Thanh Cung Mười Ba Triều

Chương 172 : Cách Mạng Dân Chủ Trung Hoa

Lại nói nhà Thanh trải qua loạn Quyền phỉ, rồi Bát quốc Liên quân dày xéo Bắc Kinh, thêm vào đấy những bồi khoản về chiến phí, từ đó về sau xem ra nhụt hẳn nhuệ khí, mất hãn bộ mặt kiêu bạc như trước. Nhưng ở đời, phần nhiều cứ đến hồi đốn mạt, thì việc trước chưa qua, việc sau đã tiếp. Thực tế, những miền như Hà Nam, Quảng Đông, các đảng cách mạng đang nổi lên như nấm chống lại nhà Thanh. Những đảng cách mạng đó có từ đâu vậy? Ngay từ khi Khang Hữu Vy và Lương Khải Siêu cùng vua Thanh thi hành tân chính thì những đảng này đã được phát động rồi. Tại Quảng Đông, hồi đó có một tổ chức gọi là Hưng Trung hội, vị thủ lĩnh tên là Tôn Văn, tự là Dật Tiên. Văn người huyện Hương Sơn, tỉnh Quảng Đông, tất nghiệp trường Trung Tây Y học hiệu. Văn cũng đã từng là giáo sĩ đạo Thiên Chúa. Như thế Văn vừa là y sĩ vừa là giáo sĩ. Về sau, Văn chuyên dùng nghề thuốc Tây chữa bệnh, đến đâu Văn cũng tuyên truyền cách mạng. Người tin theo Văn hồi đó đông lắm. Ấy cũng vì vậy nên triều đình nhà Thanh mới được mật báo, và từ đó theo dõi hành động của Văn. Tổ chức thành Trung Hưng hội, Tôn Văn thấy hội viên của hội mình càng ngày càng đông. Bọn mật thám nhà Thanh ở Quảng Đông cũng được lệnh theo dõi Văn, và cuối cùng bắt Văn, bảo Văn kết hội lập đảng, giải tới nha môn của Tổng đốc Lưỡng Quảng. Tổng đốc Lưỡng Quảng lúc đó là Lý Hông Chương. Chương thấy Văn ăn nói hoạt bát, biện luận khéo léo, nhìn người lại ra vẻ phẩm cách xuất chứng, tự nhiên phát sinh lòng mến. Chương tự nghĩ một nhân tài như vậy, Trung Quốc đâu phải dễ có, hơn nữa bảo rằng Văn mưu phản chống lại triều đình thì chứng cứ chẳng có để kết tội. Thế là Chương thừa lúc công chuyện chưa đâu vào đâu liền phóng thích để Văn chạy thẳng một mạch, mất hút. Sau khi thoát ngục, Tôn Văn tuyên truyền cách mạng càng hăng. Thêm một chuyện nữa là Lý Hồng Chương chẳng bao lâu lại được lệnh điều động về kinh để đứng ra nghị hoà với nước Đức, viên Tổng đốc kế nhiệm là Đàm Chung Lân. Nhân thấy Tổng đốc mới đáo nhiệm chưa am tường mọi việc, Tôn Văn bèn mưu việc khởi sự với bọn Trịnh Bật Thần, Lục Hạo Đông, Hoàng Bân Lệ, Chu Hạo Thanh, tính cướp chính quyền tỉnh Quảng Đông trước. Văn lại đánh điện cho bọn Đường Tài Thường ở Hồ Nam đợi tới giờ quyết định thì hưởng ứng. Nhưng không ngờ chuyện bại lộ, Tổng đốc Lưỡng Quảng Đàm Chung Lân biết được mưu cơ của bọn Văn, đặt kế hoạch bắt trọn ổ bọn Lục Hạo Đông, đem ra pháp trường chém đầu ngay tức khắc. Chuyện hỏng rồi, Tôn Văn hết thế đứng ở đây, nên chỉ còn cách tìm đường chạy sang Nhật Bản, nếu không thì rồi cũng bị thanh trừng như Lục Hạo Đông. Đảng cách mạng đâu có chịu thua, đảng viên của Trung Hưng hội là Sử Kiên Như lập tức xách một trái tạc đạn ném vào giữa nha thự của Tổng đốc Lưỡng Quảng để báo thù và gây tiếng vang. Thực thế, tiếng vang cách mạng sau trái tạc đạn này càng ngày càng lan rộng đến khủng khiếp trong nội địa Trung Hoa, khiến nhưng người yêu nước lâu nay trùm chăn đều thức tỉnh. Triều đình nhà Thanh lúc này đã biết rõ Tôn Văn là thủ lĩnh đảng cách mạng. Bởi thế, chuyện ném tạc đạn của Sử Kiên Như đều bị bọn vua nhà Thanh đổ lên đầu Văn. Biết Văn đã trốn ra hải ngoại, Thanh triều tức tốc đánh công điện cho công sứ Trung Quốc tại các nước ngoài, lưu ý lùng bắt. Văn trốn sang Nhật Bản, Thanh triều biết được, liền chiếu hội Nhật Bản bắt giùm. Nhưng may cho Văn là khi ở Hoành Tân, Văn có quen một người Nhật tên là Cung Kỳ Dần Tàng, được ông này cho biết nếu không sớm chạy thì thế nào cũng bị bắt, chi bằng chạy sang Anh Quốc là hơn. Tôn Văn hoảng hốt tính cách chuồn khỏi Nhật Bản, nhưng khổ là tiền nong không có một đồng một cắc. Trong tình cảnh này, Văn nhận thấy có hoạt động cũng chẳng được, hơn nữa còn nguy đến tính mạng. Cung Kỳ Dần Tàng bèn giúp cho Văn mấy trăm bạc làm lộ phí để Văn lên đường sang Tây phương. Tôn Văn miễn cưỡng ra đi, lên tàu thuỷ vượt Thái Bình Dương, thẳng nẻo Anh Quốc tiến phát. Ít lâu sau, Văn đã có mặt tại Luân Đôn, thủ đô sầm uất của Anh Quốc. Văn vội vàng tìm tới nhà y sĩ Kinh Lập Đức, nói rõ cho Đức biết lý do lưu vong của mình. Tôn Văn và Kinh Lập Đức là hai bạn cũ quen nhau từ trước. Thấy tình cảnh Văn như vậy Đức liền dặn Văn phải cẩn thận: - Thanh triều gửi điện đi khắp nơi truy nã ngươi rất gắt. Hiện nay, tại Anh Quốc, cũng có Trung Quốc sứ quán. Có thể bọn công sứ Trung Quốc tại đây đã nhận được lệnh của Thanh triều. Bởi thê, hễ khi nào ngươi muốn đi ra ngoài phố, nên báo cho ta biết một lời để ta sai người theo hộ vệ cho. Tôn Văn gật đầu đồng ý, để tỏ lòng chiều theo ý kiến của Kinh Lập Đức đó thôi, chứ thực bụng Văn vẫn nghĩ rằng đâu có chuyện động trời đó. Văn cho rằng mình đã chạy ra hải ngoại, nhất là mãi Anh Quốc xa xôi này, dù Thanh triều có tìm cách truy lùng gắt gao đến đâu chăng nữa cũng chẳng thể biết được mà bắt. Lý luận kiểu đó, Tôn Văn bất cần những lời khuyên của Đức, đi ra ngoài, chẳng thèm báo cho Đức, cứ ngang nhiên xông xáo khắp nơi. Đã thế, Văn còn hay lảng vảng vào những nơi lưu trú học sinh Trung Quốc ở Anh, chẳng coi bọn công sứ Trung Quốc ra gì cả. Thế rồi bỗng một hôm, có một người đồng hương tỉnh Quảng Đông tới mời Văn đi chơi. Văn chẳng nghi ngờ gì, liền đóng bộ vào đi ngay. Người đồng hương nọ dẫn Văn đi loanh quanh mấy phố, đến một toà nhà, mời Văn bước lên lầu. Khi lên tới trên lầu, quay lại nhìn không thấy người đồng hương nọ đâu, lúc đó Văn chột dạ đâm nghi. Văn vội đẩy cánh cửa sổ bên hông lầu, nhìn xuống dưới, bất giác hoảng hồn bạt vía, tóc gáy tự dưng dựng ngược cả lên. Thì ra Tôn Văn nhìn thấy một cây Long kỳ (cờ có thêu con rồng biểu hiện cho Trung Quốc) đột nhiên kéo cao trên ngọn cột cờ, tung bay phấp phới trước gió. Văn vội quay vào trong, lớn tiếng gọi mấy tiếng; tức thì phía trong có một người đầy tớ chạy ra, trạc tuổi trung niên, vừa cười vừa hỏi chuyện gì Tôn Văn cất tiếng hỏi: - Đây là nơi nào? Tại sao mời ta đến, lại giam cầm ta nơi đây như vậy? Người đầy tớ nọ mỉm cười nói: - Ngài tới đây đã một lúc rồi mà vẫn chưa biết gì sao? Nơi đây chính là tư gia của Củng công sứ Trung Quốc đấy. Sở dĩ có chuyện mời ngài tới đây là vì hoàng đế nhà Thanh muốn tìm ngài về nước để làm quan. Điện văn gửi tới tri chiếu cho ngài công sứ hiện có đây. Nghe tên đầy tớ nói xong, Tôn Văn biết mình đã tự đưa cổ vào thòng lọng, tra chân vào cùm rồi, có lắp cánh vào lúc này cũng khó mà thoát nổi. Văn mặt tái xanh đi, bụng rối như tơ vò, suy đi nghĩ lại mãi mà vẫn không tìm ra một kế nào thoát thân. Văn nghĩ rằng chỉ còn có mỗi một cách gửi thư cho Kinh Lập Đức để nhờ Đức lập kế cứu mình, nhưng ai đem thư đi mới được chứ? Nghĩ quanh tính quẩn mãi một lúc, Văn đành quay về với anh chàng đầy tớ cất tiếng nói khó: - Đã vào đây rồi, ta cũng chẳng tính đến chuyện ra làm gì Song ta có một người bạn, rất cần cho y biết tin ta. Vậy ngươi có vui lòng đi giúp ta đưa một bức thư không? Lúc đầu, anh chàng đầy tớ nọ không chịu đi, nhưng sau nhiều lời ngon ngọt khéo léo của Văn, anh chàng nọ mới gật đầu ưng thuận, Văn được lời mừng quýnh lấy bút giấy viết vội mấy câu đưa cho anh đầy tớ nọ dặn đưa tới cho Kinh Lập Đức. Tay cầm bức thư đưa cho anh chàng nọ, nhưng bụng vẫn sợ nửa đường hắn thay lòng đổi dạ, Văn bèn đem cái thuyết cứu người của Gia tô giáo ra thuyết cho anh chàng đầy tớ người Gia tô nọ nghe, mãi một lúc mới yên tâm để cho anh nọ ra đi. Thực ra, Tôn Văn muốn làm yên lòng anh chàng đầy tớ nọ không phải chỉ có cái thuyết cứu người lúc cấp nạn của Gia tô giáo mà được. Văn còn phải cam kết một câu thật chắc, "Ngươi cứ can đảm mà đi. Nếu có xảy ra chuyện gì, ta sẽ nhờ người Anh can thiệp, khỏi phải lo tí nào". Anh chàng đầy tớ nọ nghe được lời nói quyết này, lại thấy Văn không phải là một kẻ tầm thường, trong lòng cũng thấy tin tưởng sẽ không xảy ra việc gì liên luỵ đến y, bởi thế mới hăng hái ra đi cho Văn. Anh chàng giấu bức thư nguệch ngoạc mấy dòng của Văn vào trong túi áo rồi te te lên đường tới gặp y sĩ Kinh Lập Đức. Đức mở thư ra xem, hiểu rõ sự thật, giật mình hậm hực nói: - Chết rồi! Mình đã dặn hắn rồi mà hắn văn không nghe. Thế là hắn đã tự đút cổ vào thòng lọng. Kinh Lập Đức một mặt cho anh chàng đầy tớ nọ ra về, mặt khác chạy tới xúi anh chàng ký giả một tờ báo Anh đăng tải và chỉ trích tùm lum việc viên đại sứ Trung quốc ngang nhiên bắt người giữa nước Anh, không coi chính quyền Anh ra cái quái gì cả. Chính phủ Anh được tin này, đời nào chịu bỏ qua, để cho người Tàu ngang tàng coi khinh luật pháp của nước mình. vội thảo ngay công văn chiếu hội sang cho sứ quán Trung Quốc, nói trắng rằng sứ quán Trung Quốc bắt người giữa nước Anh như thế làm tốn thương pháp quyền của nước Anh. Đã thế, chính phủ Anh còn giải thích thêm về Quốc tế công pháp và quyết rằng không một nước nào hiểu luật pháp mà lại đi làm việc vô luật pháp như vậy… Sứ quán Trung Quốc thấy ngoại nhân đã can thiệp vào nội vụ, tự nhiên đâm ra ngán, chẳng dại gì mà trái luật, chỉ có nước thả Tôn Văn rồi ra nghiêng mình trước chính phủ Anh mà phân trần với những lời lẽ hết sức khiêm nhường lễ độ. Thế là công việc xong. Tôn Văn thoát được một tai nạn chết người. Văn thoát thân rồi, tự lấy làm hối không theo lời bạn mình, mặt khác cũng không còn gan