Edit: Zet Chưa đến một tuần, Trần Hải Thiên cứ cảm thấy Trang Tuyết đã ở chỗ này từ lâu lắm rồi. Trừ việc trong phòng có thêm một Trang Tuyết, vì thế Ngày Mưa thể hiện sự bực dọc của nó, còn cuộc sống của hắn vẫn không thay đổi, hơn nữa tình cảm giữa hai người, cẩn thận tính đi tính lại, còn chưa tròn 24h ── Từ chiều chủ nhật cho đến cái hôn đầu tiên, kéo dài đến bữa trưa ngày hôm sau; Rửa xong một đống chén, bọn họ mới tiến vào giai đoạn “sống chung”, bắt đầu mua vé bổ sung dần dần trên đường đời. Họ đều biết, tình cảm là hữu hạn, mà quá trình mua vé bổ sung lại dài đằng đẵng, giống như quá khứ vậy, cho nên sống thế nào để hợp ý nhau mới là vấn đề chính. Thời gian lưu động cũng thật kỳ lạ, không phải vù vù trôi, cũng không nằm im một chỗ, mà là trôi một cách thong thả, giống như gợn sóng dần mở rộng, mùi vị của Trang Tuyết luôn vương vấn trên môi hắn. Bọn họ đã có nhiều thời gian ở chung, cùng ăn, cùng ngủ, nắm tay xuống lầu mở cửa, không cần nói lời tạm biệt vào 9h tối để bắt kịp chuyến xe. Bọn họ thường trao nhau những cái ôm ấp, những cái vuốt ve dịu dàng, nhớ rõ đường cong của đối phương, thưởng thức xúc cảm khi chạm vào da thịt, bọn họ tựa như sữa và cà phê, dưa chua và đậu hủ thúi, hợp thành một thể thật hoàn mỹ, trở thành một phần của nhau, từ nay cho đến về sau, bất luận đi đến đâu cũng có thể nhớ rõ cơ thể đối phương. Chưa vào lâm viên, làm sao biết sắc xuân đẹp đến nhường nào. Trần Hải Thiên thích cuộn mình giống như Ngày Mưa rúc vào lòng Trang Tuyết, để Trang Tuyết chơi đùa với các ngón tay của hắn, thầm thì với Trang Tuyết một ít chuyện vụn vặt, cuộc sống trước hai mươi bảy tuổi, ông ngoại cắt giấy rất tinh mỹ, cuộc sống vui vẻ thời đại học. Hắn thích luồn tay vào mái tóc xoăn tự nhiên của Trang Tuyết, để những sợi tóc ma sát lên da mặt, nghe Trang Tuyết kể về thời thơ ấu và cuộc sống du học, còn kể lúc ba tuổi phải học cách làm dưa chua và chiên đậu phụ thúi truyền kỳ; Bọn họ kể cho nhau nghe về quá khứ, nhưng không nhắc lại khoảng thời gian ở Mộng Cầu Vồng, bởi vì dù không nói ra nhưng đều thấu rõ, nói ra trở thành quá mức dư thừa. Căn cứ vào tình trạng hiện tại mà đặt ra các quy tắc mới. Không tặng những món quà vô dụng, ví như hoa, nếu muốn tặng thì tặng súp lơ, ít nhất còn ăn được. Cùng làm lơ ngày lễ, ví như lễ tình nhân, có đi thì đi đại lễ Phật Đản, ít nhất cũng được phù hộ. Không nấu món gì kỳ lạ, cái này nghiêm khắc nhắm vào Trần Hải Thiên. Không che dấu. Không che dấu không có nghĩa là kể hết mọi chuyện trong quá khứ, mà là sẵn sàng thẳng thắng nói ra, ví như khi nào cần không gian riêng, cảm thấy đối phương nấu ăn quá dở, gặp trai đẹp trên đường khiến nhịp tim lỡ một nhịp, phải nói thẳng ra, bởi vì Trần Hải Thiên không muốn một tình yêu mãnh liệt, mà là kiên định và gắn bó. Trang Tuyết càng thực tế hơn là đưa ra kế hoạch đảm đương chi phí sinh hoạt, bởi vì củi gạo dầu muối tương dấm trà đến tiền mạng và cáp TV, chỗ nào cũng là tiền, tiền là thực tế, nếu bọn họ dự tính phải dây dưa một đời, tốt