải về rồi. Chúc bà có một ngày vui vẻ.” Người phụ nữ hờ hững quay đầu nhìn Howl bước xuống cầu thang. Được nửa chừng, cậu dừng lại, nói vọng lên với bà ta: “Nếu bà muốn, tôi có thể đưa cô hầu nhỏ bé đến lâu đài Quỷ. Tôi khá thích cô ta còn bà thì có vẻ không.” Người phụ nữ nhếch mép, rít một hơi từ điếu thuốc. Mỗi lời nói của bà ta đều đi kèm với một đám khói nhỏ: “Ông ta sẽ kiếm một con điếm khác thôi. Dẫu sao vẫn cảm ơn tấm lòng của ngài.”