mật nào ở lại Anh Quốc. Ngay đêm hôm đó, Văn vội vàng cuốn gói khỏi nước Anh, lại quay về Nhật Bản, tìm một số đồng chí kỳ cựu hiện lấn trốn tại đây để bàn mưu tính kế hoạt động cách mạng. Trong khi Tôn Văn thất bại bỏ trốn khỏi Trung Quốc, nhưng vẫn đeo theo sự nghiệp cách mạng, thì ở Quảng Đông, hội viên Dương Thiếu Bạch cùng một số đồng chí khác cũng nhất định không rời bỏ cái sự nghiệp của mình. Nhưng họ án binh bất động để chờ thời. Đám cách mạng Quảng Đông thì chờ thời, nhưng những người ở Hồ Nam là nhóm Lý Tiếp Hoà, lại không chịu ngồi im. Họ cứ hoạt động, gây rất nhiều tổn thất cho Mãn Thanh, khiến tuần phủ Hồ Nam phải sai mật thám giăng lượn khắp nơi để lùng bắt. Lý Tiếp Hoà thấy cơ nguy sắp tới, biết không tiếp tục hoạt động được nữa, vội chạy sang Mỹ. Tôn Văn ở Nhật Bản được tin Trung Hưng hội của mình vẫn không bị tiêu diệt, bèn in một số lớn truyền đơn gửi về nước, tuyên truyền cách mạng, chiêu dụ thêm những thanh niên ưu tú vào hội. Tin tức này truyền tới Bắc Kinh, bọn ngự sử người Mãn bèn dâng sớ tâu thái hậu, trong bản sớ có kèm theo cả tờ truyền đơn của Tôn Văn. Tây thái hậu đọc một lượt bản sớ tâu lên, nhận thấy tờ truyền đơn của Tôn Văn, câu nào câu nấy đều nói về chính trị của nhà Thanh: nào là nội chính hủ bại, nào là dành riêng đại quyền cho người Mãn, nào là coi người Hán như nô lệ v.v… Những lời trình bày bên trong thật vô cùng thống thiết lâm ly. Hơn nữa tơ truyền đơn còn nêu rõ hết những tệ đoan, đập trúng vào tâm khảm của Tây thái hậu. Tây thái hậu xem xong, suy nghĩ một chập, bất giác cả cười bảo bọn đại thần: - Tên này hoạt động cách mạng lâu nay nhiều kẻ đã bị hắn mê hoặc tưởng chẳng phải là kẻ không tài. Đáng tiếc là hắn không chịu quy chính. Rồi đây mọi việc ngửa nghiêng cũng không ngoài con người này. Lời nói này của Tây thái hậu tuy nhẹ nhàng, kín đáo nhưng xem ra cũng rất hợp với ý kiến chung của đám đại thần, ngự sử. Và cả bọn cũng đều coi đó như một ý chỉ của Thái hậu muốn đem ra thi hành. Thế là qua ngày hôm sau, cả bọn dâng ngay lên Tay thái hậu một tờ sớ xin cho chiêu dụ Tôn Văn trở về với triều đình. Tây thái hậu đọc xong tờ sớ, không nói gì nhưng miệng lại cười ruồi làm cho bọn đại thần ngơ ngác không hiểu ra sao cả! Thời giờ thấm thoát thoi đưa, chẳng mấy chốc mà cuộc đời đã tàn tạ. Thực thế, Vinh Lộc, viên đại thần cháu ngoại cưng nhất của Tây thái hậu đã chết. Bà được tin, triệu tập bọn đại thần lại để tìm cho Lộc một cái thuỵ hiệu, cả bọn nghĩ mãi mới ra được bốn chữ: "Khác cương chính trung" rồi trình lên. Tây thái hậu bèn cầm ngay châu bút khoanh tròn lấy chữ "Trung" ở dưới chót, do đó, thuỵ hiệu của Lộc là hai chữ "Văn Trung"… Sau cái chết của Vinh Lộc, người ta lại thấy các chức vụ trong triều thay đổi suốt lượt. Lưỡng Hổ tổng đốc Trương Chi Động được điều về làm Thự Quân cơ đại thần, Na Đồng là Hiệp biện đại học sĩ. Ngoài ra, còn xuống chiếu cấm tục bó chân, thực hành việc thông hôn giữa hai dân tộc Mãn Hán (trai gái Mãn và Hán đều được phép lấy nhau). Trong triều đình tuy có những cuộc tranh cãi như vậy, nhưng bên ngoài, bảy tỉnh an duy, bỗng sinh ra cuộc binh biến. Hùng Thành Cơ hiệu triệu Dân đảng gây phong trào, dựng cờ khởi nghĩa, nhưng cuối cùng bị tiêu diệt. Binh biến vừa êm thì cuộc cách mạng phát sinh vào trung tuần tháng năm năm đó, đạo viên hậu bổ là Từ Tích Lân phát động phong trào cách mạng. Lân vốn là một học sinh tại Nhật Bản, tuổi chưa đầy ba chục, nhưng thường ôm chí lớn, tư tưởng lúc nào cũng đầy ắp lý thuyết cách mạng dân tộc. Thấy triều đình Mãn Thanh thối nát, bọn Tây phương bên ngoài xâm lăng, láo lếu khinh miệt dòng tộc Hán, Lân quyết chí xô đổ triều đình Mãn Thanh để tổ chức thành một quốc gia theo thể chế Cộng hoà. Có chủ trương như vậy, Lân kết giao một số các đồng chí khi còn ở Trường Kỳ (một hòn đảo lớn tại Nhật) sau đó quay về Trung Quốc tuyên truyền cách mạng. Triều đình Mãn Thanh nhận thấy cách mạng hoạt động thường nổ ra đó đây gây nhiều vụ náo loạn, bèn ra lệnh truy nã các đảng viên cách mạng gắt gao. Từ Tích Lân thấy mình là một anh lưu học sinh, nhất cử nhất động đều bị bọn quan lại địa phương theo dõi, tự biết mình rơi vào thế bất lực trong việc hoạch định kế sách. Bởi thế Lân nhận ra rằng phi nhảy vào trong chính giới quyết không thể hoạt động gì được. Hơn nữa, lúc này Lân hai tay trắng thì thử hỏi làm ăn gì được. Giữa lúc tiến thoái lưỡng nạn ấy, Lân may thay gặp được một nữ hiệp tên gọi Thu Cẩn. Thu Cẩn và Tích Lân vừa giao đàm, tức thì hợp ý tâm đầu ngay. Thế là Thu Cẩn bỏ tiền ra giúp Tích Lân hoạt động. Thu Cẩn vốn là một người đẹp nổi tiếng đương thời, lại là con gái trong một gia đình khá giả, đã từng tốt nghiệp tại đại học đường. Sau khi tốt nghiệp, nàng còn đi du lịch khắp Anh, Mỹ, Nhật Bản. Vừa có tài năng vừa có tư tưởng cách mạng, nàng được rất nhiều người tôn trọng. Cũng nhờ có ưu điểm này nàng thường giao du với bọn quan trường hiện đại, đấy chính là một con đường rất thuận lợi, khả dĩ giúp Từ Tích Lân hoạt động được. Sau khi hai người đã tính toán trù liệu, Từ Tích Lân bèn mua lấy một chức đạo viên, để tiện việc hoạt động chính trị cách mạng, còn Thu Cẩn thì trở về quê nàng tức Thiệu Hưng, để tổ chức một trường học gọi là Đại thông học đường, mong quảng bá được tư tưởng cách mạng của mình. Từ Tích Lân từ khi quyên được chức vị đạo viên, liền dốc hết tâm, mưu sự trong giới quan trường. Lân xoay sở nhập vào được cửa của viên quan phủ đài An Thuỷ tên là Ân Minh. Chỉ cần thảo luận có một hôm thôi, Lân đã được Ân Minh công nhận là một nhân tài của đất nước. Thế là Lân được trọng dụng. Ít lâu sau, Lân được Ân Minh cho bổ sung vào chức vị uỷ viên luyện quân. Cái mộng của Lân là làm sao nắm được binh quyền vì phải có binh quyền thì mới cách mạng được. Nay Lân đã có đủ thứ cần thiết trong tay, chỉ còn dần dần tìm cơ hội thuận lợi cho công cuộc nổi dậy của mình mà thôi. Một mặt luyện binh, Lân một mặt ước hội với các đồng chí ở Thiên Tân để thừa cơ khởi sự. Ở Thiệu Hưng, Thu Cẩn cũng tích cực chuẩn bị để hưởng ứng phong trào. Không ngờ trời chẳng chiều người. Số là trước ngày khởi sự một hôm, một đảng viên tại Thiên Tân để cơ sự bại lộ, khiến bị bắt. Tin tức này tuy xảy ra, nhưng bị bịt kín, khiến Từ Tích Lân cũng chẳng hay biết một tí gì. Cho nên đúng ngày phủ đài An Thuỷ Ân Minh duyệt binh, Lân đã mật ước với đồng chí thừa dịp ám sát xong rồi khởi sự luôn. Giữa lúc gieo neo nhất của sự kiện, tin tức bỗng đồn rầm lên là tại An Huy có cách mạng khởi nghĩa, bọn đồng đảng bị bắt tại Thiên Tân rồi. Viên tri phủ được tin ấy, vội hạ lệnh lùng bắt Từ Tích Lân, trong khi Từ Tích Lân lại đang đi tới gặp phủ đài Ân Minh. Từ Tích Lân nghe tin đồn xôn xao phía ngoài dinh, cũng như phủ đài Ân Minh, cả hai đều không hiểu đấu đuôi ra sao. Viên phủ đài vội hỏi tin tức bên ngoài. Từ Tích Lân lúc này biết cơ mưu đã bại lộ, chĩa ngay súng vào Ân Minh nã luôn hai phát, nhưng Ân Minh chưa chết ngay miệng vẫn còn hô lên được mấy tiếng: - Bắt thích khách! Bắt thích khách! Được báo động và nhất là nghe mấy tiếng "Bắt thích khách!" các quan văn võ trong nha môn nhất tề ùa ra và cổng phủ được đóng kín lại. Từ Tích Lân dù có cánh cũng khó lòng bay thoát được. Thế là chi trong mấy phút, Lân đã bị bắt. Bọn nha lại hè nhau kéo đi bắt tiếp bọn học sinh quân. Đáng thương thay cho bọn này, ít không thể địch được nhiều, đến gần một nửa bị chết dưới làn đạn của quan binh. Diệt xong đám học sinh quân, bọn nha phủ đem Từ Tích Lân ra thẩm vấn, Lân chẳng thèm chối cãi, nhận tất cả. Một vài kẻ còn đề nghị đem Lân ra mổ bụng lấy gan phổi để tế Ân Minh nữa. Chưa hết, còn có kẻ lục lọi hết những thư từ giấy má của Lân để tra xét; lúc đó, lại lòi thêm ra cái điện văn ước kỳ cử sự gởi cho Thu Cẩn. Tức tốc, họ đánh điện ngay cho viên tri phủ Thiệu Hưng, hạ lệnh bí mật lùng bắt Thu Cẩn, đem chính pháp để thị chúng. Lại nói Thu Cẩn ở Thiệu Hưng mỏi mắt trông chờ hành động của An Huy, nhưng chẳng thấy tin tức gì. Giữa lúc nghi ngờ lo lắng ấy, Thu Cẩn bỗng nghe đồn. An Huy cách mạng bị thất bại. Tin đồn mỗi lúc một nhiều, nàng biết việc không thành rồi, tính tìm cách chạy trốn. Nhưng chưa kịp thoát ra ngoài thì bọn quan binh An Huy đã kéo đến vây khắp Đại thông học đường. Thấy không có cách nào trốn thoát Thu Cẩn đành thúc thủ chịu trói. Điểm đặc biệt là tuy bị bắt, Thu Cẩn vẫn thản nhiên như không, chẳng có chút nào sợ hãi. Sở dĩ có thái độ thản nhiên đó, chỉ là do nàng tin tưởng ở viên tri phủ Thiệu Hưng vốn là nghĩa phụ của nàng. Nàng tin rằng thế nào rồi đây nàng cũng sẽ được nghĩa phụ nàng tìm cách cứu thoát. Nhưng Thu Cẩn đâu có ngờ được rằng thế lợi thường làm mờ hết tình người. Viên tri phủ Thiệu Hưng vỗ bàn đánh thình một cái, quát lớn: - Thu Cẩn! Mi kết bè kết đảng, móc nối với bọn phản loạn như thế nào, khai thực hết ra đây, để bản phủ khỏi phải dùng hình. Thu Cẩn đột nhiên thấy viên tri phủ trở mặt, bèn lớn tiếng kêu lên: - Nghĩa phụ! Nghĩa phụ mà cũng ném đá xuống giếng nữa sao? Viên tri phủ thấy Thu Cẩn nói vậy cũng giật mình, sợ mình liên luỵ vào nội vụ, liền lấy tay áo che mặt, miễn cưỡng nói: - Tội mi đã rõ ràng, đừng che chống nữa! Nói đoạn, viên tri phủ liền hét lớn, sai quân thẳng tay một hơi đánh bốn mươi roi song, máu bắn ra đầm đìa, xong