nhất hiện tại nên nhận ra thực tế. Trang Tuyết còn muốn trả tiền mỗi khi uống đồ trong tiệm, nó là chuyện làm ăn của Trần Hải Thiên, phải cân nhắc kỹ lưỡng, khi là bạn bè thì khoản đó sẽ không rõ ràng, ngược lại bây giờ đã dọn về sống chung, cuối cùng họ tách ra giữa phần bán và phần dùng riêng cho y. Trần Hải Thiên cảm thấy Trang Tuyết tính toán chu đáo như thế rất lãng mạn. Người sinh ra ở thời đại này, thái độ đối với tình cảm đều lệch lạc, nếu muốn lâu dài thì phải dựa vào hai chữ trách nhiệm, nếu sự lệch lạc giống nhau, chỉ cần họ thấy đủ thì người ngoài sẽ thấy họ hạnh phúc, hoặc không cần để ý sự phán xét của ai đó. Cuối tháng chín, tất cả mọi chuyện đều tự chuyển mình về phía trước. Sinh hoạt của Trần Hải Thiên không thay đổi quá nhiều, 2h chiều mở cửa, rang cà phê, bán hạt cà phê, pha cà phê, pha đồ uống, nghe nhạc; Sáu giờ rưỡi ăn tối, hắn xuống bếp làm cơm Tây hoặc Trang Tuyết làm cơm Trung, có khi gọi cơm bên ngoài, 10h30’ tối đóng cửa. Khách đến không đông như trẩy hội, người vào tiệm không là khách quen thì cũng là khách quen, thỉnh thoảng tiếp vài người khách trùng hợp đi ngang qua, lượng khách gia tăng chậm chạp, viết tiểu thuyết, nghe nhạc, soạn báo cáo…… Những người này coi nơi đây là chỗ bí mật, thầm thì trao đổi, cử chỉ thoải mái, không chụp hình trong tiệm, so với đám người hay upload lên mạng thì chín chắn hơn. Hắn dần hiểu ra, cái tiệm này giống như ở hẻm Xéo [trong Harry Potter] vậy, tự có ý nghĩ của riêng nó, tự lựa chọn khách hàng, thế là hắn yên lặng mở tiệm, yên lặng bảo vệ. Sinh hoạt của Trang Tuyết cũng rất cố định, đọc sách, dịch sách, đóng gói cà phê xay nhuyễn, thỉnh thoảng đến Thành Nam học và đưa hàng, cùng Trần Hải Thiên mua vé bổ sung nhân sinh. Phần lớn không gian sinh hoạt là ở lầu một và hai, phòng khách ở lầu ba trở thành phòng sách của Trang Tuyết, dù hai người đã quá thân thiết, nhưng họ cũng cần không gian riêng. Đầu tháng Võ Đại Lang xuất hiện một lần, trông rất hạnh phúc đến mua cà phê, “Tôi không biết Tiểu Thành thích loại nào, cậu rang mỗi thứ một ít cho tôi nhé? Cuối tuần tôi sẽ nấu cà ri gà cho hắn ăn, sẵn đó pha cho hắn uống luôn.” Thế là Trần Hải Thiên chia ra mỗi gói bằng một phần tư, một bên nghe Võ Đại Lang báo cáo chuyến công tác đến Bắc Kinh vô tình gặp Tiểu Thành. “Có mười tám loại, còn có năm loại hạt lộn xộn,” Trần Hải Thiên gói lại đưa hết cho Võ Đại Lang, “Pha hết cho Tiểu Thành uống thử, thích loại nào thì nhờ Trang Tuyết đem đến, cũng khá gần mà.” Tuy rằng hắn thấy Võ Đại Lang vừa mắt, nhưng không nói được cậu ta vừa mắt chỗ nào, có Trang Tuyết làm nhiệm vụ đưa hàng, ngược lại hắn càng thoải mái hơn. Võ Đại Lang đi rồi, hắn xem lịch, chứng thực suy đoán của mình là đúng, căn cứ vào ngày mà Võ Đại Lang nói, ngày đó vừa đúng tết Trung Nguyên [rằm tháng bảy], ngày lành thích hợp phổ độ. Chỉ sợ Võ Đại Lang lấy chính mình làm lễ vật nên mới được phổ độ. Trần Hải Thiên thầm nghĩ rồi bi ai thay Võ Đại Lang ba giây. Mùa thu lẳng lặng kéo đến, cuối cùng Trang