rồi tống giam ngay Thu Cẩn vào nhà lao, đợi lệnh trên quyết xử. Vài hôm sau, bọn đao phủ lôi nàng ra ngoài hiệu đình để xử chém. Khi ra pháp trường, từ biệt mọi người, Thu Cẩn nói lớn lên cho mọi người nghe thấy: - Tội của ta bất quá chỉ là một tội tình nghi chưa đến nỗi bị chết chém! Đấy các người thấy chưa? Ta chỉ vì kết giao với bọn quan trường để đến nỗi mất mạng đó. Các người về sau này có muốn kết giao với chúng hãy nên lấy gương của ta mà soi trước. Nói đoạn, Thu Cẩn ngang nhiên giơ thẳng cổ ra để cho bọn đao phủ chém, không hề tỏ ra sợ hãi. Quần chúng đi xem xử chém hôm đó đều than thở tiếc thương cho Thu Cẩn, mặt khác chửi rủa viên tri phủ vô tình, nhẫn tâm, chỉ vì tham ông cầu danh, khiến cho một cái đầu người phải rơi xuống một cách oan ức đau thương. Lại nói Thanh triều thấy cách mạng càng ngày càng nổ ra, náo loạn khắp mọi nơi, chỗ này vừa dẹp tan thì chỗ kia lại xuất hiện, chỉ trong vòng một tháng mà đã thấy đến hai, ba lần ở hai ba nơi khiến gần như không còn một chỗ nào là yên tĩnh nữa. Mấy ông quan to trong triều cũng như các ông quan ở địa phương lúc nào cũng nơm nớp lo sợ, bóp óc nặn gan ra để tìm cách cứu vớt tình hình xem ra đã đến lúc quá nát rồi. Bọn đại thần như Trương Chi Động lúc này đều cùng một chủ trương là phải lập hiến để thuận lòng dân. Họ cho rằng một khi lòng dân đã yên, thì cách mạng tự nhiên phải hết. Tây thái hậu nghe chủ trương này cũng rất tán thành. Do đó, bà liền sai bọn Tải Trạch đi ra hải ngoại, và các nước tiền tiến văn minh, khảo sát hiến chính. Bọn Tải Trạch lĩnh chỉ ý, đang sửa soạn lên đường, không ngờ bị Ngô Viện ném cho một tạc đạn ngay phía ngoài cửa Chính Dương. Trong số năm anh đại thần xuất dương, thì hai anh không may trúng phải mảnh tạc đạn bị thương nặng. Vụ ném tạc đạn này càng làm cho Thanh triều hoảng kinh và phải quyết tâm cao hơn nữa để tổ chức hiến chính. Bởi thế, Thanh triều lại định một ngày khác để cho phái đoàn khảo sát lên đường. Hồi này, Khánh thân vương Dịch Khuông nắm trọn đại quyền trong tay. Bởi vậy, đồng bọn của vương như Kỳ Thiện Tải, Thiết Lương, ấm Xương… đều nhờ đó nắm quyền lớn cả. Dịch Khuông vốn là một người hết sức tham lam. Nhất thiết chính sự, đều kệ bọn tiểu nhân mặc sức thao túng và vẽ vời, riêng ông chỉ biết ngồi để lượm bạc cắc do bọn này đem tới hiếu kính. Tây thái hậu, từ sau khi hồi loan, mọi việc chính sự đều không tha thiết tới, nhưng chuyện tiền tài thì một mảy may cũng không tha, cho nên, trước khi có loạn quyền phỉ, bà đã để riêng được hơn một ngàn năm trăm vạn lượng vàng nén. Khi bát quốc liên quân đánh vào Bắc Kinh, Tây thái hậu hoảng hốt chạy trốn, số vàng kếch xù này bị bọn nội giám chia nhau lấy hết sạch. Rồi lúc trở về đến cung tìm kiếm lại, bà chẳng còn thấy được một mảy may nào, ngay cả đến một đồng tiền. Đã nhiều đêm, nhớ đến đồng tiền do bao nhiêu mưu chước tinh quái mới có được bà ứa nước mắt. Nhưng địa vị, thế thần của bà thì cái gì mà chả được, cho nên bà lại quyết chí làm giàu một phen nữa. Bà thường nói với bọn nội giám thế nào bà cũng phải cho chúng thấy cái tài của bà. Dịch Khuông được cơ hội này, bèn giả danh hiệu "liềm tiền" (tiền đóng góp) để hiếu kính Thái hậu, nhưng sự thật thì tám phần mười đóng vào hầu bao của Khuông, chỉ có hai phần mười vào tay Thái hậu mà thôi. Về sau, các khoản tiền này càng ngày càng nhiều. Chân đạo đài ở Thượng Hải thuộc tinh Giang Tô có thể nói là béo bở vào bậc nhất, mỗi năm phải cúng mười vạn lạng, gọi là tiền phấn sáp cho Thái hậu. Phàm văn võ quan viên, tất cả đều phải nói tới tiền trước, đều phải có tiền cúng đầy đủ, theo cấp bậc to nhỏ trên dưới. Bất luận chức vụ, cấp bậc cao thấp nào đều phải đánh giá qua cái tính cách béo gầy, thâu được nhiều hay ít lợi Đấy là cái lối tham nhũng ăn tiền, đục khoét của thời Quang Tự, mà lại do chính Tây thái hậu chủ trương trước. Hối lộ tham nhũng công nhiên chẳng thèm che giấu như vậy trách sao bọn quan lại từ trên xuống dưới lại không tham nhũng và đục khoét xã hội Trung Hoa khiến người dân cơ hồ như không còn miếng ăn nữa. Rồi đến lúc bọn quan lại bên ngoài bóc lột đã hết mức, không còn cách gì để bóc lột nữa, Dịch Khuông bèn nghĩ ra một kế hoạch mới: đó là mở toạc chiếc cổng hối lộ cho mọi người thấy, khỏi cần phải úp mở gì. Ai muốn làm quan lúc này thì đã có giá sẵn rồi, cứ việc đem số tiền đó mà cúng vào thì tự nhiên là thành quan, khỏi cần phải thi cử đỗ đạt, học hành gì cho thêm mệt. Ví dụ như: Chức tri huyện thì phải nua năm ngàn đồng bạc, từ chức tri phủ trở nên, muốn mua thì hoặc là một vạn, hoặc hai vạn, và cứ như thế mà tăng lên dần dần, đến mãi chỗ nào không thể được mới thôi. Cái địa vị mà kẻ bạch đinh chân trắng dù nhiều tiền mà không thể ngồi lên nổi được, đó là hai cái ngôi vị của tước vương và tước công. Hai cái chỗ này thì quả là quan trọng, chỉ dành riêng cho những bậc hoàng thân quốc thích và những người đỗ đạt cao như tiến sĩ, trạng nguyên và có uy danh lừng lẫy, có công trạng đối với triều đình và quốc dân. Thực ra, lệ này cũng chỉ có hiệu lực ở buổi đầu thôi, chứ dần dần về sau, thì duy chỉ có tước vương là dân bạch đinh không thể leo lên được thôi, chứ còn từ cấp nhị phẩm trở lên cho đến tước công như ta vừa nói tới đều có thể với tới, miễn là có nhiều tiền. Có trường hợp ba, bốn anh họp lại thành một bọn để cùng mua một chức quan, rồi một anh đứng ra nắm chính quyền. Mấy anh hùn vốn kia cũng kéo nhau tới nhiệm sở để hùa nhau tìm cách đặt kế bóc lột dân, đào khoét công quỹ đến kỳ hết mới chịu thôi. Cả bọn vơ vét được bao nhiêu, Lúc đó đem tính toán với nhau, trừ số tiền vốn hùn để mua quan ra, lời lãi còn lại sẽ đem chia đều để đút túi. Chuyện mua quan bán tước này tuy nói rằng công khai đấy nhưng thực ra chỉ công khai đối với bọn thính mũi ngửi được hơi địa vị quan trường thôi chứ quần chúng thì thực như ngủ trong trống, không được biết một tí gì. Nhưng về sau, một câu chuyện bi hài xảy ra như sau khiến lúc đó tệ trạng này tiếng tăm tùm lum lên, không còn ai là không biết nữa: Tại tỉnh Cam Túc, có ba anh chàng bán quán thường gọi là chú Ba, chú Tư, chú Bảy làm ăn ngày càng xuống dốc, sắp đi tới chỗ cụt vốn, anh nào anh nấy chán nản muốn tự tử. Bỗng một hôm chú Ba ta nghĩ ra được một lối thoát. Chú reo lên vì vui sướng, chạy tới bàn với hai chú kia? - Này các cậu! Bọn quan lại hiện nay bóc lột quần chúng đến xương tuỷ, cách làm ăn của bọn ta xuống dốc mãi, thì chỉ còn nước tự tử hay bị gậy thôi. Phải tìm cách khác mà sống. Trừ phi cái nghề làm quan lúc này còn thì không nghề gì sống nổi. Các cậu nghĩ xem? Tư và Bảy thoạt nghe nói phá lên cười, cười ngặt nghẽo, cười đến đổ ghế xiêu bàn, cho rằng chú Ba nhà ta điên rồi. Cười một lúc, Tư và Bảy mới chỉ vào mặt Ba mà bảo: - Chú mày muốn được làm quan? Xin hỏi chú mày lấy cái tài gì, tư cách gì mới được chứ? Hỏi vậy xong, Tư và Bảy lại cười tiếp. Ba ta nghiêm ngay sắc mặt lại, cất tiếng như quát vào hai tên kia: - Tụi bay ngu lắm! Ngu thiệt! Ngu hơn ai hết! Làm quan đời nào, chứ đời này thì, có cần tư cách gì đâu. Tụi bay chỉ cần có năm ngàn đồng bạc là thành ông huyện ngay, nghe chưa? Tư và Bảy nghe nói lấy làm lạ, hỏi ra mới rõ chuyện mua quan là thế nào, nghe mê quá, bàn ngay tới kế hoạch thực hiện. Thế là cả ba anh chàng bán quán chạy về nhà, có, gì bán nấy, bán hết bành cờ hiệu, thậm chí đến cái váy của vợ, cái quần xà lỏn của con cũng mang đi bán, cốt làm sao thu đủ được số tiền năm ngàn quan cho Ba để Ba ta lên đường mặc cả chức tri huyện với bề trên… Việc mua bán đã xong chỉ còn chờ. Chẳng bao ngày, ghế tri huyện Thanh Điền khuyết, chàng Ba quán nhậu ta được bổ ngay vào đấy. Thật là trời chiều người, cờ đã đến tay, lúc này tha hồ phất. Khi bát quốc liên quân đánh Bắc Kinh, Ba mất số tiền lớn là một ngàn năm trăm vạn, ấy thế mà ngoài số tiền một ngàn năm trăm vạn này đã thu lại nguyên như trước, Ba còn kiếm thêm được cả hai ngàn vạn nữa. Nếu nói đến bọn nội giám trong cung đình hồi này, thì Lý Liên Anh già quá đã chết rồi, còn một số khác thì đã quá già hoặc cũng chết hết cả rồi. Kẻ đắc thế nhất lúc này phải nói tới tên nội giám Tiểu Đức. Tiểu Đức vốn họ Trương, cho nên mọi người trong kinh thành vẫn thường gọi là Tiểu Đức Trương. Khi bước chân vào cung, Tiểu Đức Trương mới có mười tám tuổi, mặt mũi thật tuấn tú xinh đẹp và duyên dáng nữa là khác. Cha đẻ của Tiểu Đức có nghề buôn đồ cổ rất giỏi. Vào thời trung niên, ông ta làm ăn, góp nhặt được một sản nghiệp kha khá. Nhưng khi sanh Tiểu Đức ra chưa được bao lâu, người cha chẳng may mất đi, để lại hai mẹ con Tiểu Đức goá bụa, côi cút. Bởi chỉ có một đứa con, bà mẹ Tiểu Đức cưng quá mức, khiến đến khi lớn lên, Đức suốt ngày lêu lổng, cờ bạc, chơi bời, đĩ điếm, không một cái gì truy lạc là không làm. Cơ nghiệp của người cha để cho hai mẹ con được bao nhiêu thì ngày nay Đức cho đội nón ra đi bằng hết. Mẹ Đức khuyên bảo con hết lời, nhưng tính nào vẫn tật ấy, Đức không động tâm, không sửa chữa, và đương nhiên là không nghe lời hơn lẽ thiệt của mẹ. Bà lão cũng vì thế mà buồn chán, rồi đâm bệnh, chẳng bao lâu bà đi theo luôn với ông già ngày nọ. Cha chết, rồi mẹ chết, lúc này Tiểu Đức quả thực là tứ cố vô thân, không còn có chỗ nào để trông mong, nhờ cậy nữa. Thế rồi, không đầy nửa năm, Đức bán cho bằng