Tuyết cũng chờ được lòng đỏ, trước Trung Thu một ngày mẹ hắn về Đài Loan, hắn đứng trong tiệm giới thiệu Trang Tuyết cho bà, mà Trang Tuyết đúng là sát thủ bậc bề trên, ba người nói cười khoái trá, ăn cơm xong, bà nói với Trang Tuyết: “Lần sau cháu cùng Hải Thiên đến Tokyo chơi đi.” Trang Tuyết đã qua một cửa là mẹ hắn, bây giờ cửa cuối của Trang Tuyết là Ngày Mưa vẫn còn thành kiến với y. Trung Thu, hắn đi cùng bà đến Trung Lịch, ôm bánh trung thu lòng đỏ mà ông ngoại làm về, ông cũng muốn nhìn Trang Tuyết và tiệm cà phê, dây leo ngoài phòng vẫn như trước, nhưng bài thơ trên tường đã không còn. Hắn hơi tiếc nuối, nhưng hắn đã có tuyết cho riêng mình, vì vậy chỉ hơi tiếc nuối mà thôi. Khi đang trên đường về Đài Bắc, bà ngồi trên xe lửa hỏi, “Con có nhớ cái sai mà mẹ từng nói không?” “Yêu một người cảm tính.” Trong tay Trần Hải Thiên là một túi bánh to, ngắm phong cảnh ngoài cửa sổ, “Dù ông ta không yêu người khác nhưng cả hai cũng không chống đỡ được bao lâu, bởi vì một ngày nào đó ông ta sẽ hết chịu nổi mẹ.” Lương Mĩ Lị nói rằng hắn dùng lý trí để khống chế vấn đề, nó có thể chở hắn vượt qua đại dương bao la, trong mắt người cảm tính, hắn đối xử với người khác bằng trái tim băng giá, chỉ có loại người giống hắn mới đủ khả năng hiểu được những suy nghĩ hắn không thể nói thành lời. Hắn và Trang Tuyết đều giống nhau, nhưng cũng có mặt tương phản, hắn dùng lý trí phân tích, để cảm tính thực hành, Trang Tuyết để cảm tính phân tích, lý trí thực hành, tựa như những nếp xoáy trên màn thầu, một xoáy tiếp một xoáy, khi họ ở chung sẽ tự sản sinh ra một giai điệu riêng, có khi ung dung như điệu Jazz, có khi thanh thoát dễ chịu như điệu hát dân ca. “Cho nên con phải hiểu tại sao mẹ đành ly hôn.” Bà thở dài. Trần Hải Thiên bất đắc dĩ trừng mắt, “Sao mẹ không nói sớm?” “Có nói con cũng chẳng nghe.” Đối với lý do của bà, Trần Hải Thiên ép mình đồng ý, có rất nhiều chuyện phải tự mình trải qua mới ngộ ra được, tự trải nghiệm, tự hiểu, nếu không đừng nhắc tới, cho nên những câu chuyện giữa hắn và Trang Tuyết thì linh tinh đủ thứ nhưng không nhắc đến kinh nghiệm yêu đương trong quá khứ, bởi vì quá khứ chẳng có chuyện gì lý trí đáng để nhắc tới, dù sao ký ức thì quá nhiều mà bộ não thì có hạn. Lương Mĩ Lị từng lý giải: “Lòng chứa người trước, nhìn về người sau”. Hắn cho rằng, nếu vé đạt đến một số lượng nào đó sẽ thanh thản kể về người cũ, ngày còn dài, hắn không vội. Tháng mười, Ngũ A Ca lấy lý do tình cảm vợ chồng rạn nứt, trốn từ đại lục về ly hôn với Lương Mĩ Lị, hình như cấp trên đã áy náy, bởi vậy cử Ngũ A Ca đến một nơi ngợp trong vàng son như Thượng Hải công tác nửa năm, chuyện này khiến Ngũ A Ca và A Minh đều hưng phấn, A Minh định mở chi nhánh ở Thượng Hải, cho nên cách hai tuần sẽ đến Thượng Hải khảo sát một phen, hai người lại được như hình với bóng. “Hình như tấm bình phong dị tính rất dễ lừa người khác, khó trách thế giới bị bọn họ qua mặt.” Hắn nhìn ba đứa bạn mà kết luận. Cuối năm, cuộc sống của Lương Mĩ Lị có sự