hết không gì còn sót lại của cha gây dựng trước đây, bán đến không còn sờ thấy một cây rơm cọng rác nữa. Nhà cửa sạch không rồi, Đức chỉ còn cách bỏ xứ đi tha phương cầu thực. Đức lang thang mãi, sự trời may nhờ gặp được Tiểu Vương, xin vào hầu hạ trong nhà kiếm chút cháo. Tiểu Vương vốn là một tên nội giám trong cung cấm của Thanh triều. Thấy Tiểu Đức mặt mũi khôi ngô điển trai, Tiểu Vương bèn bảo: - Mặt mũi mi khá quá. Nếu mi chịu thiến cái "của nợ" đó đi, thì tao quyết tìm cho mi cái giàu sang hơn người một phen cho mà xem. Giàu sang rồi thì mi tha hồ sung sướng. Tiểu Đức nghe lời của Tiểu Vương dạy khôn. Sau một tháng trời rên la nhức nhối vì vết thương, Đức trở thành một con người có giá, lúc này có thể vào bên cạnh nhưng người đẹp của hoàng đế để hầu hạ vuốt ve nâng giấc thay cho ngài. Thấy đã đến lúc nên đưa Tiểu Đức vào cung, Tiểu vương một hôm vào tâu và tiến cử thẳng cho Tây thái hậu. Được cái hay là Tiểu Đức vốn người hết sức lanh lợi, ngoài cái dáng vẻ điển trai ra. Tây thái hậu thấy thế càng thích, càng sủng ái. Bởi thế chẳng bao lâu, Tiểu Đức được Tây thái hậu cho làm thủ lãnh bọn tiểu thái giám trong nội. Thấy được Tây thái hậu sủng ái, Tiểu Đức càng ngày càng lộng hành. Đức vốn chỉ là một kẻ tiểu nhân cho nên khi hầu hạ thân cận bên Thái hậu hắn tìm mọi cách để khiến cho bà tin cẩn để dễ bê làm bậy. Bình sinh, Tiểu Đức thích đánh bạc. Trong cung cấm, hắn lại giở cái trò này ra. Thế là cả bọn, nào tiểu thái giám, đại thái giám, nào lão thái giám, nào cung nữ già, nào cung nhân trẻ, tất cả đều đổ xô lại kiếm hắn để đánh bạc. Chuyện thú vị nhất là chính Tây thái hậu cũng biết và thích chơi súc sắc, nữa. Thế là cái tính đánh bạc của Đức đã chẳng những được bà tha thứ lượng tinh, mà còn được bà cho phép tổ chức ngay tại trong cung để rồi chính bà cũng ghé vào đánh cho vui nữa. Đã nhiều lần Tây thái hậu bảo Đức đứng ra làm cái để cho bà cùng bọn cung tần mỹ nữ trong cung cùng đánh Từ khi trò đánh bạc lên cao, toàn thể cung nhân nơi cung cấm đều túm năm tụm ba từng góc tường xó cửa để chơi. Bọn nội giám kẻ thua người được đâm tranh nhau, cãi nhau, thậm chí đánh nhau nữa. Quy chế hà khắc trong cung cấm đến lúc này quả đã hư hỏng đến cùng độ rồi. Có một hôm, Tiểu Đức mở sòng. Tây thái hậu cũng như bọn phúc tấn và cách cách xúm nhau vào đặt tiền. Tây thái hậu nhắm đôi mắt lại để nhẩm tính nước bài. Giữa lúc ấy, Tiểu Đức cố ý đặt tay lên nắp hộp súc sắc, cất tiếng xướng lớn: - Mở này! Mở này! Tây thái hậu mở mắt lớn, cả giận nói: - Thằng kia! Ai dạy cái lối hạ lưu đó? Tiểu Đức thấy Tây thái hậu cả giận, vội dập đầu tâu: - Nô tài vốn không biết cái lối này. Nhưng năm ngoái nô tài nhờ được một vị hậu bổ tỉnh Sơn Tây tên gọi Từ Tử Minh dạy cho lối đó. Tử Minh bảo nô tài: Thảng hoặc có người nhẩm tính nước bài thì thường mình chỉ có thua chứ khó lòng được. Bởi thế, bất luận xấu tốt cách nào, cũng phải chặn ngay, làm cho người đó phân tâm đi, không tính toán được nữa. Tây thái hậu nghe Đức nói, gật đầu mỉm cười, không còn có ý tức giận, trái lại còn khoái nữa là khác. Câu chuyện cờ bạc này truyền đi mỗi ngày một xa. Hậu bổ Từ Tử Minh được tin này lấy làm khoái lắm liền nói phét lác rằng: - Cái lối đánh bạc của ta đến Tây thái hậu cũng biết đấy chứ chẳng phải chơi đâu! Chúng bây thấy chưa? Doạ đàn em, vậy rồi, Tử Minh bèn mở ngay một sòng bạc lớn, công nhiên đánh bạc, lấy hồ, chẳng coi ai ra gì. Tri phủ Sơn Tây là Đào Cảnh Như thấy Minh làm chuyện phi pháp bèn bắt trói Minh, tống vào nhà giam, tước luôn cả chức vị của Minh. Khi nằm trong ngục, Tử Minh cho người đem tiền bạc hối lộ cho viên tri phủ Cảnh Như, nhờ đó Cảnh Như cũng vơ vét được một mẻ kha khá. Được chấm mút rồi, Cảnh Như thả ngay Từ Tử Minh, lấy cớ rằng Minh bị bệnh thần kinh. Thoát ngục rồi, Từ Tử Minh lại mở sòng bạc, chuyến này còn lớn hơn nhiều. Tri phủ Đào Cảnh Như mắt nhắm mắt mở, tuy có trông đấy nhưng hình như không thấy gì, nhất là cái sòng bạc lớn lù lù trước mắt. Thực là một quái trạng nhưng kỳ thú trong giới quan trường đời nhà Thanh hồi mạt diệp. Tiểu Đức có một thế lực như vậy trong cung cấm, tất nhiên bọn nội giám bất đắc chí kéo nhau tới quy luỵ, nịnh nọt. Ngay cả bọn cung nữ, phi tần không một chị nào là không chạy tới để nhờ Đức che chở và làm theo mệnh lệnh của Đức. Kẻ không bị Đức chỉ huy có lẽ chỉ có một mình Long Dụ hoàng hậu mà thôi. Bình thời Đức chẳng sợ một ai cả, ngoài Tây thái hậu ra. Ấy thế mà duy chỉ có mỗi một mình Long Dụ hoàng hậu là Đức nghe theo hết mọi mệnh lệnh sai khiến. Cũng do chỗ kỳ lạ này mà người ta thấy Long Dụ hoàng hậu rất tin lời của Đức, rồi dần dần, ngày một ngày hai, Tiểu Đức biến thành một tên hầu thân tín nhất của hoàng hậu. Trong chốn cung đình, từ đó điều nọ tiếng kia, đồn đại trong ngoài, nào những chuyện dâm bôn tục tĩu, nào những tin giật gân, kỳ quái, xảy ra bàng ngày. Tây thái hậu e ngại những tin đồn đại nhơ nhớp này, đành phải tống cổ Tiểu Đức ra khỏi cung. Về sau, khi Tây thái hậu mất, Long Dụ hoàng hậu còn tái dụng Tiểu Đức một lần nữa và thường nghe những chủ trương của y, ví dụ như việc xây cất Thuỷ tinh cung giả hàn. Song những chuyện này ở mãi về sau, khi nhà Thanh chẳng còn được bao lâu nữa. Chuyện sau đó, ta hãy tạm gác tại đây. Lại nói từ khi xảy ra chuyện đánh gãy cành trâm ngọc của Long Dụ hoàng hậu do Quang Tự hoàng đế gây nên, Tây thái hậu biết là bất hoà giữa hai người không còn có cách gì hàn gắn được nữa. Bởi thế, ít lâu sau, bà truyền cho Long Dụ hoàng hậu rời khỏi Ỷ Hương điện chuyển qua ở tại Di Tâm các. Long Dụ hoàng hậu thấy Quang Tự hoàng đế bạc tình như vậy, trong lòng hết sức buồn bã. Nhưng từ khi Tiểu Đức vào cung, tìm đủ cách nịnh hót, đủ lối hầu hạ, hoàng hậu bỗng cảm thấy đời tươi lên. Đối với hậu lúc này, bất cứ việc gì, vật gì do Tiểu Đức làm hoặc dùng đều được bà khen tốt cả, hay cả, trái lại, do một người nào khác, thì bà đều quở là dở, không bao giờ vừa lòng. Bọn nội giám trong cung hiểu được duyên cớ bên trong của câu chuyện, đều rút lui ra sau, để mặc cho Tiểu Đức được tự do hầu hạ hoàng hậu. Thành thử, bất cứ chuyện gì tại cung hoàng hậu, Tiểu Đức đều tự mình lo liệu lấy hết, không để cho một kẻ nội giám nào khác mó tay vào. Có một hôm, mưa xuân phơi phới đầy trời, Tây thái hậu đội mưa đi chơi xuân trong vườn, hoàng hậu cáo bệnh không đi còn tất cả phi tần cũng có mặt phụng giá. Không ngờ, mưa mỗi lúc một nặng hạt, Tây thái hậu bèn ra lệnh cho các phi tử ai về nhà nấy, bà Cẩn phi vội vã đội mưa xông gió chạy đi trước. Cá tính của Tây thái hậu là thích đi chơi dưới mưa bay. Bọn phi tần chạy theo sau, dù có lọng, cũng không dám giương lên. Đã nhiều lần, bọn phi tần, phúc tấn, cách cách theo Tây thái hậu dạo chơi dưới trời mưa trong vườn, đều phải để mặc cho mưa rơi, ướt sũng đầu tóc cũng phải chịu. Khi thái hậu ngồi kiệu thì cả bọn nhảy lên kiệu ngồi. Trái lại, khi thái hậu đi bộ thì cả bọn lại đành phải đi bộ, chứ không dám làm khác. Hôm đó đi chơi dưới mưa, Cẩn phi biết cái tính kỳ quặc của Tây thái hậu, cho nên không mang dù đi. Rồi đến khi được lệnh cho về, quần áo bị ướt sũng, Cẩn phi thấy cần phải chạy về để thay. Cẩn phi ba chân bốn cẳng chạy qua phía dưới gác Di Tâm, bỗng nghe một tiếng ho, rồi một bãi đờm nhổ toẹt thẳng vào mặt nàng. Cái người nhổ đờm nào đó có lẽ khi nhổ không có ác ý gì, Cẩn phi chắc cũng biết thế, cho nên cái nhổ đỏ chỉ giúp cho nàng nhớ tới một việc là hoàng hậu cáo đau, không đi theo thái hậu dạo chơi trong vườn. Nhớ lại như vậy, Cẩn phi thấy cần phải tới vấn an bà mới phải, hơn nữa cũng để tránh sự trách mắng vô lễ của bà. Chủ ý đã định, Cẩn phi bèn lặng lẽ bước lên gác. Chân nàng bước đã nhẹ, mặt đất lại lót bằng thảm nhung êm dày. Cẩn phi bước đã lên đến từng trên gác, mà hoàng hậu vẫn không hay biết một tí gì. Đợi đến khi Cẩn phi bước hẳn vào bên trong cửa, nghe mấy tiếng động nhẹ, hoàng hậu mới tưởng là tên tiểu thái giám thường hầu hạ bà. Bà lên tiếng hỏi: - Đứa nào chạy lộn xộn ngoài đó đấy? Theo lệ, thường thì khi phi tần vào yết kiến Đế hoặc Hậu, họ đều phải có một tên tiểu thái giám chạy vào báo trước, Cẩn phi đã vào đây nhiều lần, quá quen rồi, cho nên chẳng để ý đến thông lệ này. Bỗng tiếng hỏi bất ngờ của hoàng hậu làm cho Cẩn phi dừng ngay gót lại, không dám tiến sâu vào nữa. Hoàng hậu thấy người nào dừng lại, không bước thêm liền sinh nghi, vội chạy ra. Vừa thấy bóng hoàng hậu, Cẩn phi vội vàng cúi xuống thỉnh an. Nhưng cũng cái lúc thảng thốt mà hoàng hậu chạy ra thì Cẩn phi đã thấy trên giường của hoàng hậu anh chàng Tiểu Đức trần như nhộng, đang nằm dài thườn thượt như có vẻ đã được thoải mái quá rồi, đến lúc phải nghi ngơi đôi chút. Hoàng hậu lúc đó, cử chỉ có vẻ hơi bấn loạn, vội lên tiếng quát bảo Tiểu Đức: - Thằng kia! Mi không cút đi ngay phải không? A thì ra cái thằng này láo lếu bừa bãi thực? Tiểu Đức đâu có ngờ tới Cẩn phi bất chợt bước vào, không một tiếng động, không một lời báo trước. Cho nên ngay cả lúc hoàng hậu đứng nói chuyện với nàng, hắn cũng cứ thản nhiên nằm trên giường dương dương tự đắc, chứ đâu có ngờ rằng oan gia gặp đường hẹp. Nhưng đến lúc biết là Cẩn phi rồi, thì Tiểu Đức mới hoảng hốt vùng dậy, tay chân run lên, quơ bên này cào bên nọ, lôi cái áo, rút cái quần, quýnh quýnh đúng