thay đổi lớn, Lương Mĩ Lị nói rằng, giống như bộ phim Shomuni của Nhật. [Nội dung phim xoay quanh những nữ nhân viên của phòng tổng vụ 2 (gọi là Shomuni hoặc GA-2) thuộc công ty đa quốc gia Manpan. GA-2 được gọi là nghĩa địa của các nữ nhân viên văn phòng, đơn giản vì đây là nơi các nữ nhân viên kém cỏi bị đá sang. Họ phải làm những công việc như thay giấy vệ sinh, thay bóng đèn, tổ chức các buổi đi chơi cho công ty và vô số những công việc tạp vụ khác. Đã vậy văn phòng của họ còn nằm ở một nơi hẻo lánh trong công ty – tầng hầm, và thực chất đó là căn phòng chuyên chứa đồ bỏ hoang] “Trong phim có một cô bé biết nói tiếng Ả Rập, giúp phiên dịch trong thang máy, bởi vậy được đại gia dầu mỏ yêu thích……” Lương Mĩ Lị kể cả tình tiết trong phim xong, “Cho nên từ ngày mai tớ sẽ chuyển công tác, tiến vào thương trường, bay qua bay lại giữa Mỹ và Nga, mặc dù có thử việc, nhưng bà đây không thèm sợ.” Tóm lại, có một lần Lương Mĩ Lị đi thang máy đến câu lạc bộ bí mật, trong thang máy có một thương nhân người Đài nói chuyện với thương nhân người Nga và Mỹ, có một phiên dịch viên, thế là Lương Mĩ Lị nhịn không được ra tay, dùng lưu loát ba thứ ngôn ngữ chấn nhiếp toàn thang máy, thương nhân người Đài xin cách liên lạc với Lương Mĩ Lị, ngày hôm sau người đó gọi đến, nói rằng xem trọng tính cách và tài năng của cô, muốn mời cô làm phiên dịch viên đặc biệt, nếu qua được ba tháng thử việc sẽ kí hợp đồng lâu dài. “Cậu không sợ ông sếp đó có ý đồ?” “Trần Tiểu Vạn,” Lương Mĩ Lị nheo mắt nhìn hắn, cười như không cười nói, “Tớ chỉ nói thương nhân là người Đài, chứ không nói người ta là đàn ông, cậu là cái đồ cứng nhắc, chẳng khác mấy thứ vô dụng được quảng cáo trên TV, giờ tớ mới nhận ra cậu yêu đương đến mục não luôn rồi.” “Tớ sai rồi, tớ xin tự kiểm điểm.” Hắn nói rất nhanh, tư tưởng cứng nhắc là tối kỵ đối với Lương Mĩ Lị, hắn đã bị dẫm cho ra bả, “Vậy phiên dịch viên cũ thì sao?” “Ai để ý đến hắn chứ, cái loại trình độ Nga Văn cấp ba cũng dám đứng ra phiên dịch, ra ngoài lăn lộn sẽ bị người ta dẫm đạp.” Lương Mĩ Lị khinh thường hừ hai tiếng, còn cố tình than thở, “Haiz, dù sao cậu và Tiểu Tuyết Nhi đã ổn định, sau này chỉ còn mình tớ diễn, không bằng sớm rời sân khấu.” Tiểu Tuyết Nhi. Trần Hải Thiên nhịn không được xoa xoa thái dương, từ khi Lương Mĩ Lị biết hắn và Trang Tuyết sống chung thì dùng cái tên buồn nôn này để gọi Trang Tuyết, Trang Tuyết cũng chấp nhận vô cùng tự nhiên. Toàn thế giới chỉ có mình hắn là không biết nên gọi Trang Tuyết bằng gì. Ngay từ đầu đã không thể quyết định, sống chung rồi hắn càng do dự, bởi vì thấy tướng số có nói, cái tên giống như một câu thần chú vậy, cho nên hắn phải nghĩ ra một cái tên cho Trang Tuyết, lúc Trang Tuyết nghe hắn gọi thì sẽ đứng im, linh hồn sẽ bay ra xung quanh tìm kiếm nơi phát ra tiếng gọi, nếu có tên, hắn sẽ có được Trang Tuyết. Cho nên tâm tư của hắn đang rối như tơ vò, suy nghĩ không ngừng. “Dùng tâm tư rối bời của ‘thiếu nữ’ ấy, cố mà suy nghĩ.” Lương Mĩ Lị cẩn thận nhấn mạnh.