như một thằng ăn vụng có tội. Giữa lúc tiến thoái lưỡng nan của Tiểu Đức, may thay cho hắn được hoàng hậu quát thêm lên vài tiếng bảo hắn đi lấy phất trần để quét bụi trên bàn. Ấy thế mà hắn cúng quýnh quýnh mãi một hồi nữa mới mặc xong quần áo mà vội vã chạy đi. Long Dụ hoàng hậu bị bắt tại trận, tất nhiên không thể nào bình tĩnh được. Mặt bà bỗng đỏ ửng lên, mắt bà như tá hoả thành trăm ngàn tia lửa nhưng rồi dễ tắt lịm đi, tối om. Đôi tay bà nêu có ai để ý thì sẽ thấy mười ngón tay chúng bắt chuồn chuồn không ngớt. Cẩn phi nhìn thấy quang cảnh này dù chỉ trong chớp nhoáng cũng phải biết tại nơi đây, đã xảy ra chuyện gì rồi. Nàng chẳng còn cách gì hơn là thăm hỏi vài ba câu qua loa, để từ giã hoàng hậu ra đi, cho đỡ bẽ cả đôi đường. Trên đường đi trở về Doanh đài, Cẩn phi càng nghĩ càng lấy làm lạ cái cảnh vừa qua. Gặp Quang Tự hoàng đế, định nói toạc ra nhưng lại ngập ngừng không dám nói. Tại sao vậy. Số là sau ngày thổ huyết, bệnh tình của Quang Tự hoàng đế không thuyên giảm được bao nhiêu. Hơn nữa, chính hôm thổ huyết té ngửa đó, hoàng đế đã trợn mắt lên, nghiến răng ken két như có điều vô cùng căm hận đối với hoàng hậu. Bởi thế, nếu đem nói toạc trò quỷ quái vừa thấy ra, nàng e rằng có hại cho sức khoẻ của hoàng đế. Tuy nhiên, sực nhớ lại những lúc hoàng hậu ton hót với thái hậu, và những lúc đánh đập làm khổ nàng nhiều phen, nàng lại thấy máu uất bốc lên, tiếng kêu gọi trả thù lại vang lớn trong thâm tâm. Thế rồi cuối cùng hận thù đã thắng, nàng bèn rỉ tai Quang Tự hoàng đế thuật lại một lượt tất cả những gì nàng vừa thấy trong phòng ngủ của hoàng hậu. Quang Tự nghe xong chuyện kể, nhảy đến vù một cái từ mặt giường lên khoảng không, để rồi lại rơi xuống mặt giường, miệng quát lên như điên: - Con tiện tỳ khốn nạn! Con khốn nạn! Tao phải giết mi! Tao phải giết mi. Quát xong, Quang Tự hoàng đế nhoài ra cạnh giường, đứng dậy, tính bận quần áo chạy đến gặp Tây thái hậu. Cẩn phi thấy quang cảnh sôi động bất ngờ và nhất định là tai hại không biết tới đâu mà lường, vội chạy lại ôm lấy ngài để khuyên can, nàng nói: - Bệnh tình của hoàng thượng vừa mới bớt, cần nên tĩnh dưỡng. Chuyện này, sớm chiều gì rồi sẽ giải quyết, vội vã làm gì? Hơn nữa, chuyện này, chính mắt thần thiếp được mục kích. Nếu câu chuyện nổ ra tùm lum thì thế nào mà thần thiếp chẳng bị luỵ vào đấy. Quang Tự hoàng đế suy nghĩ một lát rồi nói: - Ta đã biết vậy rồi. Nhưng nếu không cho chúng biết tay một phen, thì về sau còn làm gì được nữa? Nếu không gặp Thái hậu để tố cáo cho bà biết chuyện của con khốn nạn nọ thì rồi ta cũng phải gọi cái thằng khốn kiếp kia đến đây để cho nó một bài học mới được. Nói đoạn. Quang Tự hoàng đế liền gọi một tên tiểu thái giám chạy đi triệu tên Tiểu Đức đến Doanh đài ngay để kiến giá. Lại nói khi Cẩn phi trở về Doanh đài rồi, Tiểu Đức biết câu chuyện vỡ lở, thế nào cũng gây hoạ, liền nói với Long Dụ hoàng hậu: - Tiểu yêu chuyến này chắc nguy rồi đây! Vạn nhất mà hoàng thượng truy ra vụ này thì tiểu yêu chỉ còn biết nhờ vào sức che chở của hoàng hậu mà thôi. Hoàng hậu nghe nói, nét mặt vừa buồn vừa giận, cất tiếng nói: - Biết làm sao được bây giờ? Chỉ tại con khốn nạn đó nó thấy? Và cũng tại bọn ta không cẩn thận đề phòng mà ra. Ngươi đâu có hiểu được ta với hoàng thượng vốn không thuận đã từ lâu. Giả thử hoàng thượng cho chuyện đó là đúng là thực, thì đến ta cũng chịu, chẳng biết làm sao hơn. E đến cái mạng ta cũng khó thoát nữa là! Tiểu Đức nghe xong, miệng câm như hến, đứng ỳ ra như một pho tượng đất, mặt thộn hẳn ra. Giữa lúc khó xử này, bỗng một tên tiểu thái giám chạy tới triệu Đức. Long Dụ hoàng hậu biết câu chuyện đã bị phát giác rồi, chỉ còn biết lấy đôi mắt nhìn theo Tiểu Đức, miệng lặng thinh không nói một lời nào. Tiểu Đức thấy vô phương thoát tội, toàn thân run lên lẩy bẩy, líu ríu theo gót tên tiểu thái giám ra đi về ngả Doanh đài. Tiểu Đức bước lại gần giường nằm của Quang Tự hoàng đế. Hắn nhìn thấy mặt ngài đầy vẻ căm giận bực tức, vội quỳ xuống, dập đầu, không dám ngẩng đầu lên nữa: Quang Tự hoàng đế lớn tiếng quát: - Mi đã làm một việc quá đẹp. Ta khỏi cần phải giảng giải gì cho mi thêm. Quát xong Quang Tự hoàng đế gọi mấy tên nội giám kéo cổ Đức ra phía ngoài đánh một trăm gậy, tung toé máu đít, tống cổ sang bên cung Thái hậu. Bọn nội giám lãnh chỉ, kéo cổ Tiểu Đức ra ngoài, đánh đúng một trăm gậy, xong rồi ngồi chờ giấy của hoàng đế. Quang Tự hoàng đế viết bốn chữ "Tiểu Đức vô lễ" vào một tờ giấy rồi sai bọn nội giám cầm tờ giấy đó, đồng thời áp giải tên Tiểu Đức sang bên cung Tây thái hậu. Lúc này Tây thái hậu được biết tin, liền cho gọi hoàng hậu sang trách mắng một hồi. Bỗng bà thấy bọn nội giám áp tải Tiểu Đức tới, vội truyền lệnh cho hoàng hậu hãy tạm lánh mặt vào phía trong. Tiểu Đức vừa thấy thái hậu, vội quỳ xuống đất, mắt sa lệ, cất tiếng van xin: - Cầu xin Lão Phật gia tha thứ cho. Tây thái hậu nói: - Mi đã tự tay làm chuyện đồi bại thì đến ta cũng chịu. Hiện hoàng thượng đã bảo ta phát lạc. Vậy cung nội này không có cách gì giữ mi lại được nữa cả. Mi nên quay lẹ về nhà, thu xếp khăn gói mà đi đi. Tiểu Đức chỉ còn biết dập đầu một cái, rồi đứng dậy, chạy đi thu xếp hành trang để xuất cung. Lại nói Quang Tự hoàng đế trách mắng đánh đòn tên Tiểu Đức xong rồi nhưng lòng giận vẫn chưa nguôi, bệnh thế của ngài vốn đã trầm trọng từ lâu, nay lại trải qua một cơn khủng hoảng tinh thần quá kịch liệt, khiến càng trở nên nguy nan thêm. Từ đấy, bệnh ngài đã chẳng thuyên giảm đi mà càng ngày càng nặng mãi, để đến mùa đông năm đó, ngài chỉ còn lại như một đống xương khô hay như một bó củi khô mà thôi. Thân xác cũng như tinh thần của ngài lúc này đều đã mất gần hết và cái chết coi như đã gần kề. Thế rồi một hôm, Quang Tự hoàng đế bỗng nhiên biến chứng, ngài đâm ra thở dốc, cuối cùng cứ thở giật từng hồi như hắt ra. Cẩn phi ngồi trông nom bên cạnh hất hoảng đến cực độ một tay cố giữ lấy ngực cho ngài, còn một tay khoát gọi tên tiểu thái giám hầu cận chạy ngay đi phi báo cho Tây thái hậu biết. Chỉ một lát sau. Tây thái hậu đã cùng viên ngự y bước vội vào cung. Bắt mạch chẩn bệnh một lát, viên ngự y tâu với thái hậu. - Bệnh tình của hoàng thượng do ở chỗ nguyên khí bị tổn thương, động tới can phong, cho nên thở dốc không chỉ. Thở mãi mà không chỉ, ta nên đề phòng có khi ngất đi đấy. Một viên ngự y nói vậy, bảy, tám viên ngự y khác xem mạch chuẩn bệnh cũng đều nói thế. Tây thái hậu lúc này đã thấy xốn xang bối rối lắm. Bà bảo Cẩn phi trông nom nhà vua, còn mình thì hối hả chạy về Dưỡng tâm điện triệu tập tức khắc bọn quân cơ đại thần vào ngay đêm đó để nghị sự. Hồi này, Trương Chi Động đã nghỉ chức, chỉ còn lại có bọn Na Đồng. Bọn đại thần này vào đến cung yết kiến thái hậu, bà tuyên bố bệnh tình của Quang Tự hoàng đế cho họ nghe rồi nói: - Nếu chẳng may hoàng thượng có mệnh hệ nào, thì biết chọn ai kế vị? Khanh thân vương Dịch Khuông tâu: - Theo như trước đây thì đến Phổ Tuấn như vậy là không thể nối ngôi được nữa. Đếm ngón tay ta thấy muốn kế vị Đức Mục tôn nghi hoàng đế, ắt vẫn phải chọn người có chữ lót là Phổ mới được. Tây thái hậu gật đầu nói: - Ta đã nghĩ tới điều đó. Trong số người có chữ Phổ trừ con trai Thuần thân vương là Phổ Nghi và con trai Cung thân vương là Phổ Huân ra, là hết. Con của bọn Tải Tuân đã thuộc chi xa, lại còn nhỏ tuổi hơn cả Phổ Nghi. Hơn nữa người như Tải Tuân thực chẳng đáng để trao phó cho đại quyền. Theo ta, thì trong Phổ Nghi và Phổ Huân, hai người ấy nên chọn lấy một. Y ta là như thế, nhưng không biết các vị thân vương nghĩ như thế nào? Dịch Khuông nghe Tây thái hậu hỏi, vội cúi đầu tâu: - Đây vốn là việc đại sự quốc gia, tự nhiên đã có Lão Phật gia anh minh quyết đoán, hà tất phải hỏi bọn thân vương có đồng ý hay không đồng ý mà làm gì. Công việc trong tôn tộc, có khác gì công việc ngoài quốc gia, cả hai cũng chỉ là một, xin Lão Phật gia minh xét cho. Na Đồng cũng tâu lên: - Lời nói của Khánh vương rất đúng. Y kiến của nô tài cũng y hệt như thế đấy. Tây thái hậu nói: - Tuy lời nói đó có lý đấy, song đại quyền vẫn thuộc về hoàng thượng. Ta bất quá chỉ thay thế nhất thời mà thôi. Quyết nhiên lúc này phải là ta hạ lệnh, nhưng trong tương lai chỉ sợ có chuyện xảy ra này nọ đó thôi. Dịch Khuông vội nói: - Bất tất phải quá lo xa như vậy. Đến lúc đó, ta hãy giải quyết cũng không muộn. Giữa lúc Tây thái hậu và bọn đại thần đang còn hội nghị, bỗng một tên nội giám chạy vội vào tâu: - Hoàng thượng mê đi rồi! Vừa được tên nội giám chạy đến báo tin cho biết Quang Tự hoàng đế đã mê đi, Tây thái hậu vội vàng cùng bọn Dịch Khuông kéo nhau tới Doanh đài để xem tình trạng hoàng đế ra sao. Nhìn vào thân thể ngài, họ chỉ thấy mặt ngài trắng bệch ra như tờ giấy trắng, đôi hàm răng cắn chặt lại, đôi mắt trợn ngược lên. Cẩn phi mặt đầy nước mắt vừa xụt xịt khóc vừa lay gọi, Long Dụ hoàng hậu lúc này được báo tin cũng đã chạy tới. Bà nhìn thấy Quang Tự hoàng đế trong tình cảnh như vậy, cũng không khỏi rỏ vài giọt nước mắt. Tây thái hậu ngồi bên cạnh bảo hai người đừng có hoảng hốt. Bà bảo hoàng thượng đuối sức một lúc sẽ tỉnh lại, chứ không có chi đáng ngại. Một mặt, bà cho một tên tiểu thái giám tức tối đi gọi cả thái y viện tới để chạy chữa. Bọn Dịch Khuông thì ngồi yên lặng tại phía dưới điện Hàm Nguyên chờ đợi. Chỉ một lát, người ta đã thấy bọn thái y lóc cóc chạy tới, nào dao cầu thuyền thuốc, đầy đủ đồ nghề. Nhưng bọn nội giám sớm đã reo lên: - Hoàng thượng tỉnh lại rồi! Hoàng thượng tỉnh lại rồi! Giữa lúc đang mơ mơ màng màng như người đi trong mộng, Quang Tự hoàng đế mở choàng mắt ra, thấy mọi người vây khắp quanh mình, người thì đứng kẻ thì ngồi, bất giác tỏ vẻ lạ lùng bèn hỏi: - Các người tới đây làm gì vậy? Cẩn phi ghé sát vào mặt nhà vua khẽ nói: - Họ tới để hầu hạ bệ hạ đó. Quang Tự hoàng đế nói: - Ta khoẻ mà. Hầu hạ làm gì? Nói đoạn, ngài thở dài một tiếng, quay mình vào trong dỗ giấc ngủ. Tây thái hậu bảo với mọi người: - Hoàng thượng mê đi vừa mới tỉnh, thần kinh đang thác loạn. Các ngươi không nên nói chuyện với ngài. Cho gọi thái y chẩn mạch cho ngài xem ra sao. Thế là bọn thái y được gọi lại, chẩn mạch xong, chạy ra phía ngoài hất thuốc, rồi lại chạy vào ngay. Cẩn phi đích thân lo việc sắc thuốc, sau đó đổ cho ngài uống. Tây thái hậu đợi cho Quang Tự hoàng đế thần sắc trở về nguyên trạng rồi lúc đó mới quay trở về cung. Hoàng hậu và bọn đại thần Dịch Khuông cũng tiến vào cung để vấn an thái hậu rồi mới giải tán, ai nấy về nhà mình. Quang Tự hoàng đế thấy mọi người đi hết rồi, mới quay mình lại, nhìn Cẩn phi hỏi: - Bọn họ đi hết rồi ư? Chỉ hỏi được có mỗi một câu đó, Quang Tự hoàng đế lại đã lên cơn suyễn, tắc họng lại, không thể nói được nữa. Cẩn phi vội nằm sát xuống bên giường, ghé miệng sát vào tai nhà vua mà nói: - Xin bệ hạ bảo trọng thân thể. Đừng có nói gì, đợi đến khi khỏi rồi hãy trò chuyện. Quang Tự hoàng đế bèn thò cái tay chỉ có xương và da ra nắm lấy bàn tay ngọc ngà của Cẩn phi rồi nói qua hơi thở khò khè: - Bệnh tình của ta xem ra khó lành được rồi. Hôm nay tá muốn nói vài câu tối hậu với ngươi. Cẩn phi nghe đến đây, bỗng đôi dòng lệ chảy ra, ướt cả vạt áo phía trước ngực. Quang Tự hoàng đế khoát nhẹ bàn tay, như ra hiệu thôi đừng khóc nữa, rồi nói tiếp: - Theo ý ta lúc này thì chả còn gì để phải lưu luyến nữa. Khi đôi mắt nhắm lại, thế là hết, hết sạch. Tiếc thay! Con nối dõi ta không có. Quyền bính đều nằm trong tay mẫu hậu. Khi ta chết rồi, không biết ai là người kế thừa đại thống? Ta thực chưa từng biết. Mà cũng chẳng can dự gì đến ta. Ta cứ im lặng, chẳng nói một câu nào là hơn, cứ để cho mọi việc trôi qua đến đâu thì đến. Ấy thế nhưng, dù sao, ta cũng không thể bình thản được trước mọi chuyển biến. Ta nhớ lại từ khi bước vào cung để thừa kế đại thống, tính đến nay đã hơn ba mươi năm rồi. Suốt trong thời gian lâu lắc này, tuy ta không có công trạng gì nhưng nói cho cùng thì cuộc đời ta cũng đã được an bài. Đến như chuyện quyền chính được rồi mất đó, thực chỉ tại ta quá nhu nhược mà ra. Buồn thay cho ta là từ khi bước chân vào cung, trong không có ai là người tâm phúc, ngoài không có ai là người trung lương phò trợ, muốn phấn phát tinh thần mà làm việc đấy nhưng lại không biết hoạt động vào đâu. Năm Mậu Tuất, có cuộc binh biến. Ta vốn tưởng đem cựu chế mà cải cách một phen, chỉnh đốn lại chiêng trống, phóng động lên một phong trào, huy trương lại nhuệ khí, khiến cho mọi người hăng hái canh tân lại xứ sở. Không ngờ mẫu hậu không lượng tính, giữa đường đánh quy ta, biến ta thành một loại tội tù không hơn không kém. Lần đả kích ta này, quả thực khiến ta vô cùng chán nản. Bởi thế, từ đó ta đâu có còn tha, thiết đến chính sự nữa. Bất luận là chuyện trong hay việc ngoài, ta có thèm mở miệng ra nói một lời nào nữa đâu. Giả thử lúc ban sơ đó, mẫu hậu có nghe theo lời ta, thực hiện theo kế hoạch của ta thì quốc gia này đâu có đến nỗi như ngày nay. Về sau, năm Canh Tý, trải qua một cuộc loạn quyền phỉ, chạy lên Tây An rồi lại trở về, lúc đó mẫu hậu mới tỉnh ngộ cải quả, thì sự đã trễ rồi. Tóm lại mà nói, giang sơn nhà Thanh ta chẳng bao lâu nữa sẽ bị người khác cướp mất đó thôi. Quang Tự hoàng đế nói đến đây, lại ho rốc lên một hồi. Cẩn phi nuốt lệ nói: - Bệ hạ nói ít thôi! Đợi cho hết ho, dễ thở, Quang Tự hoàng đế thu hết tàn lực lại để cố nói cho được lớn: - Nay không nói, còn đợi đến lúc nào nữa? Quang Tự hoàng đế khựng lại một chút để lấy hơi, rồi tiếp để dặn dò Cẩn phi: - Ta có câu nói khẩn yếu này, muốn nghe hay không, tuỳ ý họ. Nếu ngươi không nói ra, ta sê có tội đối với tổ tiên. Sau khi ta mất rồi, người kế vị chưa được định rõ, trong số mấy người thôi. Song Tải Tuân là người kém tháo vát, nếu giao phó cho đại chính e có chỗ chưa đủ, mất nước là cái chắc! Đến Phổ Tuấn, người đã từng lập làm Đại A Kha, Tuấn hết sức ngu ngốc cầm quyền làm sao được chứ? Lại đến Phổ Nghi? Nghi vào thừa kế đại thống e rằng quá con nít. Chẳng biết khi trưởng thành, Nghi sẽ ra sao. Một đứa con nít lâm trào, cần phải có một người lớn nhiếp chính. Mà cái người nhiếp chính ấy phải chăng là Thuần thân vương Tải Thuần? Hai người có cái tình phụ tử với nhau, tất nhiên việc phụ chính sẽ được tận tâm kiệt sức khỏi phải nói. Song Tải Thuần lại phải cái nhu nhược mà võ đoán. Thuần cũng chẳng phải là người an bang định quốc, lỡ gây ra chuyện bất hảo, ta e rằng quốc gia này sẽ đi đứt do tay y. Theo ý kiến ta thì cái đám Phổ này đều còn nhỏ cả, cần phải có người nhiếp chính, trong khi chúng chỉ làm bù nhìn thôi. Như vậy, thì chi bằng chọn một người kế vị lâm chính ngay trong tầng lớp của ta có hơn không? Chẳng biết mẫu hậu quyết định ra sao? Trong lúc nói mấy câu trên, Quang Tự hoàng đế mắt nhìn thẳng vào mặt Cẩn phi. Rồi đến khi nói xong, đôi mắt ngài như đứng hẳn lại, có ý chờ đợi một câu đáp của Cẩn phi. Hiểu được ý đó của nhà vua, Cẩn phi bèn gật đầu nói: - Để thần thiếp tâu lại cho thái hậu rõ. Nghe được vậy, Quang Tự hoàng đế se sẽ gật đầu rồi nhắm dần mắt lại. Hơi thở của ngài lúc này lại trở nên gấp gáp hơn trước. Cẩn phi cho rằng bệnh tình của ngài xem ra lành ít dữ nhiều. Nàng một mặt thút thít khóc, một mặt nằm nép xuống cạnh giường. Nhân lúc thấy Quang Tự hoàng đế mở choàng mắt ra, nàng ghé vào tai ngài khẽ hỏi: - Bệ hạ có thấy đỡ phần nào không? Quang Tự nghe hỏi chỉ khe "ừ" một tiếng và thêm một cái gật đầu như ra hiệu. Cẩn phi lại hỏi tiếp: - Ví thử bệ hạ có thực mệnh nào, thì bảo thần thiếp phải làm sao? Nghe xong câu hỏi của Cẩn phi, Quang Tự hoàng đế nhìn thẳng vào mặt Cẩn phi, ngừng một lát rồi mới thì thào nói: - Ngươi tất phải lo. Khi ta còn sống, bọn chúng tác oai, tác phúc. Rồi đây khi ta chết rồi, một triều đại mới ắt sẽ có một quần thần mới. Bọn chúng cũng chỉ đối với ngươi vậy thôi. Lúc đó, ta e rằng chúng còn phải lo cho mình chưa xong chứ còn lấy thì giờ đâu mà chống đối với ngươi nữa. Ngươi chắc chắn lúc đó còn sướng hơn bây giờ nữa là khác. Cẩn phi còn muốn hỏi nữa, nhưng Quang Tự hoàng đế xem ra thần trí đã mơ hồ, không nhận định rõ được mọi vật nữa. Cẩn phi thấy hình sắc ngài có vẻ biến thái nhiều rồi, cho nên không dám rời khỏi bên ngài. Cho mãi đến hửng sáng, Quang Tự hoàng đế thực không còn có thể nói nữa. Ngài chỉ còn biết lấy tay chỉ vào miệng mà thôi. Giờ Thìn, Long Dụ hoàng hậu chạy tới. Vừa nhìn thấy bà, Quang Tự hoàng đế ngước mắt lên vài lượt, rồi bỗng nắm tay lại đấm vào đầu giường mấy cái, tựa hồ như có ý tức giận lắm. Long dụ hoàng hậu vừa gạt lệ, vừa se sẽ hỏi Cần phi về bệnh tình của hoàng đế. Một lát sau, thái y viện lại đến để chẩn mạch cho ngài. Tuy bề ngoài nói rằng bệnh tình của Quang Tự hoàng đế còn có cơ hội vãn hồi được, nhưng thái y viện đã tâu nhỏ với Tây thái hậu là nên chuẩn bị chuyện hậu sự cho nhà vua đi là vừa. Lại nói Tây thái hậu ngay từ hôm qua sau khi ở Doanh đài về, bà bỗng cảm thấy khó ở. Tuy đã được thái y chẩn mạch và hết thuốc, nhưng bệnh tình của bà đã từ nhẹ chuyển sang nặng. Do đó, bà không có thể gắng gượng đi đây chạy đó. Cho đến khi nghe nói Quang Tự hoàng đế bệnh nguy, bà tính đích thân mình tới Doanh đài nhưng bị bọn nội giám cung nhân khuyên can nên lại thôi,: mà chỉ sai Long Dụ hoàng hậu qua thăm để xem tình thế bệnh trạng ra sao mà thôi. Buổi chiều hôm đó, Quang Tự hoàng đế chỉ còn lại có chừng ba phần khí lực. Tây thái hậu tuy lúc đó đầu choáng mắt hoa nằm quỵ tại một nơi rồi, nhưng vẫn còn nghĩ được cách lo liệu hậu sự cho nhà vua. Bà tức tốc truyền lệnh cho triệu ngay bọn quân cơ đại thần như Na Đồng, Thế Tích vào cung để nghị sự. Lúc này Khánh vương Dịch Khuông đã đi yết Đông Lăng cho nên không có mặt tại triều. Bọn Na Đồng, Thế Tích vào cung thấy Tây thái hậu đầu buộc một cái khăn xanh biếc đang ngồi tựa vào thành giường. Vừa thấy bọn Na Đồng vào, bà liền cất tiếng hỏi: - Ta định lúc này lập sử đây. Bọn ngươi có ý kiến gì không? Thế Tích nghe hỏi, vội tâu: - Hoàng thượng thánh thể không được an. Thái hậu rất nên quyết định ngay đại kế lúc này. Tây thái hậu sẽ gật đầu nói: - Ta định chọn một vương tử trong số các thân vương cận chi. Các ngươi nghĩ sao? Na Đồng lặng thinh, không nói, Thế Tích cúi đầu tâu: - Ý kiến chọn sử của thái hậu chính như cái tâm của Văn vương chọn hiền. Đấy là việc vô cùng khẩn yếu, và cũng còn là việc vì xã tắc đời sau mà mưu tính. Hiện nay, quốc gia gặp phải lúc hết sức đa sự, thiết tưởng thái hậu cần phải chọn người lớn tuổi mới có thể lâm chính độc lập, mong hữu vọng ở tương lai, không đến nỗi phải giao quyền cho người tá thần. Ý kiến của thần là như thế. Tây thái hậu nghe xong lời tâu, giơ thẳng cánh tay đập xuống bàn đánh thình một cái, mắt trợn ngược lên, miệng quát lớn: - Lập sử là một chuyện trọng đại. Ngươi dám nói bậy nói bạ như vậy à? Thế Tích hoảng hồn bạt vía, vội dập đầu như tế sao, một lúc lâu mà chưa thấy y thôi. Tây thái hậu lại ngó về phía Na Đồng mà nói: - Còn ngươi? Ý ngươi như thế nào? Na Đồng bị hỏi, mặt tái xanh lại, tự nghĩ dại gì mà nói khác, để lại phải dập đầu đến trớt trán như Thế Tích. Nghĩ vậy Đồng sẽ cất tiếng đáp: - Chọn sử là một việc lớn của quốc gia. Xin thái hậu quyết định. Tây thái hậu chậm rãi nói: - Nếu vậy, Phổ Nghi, con Thuần thân vương, có được không? Nghi chỉ phải cái con nít quá. Bởi thế, cái người phò tá tất phải chọn lựa một cách thận trọng. Na Đồng biết Tây thái hậu đã quyết định xong, có tranh luận thêm cũng vô ích. Do đó, Đồng chỉ còn biết thừa thời gian mà tâu thêm vào: - Dạ đúng thế! Thuần thân vương có tình phụ tử, hơn nữa, còn hiền minh hơn người, rất nên cử để phò tá. Tây thái hậu nghe câu nói gần với ý mình, bèn nói tiếp: - Đã như thế thì người nên đi thảo chiếu thư đi rồi đem lại đây! Na Đồng cúi đầu tâu: - Khánh thân vương đi Yết Lăng chưa về. Ngày mai quyết phải tới đây. Lúc đó, bọn đại thần sẽ cùng nhau thương nghị và đệ trình thái hậu. Tây thái hậu suy nghĩ một lát rồi khoát tay một cái, bảo cả bọn rút lui. Qua ngày hôm sau, Khánh thân vương hồi triều. Bọn Na Đồng, Thế Tích thuật lại những lời nói của thái hậu cho Khánh thân vương nghe. Dịch Khuông nghe qua thở dài đến thượt một cái nói: - Trời ơi! Làm sao mà lại lập một thằng bé con như thế kia? Thời thế hiện nay, quốc gia đa sự, cần phải lập một người lớn mới phải chứ? Thế Tích vội nói: - Ấy bọn tôi cũng nói như vậy đó. Không ngờ Thái hậu vì thế mà cả giận đấy. Lại nói bọn Na Đồng thảo chiếu xong, đưa cho Dịch Khuông mang vào cung. Cả bọn còn dặn dò Khuông là trước mặt thái hậu cố tìm cách can ngăn thế nào để có thể huỷ bỏ được cái thành nghị trước đó là tốt, để mong lập được một người lớn tuổi. Dịch Khuông ừ hữ luôn mồm, rồi chạy vội vào cung yết kiến thái hậu. Lúc Khuông xin vào trước giường để tiến kiến, Tây thái hậu cũng đang trong tình trạng hôn mê bất tỉnh. Bởi thế Khuông chưa được vào ngay mà còn phải ngồi đợi bên ngoài một lúc lâu. Bỗng tên nội giám thò đầu ra ngoài cửa sổ lên tiếng ra hiệu cho Khuông: - Lão Phật gia tỉnh rồi đấy! Được thông báo như vậy, song trước hết phải chờ bọn nội giám và cung nhân lăng xăng đi lại, kẻ đệ nước, người dâng trà, rối tinh lên mất một lúc rồi mới thấy có lệnh triệu Dịch Khuông. Khuông rón rén bước tới bên giường Tây thái hậu cúi đầu hành lễ, xong Tây thái hậu hỏi: - Ngươi đã về rồi đấy ư! Việc lập sử, bọn chúng đã cho ngươi biết rồi chứ? Dịch Khuông vội tâu: - Nô tài đã biết cả rồi. Hiện chiếu đã thảo xong và đem theo đây, xin Thái hậu ngự giám: Tây thái hậu tiếp lấy tờ chiếu, đọc một lượt, rồi nhìn Dịch Khuông mà nói: - Ý kiến ngươi như thế nào? Dịch Khuông vốn giảo hoạt, tinh ranh, xưa nay chỉ một màu tâng bốc, nịnh nọt Tây thái hậu để thủ lợi, nên khi thái hậu hỏi vậy thì Khuông đã chẳng có can gián gì, trái lại còn im lặng, tỏ ý đồng tình. Tây thái hậu coi như không có ai có ý kiến gì chống đối nữa, bèn bảo Dịch Khuông: - Thế là được rồi! Ngươi có thể hạ chiếu, bố cáo thiên hạ ngay đi! Dịch Khuông lãnh chi bước ra khỏi cung, họp cùng bọn Na Đồng phát chiếu, bố cáo khắp thiên hạ việc lập sử. Sau đó Khuông lại chạy vào cung phúc chỉ, rồi quay ra triệu tập nội ngoại thần cùng tuyên đọc chiếu thư. Mặt khác, Khuông giao cho Thế Tích tới phủ của Thuần thân vương, triệu Tải Phong vào cung. Chẳng bao lâu, người ta đã thấy Tải Phong cùng đi với Thế Tích vào cung yết kiến thái hậu, Tây thái hậu bảo Thuần thân vương: - Ta đã lập con ngươi làm sử quân. Y ngươi như thế nào? Tải Phong dập đầu tâu: - Nô tài xin hoàn toàn nghe lệnh của Thái hậu. Tây thái hậu bảo tiếp: - Con ngươi còn quá nhỏ, không thể không có người chỉ bảo dạy dỗ. Ta đã sai Thế Tích làm thái phó, còn ngươi cũng nên đồng tâm phò tá, chớ phụ lòng ta. Thuần thân vương Tải Phong tạ ơn lui ra ngoài. Bọn đại thần gồm đủ Mãn, Hán bưng chiếu thư tới phủ Thuần thân vương để đón rước Phổ Nghi vào cung. Không ngờ bà Thái phúc tấn của Thuần thân vương ôm ghì lấy Phổ Nghi, quyết không cho mang đi. Bọn đại thần đôi ba lần khuyên giải, chỉ thấy bà Thái phúc tấn khóc rống lên bảo: - Bọn chúng đã giết chết con ta rồi (tức Quang Tự), nay lại tới mang cháu ta đi để giết nữa sao? Ta quyết không bao giờ cho như thế! Bà Thái phúc tấn vốn là vợ của Lão Thuần vương Dịch Hoan, mà cũng là em gái của Tây thái hậu. Quang Tự hoàng đế chính là con trai của Lão Thuần vương, anh em với Thuần vương Tải Phong. Nếu Phổ Nghi vào kế vị, thì tức là kế vị ngai vàng của chú ruột mình. Hiện tại, Thái phúc tấn đã không chịu, tự nhiên bọn quần thần thúc thủ vô sách. Phải đợi mãi tới lúc Thuần vương Tải Phong từ trong cung trở về phủ, rõ chuyện, biết bà thương tiếc cháu nội, bỗng tự nhiên rơi lệ. Thuần vương gạt nước mắt bẩm cáo với Thái phúc tấn là chỉ dụ không thể trái nghịch được sau đó, còn khuyên giải một hồi lâu mới có kết quả. Thái phúc tấn đến lúc này mới biết mình bất lực, đành phải bế Phổ Nghi ra, đặt ngồi trên xe, khóc rống lên một hồi, rồi mới gạt lệ quay vào trong phủ. Bọn vương công đại thần đưa rước Phổ Nghi kéo thành một đoàn dài y như một đàn ong. Khi đã vào trong cung, chân chưa dừng được một phút, cả bọn đã thấy nội giám hối hả chạy ra phi báo là Quang Tự hoàng đế ở Doanh đài đã băng hà. Tây thái hậu được tin Quang Tự hoàng đế chết rồi, thở dài một tiếng, quay mình lại, nằm ngay trên giường một lúc lâu mới ngồi dậy. Khi đó, bọn vương công đại thần đã tề tựu đông đủ ở phía trước giường bà để chờ đợi chỉ dụ. Tây thái hậu bèn sai thảo di chiếu. Mặt khác, bà truyền lệnh cho bọn họ trước hết đưa Phổ Nghi lên ngai vàng để chính vị, sau đó Khánh thân vương phải bố cáo vương chiếu cho thiên hạ xa gần đều biết. Trên tờ di chiếu bà không quên cho ghi điều quan trọng nữa là: "Thuần thân vương Tải Phong tạm thời làm Chính sự nhiếp chính vương, chiếu theo lệ phụ chính của Duệ thân vương khai quốc. Với chức vụ này, Nhiếp chính vương sẽ quyết định hết tất cả mọi việc trọng đại, sau đó mới trình lên ngự lãm và đem thi hành". Như thế mọi việc tiên quyết đã xong. Đến việc tang lễ Quang Tự hoàng đế. Bọn đại thần, mỗi anh một việc, chạy đi như đèn kéo quân để lo liệu đủ thứ, đủ bề. Nhưng giữa lúc rối tinh lên này, bỗng có tin báo Lão Phật gia bệnh nguy. Lệnh triệu bọn đại thần tiến cung ngay, để chịu di mệnh. Tin động trời này loan truyền đi nhanh như điện. Cung nội đã loạn rồi, giờ còn loạn thêm. Long Dụ hoàng hậu, Thọ Xương công chúa cùng cả bọn đại thần thân vương hớt hơ hớt hải chạy về cung Tây thái hậu. Họ thấy Tây thái hậu đôi mắt nhắm nghiền, một lời cũng chẳng nói, cả bọn rón rén lại gần rồi đứng im chờ đợi. Long Dụ hoàng hậu đứng sát ngay bên cạnh giường được coi như gần nhất. Bỗng Tây thái hậu mở choàng mắt ra hỏi: - Phổ Nghi đã chính vị chưa? Long Dụ hoàng hậu ghé sát gần lại đáp: - Chính vị hôm nay rồi. Và cũng đã bố cáo cho thiên hạ biết rồi. Tây thái hậu im lặng, chẳng biết bà có nghe câu đáp của hoàng hậu hay không. Người ta phải đợi một lúc nữa mới lại thấy bà ấp úng nói lên mấy câu sau đây: - Chính trị từ nay về sau, ngươi nên cùng với nhiếp chính vương bàn tính rồi hãy thi hành. Tây thái hậu lại triệu nhiếp chính vương Tải Phong bước lại gần giường, thì thào bàn: - Ngươi đã chịu trọng nhiệm nhiếp chính vương. Đối với việc quốc gia đại sự, ngươi nên theo ý chỉ của Long Dụ hoàng hậu mà thi hành, không được độc tài, khiến có thể xảy ra tai hoạ về sau. Tải Phong cúi đầu chịu mệnh. Tây thái hậu có ý muốn nói thêm mấy câu nữa, nhưng đờm đã ào ạt kéo lên bà khiến cho bà nghẹt lại, đầu lưỡi cũng tự nhiên cứng ngắc. Lời nói của bà vì vậy mà trở thành O ề, nghe không thấy rõ nữa. Bà hình như tức tối lắm, cho nên chỉ thấy hai tay nắm lại rồi cứ mặt giường mà nện xuống thình thình. Tình trạng đó kéo dài một lúc lâu. Bọn đại thần hầu hạ bên giường đứng im phăng phắc, đợi chờ, lo lắng, nhưng mọi người bỗng thấy Tây thái hậu co giò nhảy bổng một cái ngược lên trên giường, trợn trừng đôi mắt trong tình trạng thực vô cùng đáng sợ. Long Dụ hoàng hậu vội vàng chạy lại, hợp lực với bọn thái giám, cố giữ lấy bà. Bọn họ có đến ba, bốn người ôm giữ, ấy thế mà Tây thái hậu vẫn nhảy cỡn lên được. Bà lắc bên này, bên kia, tung người lên, dãy dụa, chẳng khác gì một con khỉ cựa dây để mong thoát khỏi khi biết rằng tử thần đang giữ chặt lấy mình. Bà dãy dụa như vậy một lúc lâu, mới duỗi đôi chân thẳng ra và từ từ im lặng. Trạng thái đó tỏ ra trong ngực, trong ruột bà có một sự đau đớn khủng khiếp, không thể chịu nổi, nằm không được mà ngồi cũng không, chi muốn cựa quậy, đấm đạp, nhưng sức kiệt lực cùng. Về trạng thái khủng khiếp này, về sau bọn nội giám có kể lại là sức lực của Tây thái hậu lúc bấy giờ có thể nói còn mạnh hơn bất cứ một người nào khác. Chuyện lạ này là tại vì lúc bình thời không bệnh tật, Tây thái hậu rất ham tập luyện quyền thuật. Mỗi ngày, cứ vào lúc sáng sớm tinh mơ, vừa thức dậy, bà thường ngồi trên giường luyện một hồi Bát đoạn cẩn công phu. Khi bà luyện xong, nội giám đệ lên một chén sữa người để bà uống. Uống sữa xong, bà lại ngồi tĩnh toạ một hồi, uống vài hớp nước sâm Cao Ly, rồi mới mặc áo đứng dậy. Sau khi súc miệng, rửa mặt bà lại còn ăn một bát yến sào, xong xuôi cả rồi mới lững thững bước vào lâm triều. Từ khi ở Tây An hồi loan, ngày nào bà cũng theo lệ đó mà tập thành thói quen. Bởi thế thân thể của bà kháng kiện dị thường. Trước khi chết bà chỉ cảm mạo xoàng, thực không thể nặng đến chết được. Ngay cả trước khi Quang Tự hoàng đế chết một hôm bà cũng còn đủ sức để phát di chiếu, đọc lại do chính mắt mình, hình sắc vẫn thư thái ung dung chẳng có gì nói được là sắp chết cả. Ấy thế mà quanh quẩn chỉ có hai ngày bà đã lâm bạo bệnh. Thật là một sự lạ. Do đó, có người nghi là bà đã uống thuốc độc chết. Lại cũng có kẻ cho là bà đã nuốt vàng mà chết. Tây thái hậu đã chết. Thân thể bà từ xanh mét tự nhiên biến ra màu đen tím, có người cho thế là bà đã uống thuốc độc mà chết. Thực ra, câu nói đó chỉ là do người đời ghét bà mà gán cho như thế để bõ ghét đó thôi. Nguyên do về cái chết của bà chỉ là do nghiệt căn của a phiến (thuốc phiện) chứ chẳng phải cái gì khác. Số là năm Nhâm Tý, đời vua Đạo Quang, năm hải khẩu bị ngoại quốc bắt mở toang ra cho bọn ngoại quốc ra vào buôn bán, thì lệnh cấm a phiến cũng phải dẹp. A phiến từ Ấn Độ sang hàng tầu lớn. Người Anh tha hồ chở vào để móc túi người Trung Quốc, khiến từ viên quan người Hán cũng như người Mãn cho đến những tay phú hộ, những bậc nho sinh, tất cả đều phải coi thuốc phiện như chính cái mạng sống của mình. Tới năm Mậu thân đời Quang Tự, triều đình nhà Thanh xét thấy a phiến có hại lắm, bèn lại quyết định cấm. Tây thái hậu thấy các thân vương giòng tộc Mãn, hút thuốc phiện quá nhiều, sợ rằng nhất thời không thể thực hiện được, bèn nghĩ ra một cách là lấy mình làm gương. Thế là tự thân mình cai trước. Ai ngờ chất thuốc đã ngấm sâu, muốn ngay tức khắc trừ đi cũng đâu có được. Cho nên chỉ hôm sau, bà tự nhiên thấy trong người vô cùng khó chịu. Lúc Quang Tự hoàng đế lâm trọng bệnh cũng là lúc Tây thái hậu giới yên, muốn làm gương cho kẻ khác. Lần đầu vua Quang Tự hôn mê, Tây thái hậu còn có thể cưỡng được. Về sau, đến khi được tin nhà vua đã hắt hơi thở chót ra rồi thì bà cũng đã nằm liệt giường, không còn ngồi dậy được nữa. Và cũng vì thế cho nên bà mới sai Long Dụ hoàng hậu tới thăm bệnh tình của Quang Tự hoàng đế thay mình. Thế là Quang Tự hoàng đế cùng Tây thái hậu, cả hai đều về chầu trời, chỉ cách nhau trong vòng có hai ngày. Tang tóc trọng đại đó đã xảy ra cho nhà Thanh đúng vào năm Mậu Thân. Tin tức bay đi lẹ như tên bắn. Bọn thân vương, đại thần vội vàng đưa con trai Thuần thân vương là Phổ Nghi lên ngôi, tôn Quang Tự hoàng hậu lên làm Long Dụ hoàng thái hậu, Thuần thân vương làm nhiếp chính vương. Mọi việc trọng đại này được thu xếp xong, lúc đó mới nói tới việc tang ma. Từ việc thay bậc đổi ngôi đến việc tang ma, rồi biết bao nhiêu việc khác làm cho chốn cung đình trước đây vắng vẻ trang nghiêm bao nhiêu thì ngày nay ồn ào náo nhiệt bấy nhiêu. Thây ma Tây thái hậu nằm ở nơi ngoại điện, một bọn hơn mười anh nội giám tay cầm nhang cháy, khói toả nghi ngút, quỳ lạy chung quanh để giữ xác. Nếu có kẻ tò mò để ý thì sẽ thấy xác Tây thái hậu hôm đó chỉ đắp có mỗi một tấm vải vàng dài, trong ánh nhọt nhạt của ngọn đèn dầu le lói. Qua ngày hôm sau, mãi tới trưa, người ta mới thấy có mười mấy chú sư Lạt ma, đầu trọc lốc, mặt lầm lỳ, uể oải bước vào điện để lo việc tụng kinh niệm Phật, siêu độ vong linh cho thái hậu. Những bát nhang lúc này mới được hỏi tới. Những cái lư hương cao nghều nghệu bắt đầu nhả khói. Rồi những tiếng nam mô lúc dài lúc cụt được rên rỉ trong cung cấm thâm nghiêm. Lúc sinh thời, Tây thái hậu oai quyền hống hách như thế nào, vậy mà nay, mắt vừa nhắm lại, hai chân vừa duỗi, tình cảnh thực không sao tả xiết được cái thê lương ảm đạm. Phải chăng đây đã là một cái gương cho những kẻ hăm hở chạy theo bả vinh hoa, cong đuôi tìm thế lợi. Lại nói Long Dụ hoàng hậu, sau khi nhận di huấn của Tây thái hậu, cũng bắt chước bà cô mình buông rèm nhiếp chính, dự hẳn vào việc triều đình, chẳng thèm úp mở gì hết. Còn nhiếp chính vương Tải Phong cũng được lời dặn dò của Tây thái hậu lúc lâm chung, tuân theo mệnh lệnh của Long Dụ thái hậu mà hoàn toàn phục vụ cho bà hơn là cho dân cho nước. Do đó, bất luận gặp một việc khẩn yếu nào, Phong cũng đều lon ton chạy tới thỉnh mệnh của bà ta. Còn bọn vương công đại thần, lúc Tây thái hậu lâm chung cũng đã được dặn dò kỹ lưỡng, cứ việc làm theo như cái máy. Trước hết họ lập Phổ Nghi lên làm sử quân, rồi đưa Phổ Nghi lên ngai vàng để chính vị hoàng đế, đổi niên hiệu Quang Tự là Tuyên Thống nguyên niên, đại xá tù tội khắp toàn quốc. Người cầm vận mạng Trung Quốc lúc này chính là Long Dụ hoàng hậu. Lên ngôi thái hậu rồi, bà bèn nắm hết quyền bính vào tay, giải quyết bất cứ việc chính trị nào dù to dù nhỏ, chẳng đề cho bết cứ ai xen vào. Bởi thế Tải Phong tuy làm đến nhiếp chính vương mà đại quyền chẳng bao giờ có ở trong tay dù chi một ngày. Phong quả thật chỉ là một loại nhiếp chính bù nhìn không hơn không kém, có danh mà chẳng có thực. Chưa hết, Long Dụ thái hậu ngẫu nhiên có chuyện không hợp ý với Tải Phong tức thì cho gọi ngay Phong vào cung, trước là buộc tâu bày rành rọt, sau là nghe bà la rày quở trách. Chính vì vậy, cho nên giữa Long Dụ thái hậu với Tải Phong không thể nào không có chuyện bực bội chán chường lẫn nhau, nhất là đối với Phong. Chính sự bên trong, cũng như bên ngoài vì sự lủng củng này mà bị ảnh hưởng lây rồi dần dần đi tới chỗ đổ nát hư hoại. Nếu đem so sánh Tây thái hậu và Long Dụ thái hậu, ai cũng đều thấy rằng: Tây thái hậu có tài nhưng vô đức, còn Long Dụ thái hậu đã chẳng những vô đức lại còn bất tài nữa. Tài của Tây thái hậu có trăm ngàn vạn triệu thì Long Dụ thái hậu hoạ chỉ có được một vài. Ấy thế mà bà ta dám bắt chước Tây thái hậu cho bằng được, cũng buông rèm nghe chính, cũng bắt hết các thân vương, các đại thần phải quỳ mọp trước mặt mình để nghe chỉ, nghe lệnh. Long Dụ thái hậu bắt chước Tây thái hậu sủng ái tên thái giám Lý Liên Anh, bèn nghĩ tới chuyện tái đưa tên nội giám thân tín trước đây của mình bị Tây thái hậu đuổi cổ ra thuở nọ vào cung để làm tay chân mắt mũi cho mình. Tên nội giám đó chính là Tiểu Đức Trương. Nghĩ vậy rồi, bà vội cho người ra ngoài tìm cho bằng được Tiểu Đức Trương vào. Biết bao bùi ngùi, biết bao mừng rỡ, bà cắt đặt ngay cục cưng của mình lên chức Nội vụ tổng quản. Giao cho chức này rồi, bà mới bảo ngầm Tiểu Đức giữ cái vai trò mật thám cho bà, trước tiên phải điều tra tường tận mọi hành động của nhiếp chính vương và báo cho bà hay. Tiểu Đức Trương chuyến này có gió tha hồ phất cờ. Hắn xun xoe chạy vạy, hết đông sang tây, vào cửa này ra cửa nọ, tự biến thành một con chó săn vô cùng đắc lực cho Long Dụ thái hậu. Thế của hắn cũng từ đó trở nên lớn không biết chừng nào mà tưởng. Chỉ trong có mấy ngày thôi, Tiểu Đức bỗng to phồng lên như một Đại Đức. Tiểu Đức của Long Dụ thái hậu nào có thua gì Lý Liên Anh của Tây thái hậu. Long Dụ thái hậu thấy vườn Di Hoà phong cảnh quá cũ, quá quen, không thích nữa, bèn nảy ra ý mới làm một cái vườn khác tân kỳ hơn. Tiểu Đức đánh hơi được ý kiến này, vội chạy ra ngoài kinh thành tìm một bọn kiến trúc sư vẽ sơ đồ nào điện nọ, nào cung kia, nào lầu này, nào gác nọ… để trình lên thái hậu. Về việc này, Tiểu Đức chạy mất đến mười ngày, sau đó vào tâu với Long Dụ thái hậu: - Nô tài đã tính toán xong xuôi cả, chỉ còn phải tìm một khu đất nữa là có thể khởi công. Hiện nay, nô tài tìm một khu đất toạ lạc tại phía đông Ngự hoa viên rất đẹp. Hồi sinh thời vua Đức Tông ngài nghe bọn thầy địa lý nói khác, không chịu cho cất nhà phá cửa gì nơi đây. Theo thiển ý của nô tài thì chuyện đất cát long mạch của mấy anh địa lý nọ chỉ là mê tín tào lao, tin làm sao được. Nếu tài khu đất này mà thái hậu cho xây cất một khu hoa viên tối tân thì tuyệt biết chừng nào! Bốn bên có ao hồ vây quanh, lại có cả suối, cả khe đưa nước từ núi Ngọc Tiến về khiến nước ở các nơi lưu thông được với nhau. Hoa viên này phía trên nếu thái hậu lợp toàn bằng pha lê nữa, thử hỏi có phải là một toà Thuỷ Tinh cung đệ nhất thế giới không? Còn gì đáng kiêu hãnh hơn khi thái hậu có một cái cung gọi là Thuỷ Tinh cung? Long Dụ thái hậu nghe Tiểu Đức hót, trong lòng khoái sướng lạ thường, nhất là khi bà nghĩ tới lúc hoàn thành rồi, nằm vuốt ve "cục cưng" của bà thì còn gì bằng. Bà vội ra lệnh khởi công ngay. Bà còn bảo Tiểu Đức chọn một số hoạ sư để đưa vào cung vẽ tranh. Bất luận chỗ nào tại cung này, đặc biệt là ở chung quanh tường bà đều cho vẽ cả, màu sắc vô cùng lộng lẫy. Nói đến vấn đề trần thiết bày biện, thì ôi thôi, tất thảy mọi thứ đều phải làm bằng pha lê cho bà. Ở chính giữa cúng, bà cho đặt một trái cầu lớn bằng pha lê trong vắt, rồi gài vào bên trong một trăm chiếc đèn cũng bằng pha lê, sáng quắc. Cứ mỗi buổi tối đến, trăm ngọn đèn được thắp lên, ánh lửa sáng trưng như ban ngày, rực rỡ khắp trong ngoài, chẳng khác chi thế giới thuỷ tinh chút nào. Toà Thuỷ Tinh cung này khởi công từ năm Tuyên Thống nguyên niên, làm mãi cho tới mùa đông năm thứ hai mới được chừng một nửa. Long Dụ thái hậu tự tay đề tên cho cung này bốn chữ "Nhật linh chiểu hản". Bà lại còn bảo Tiểu Đức trùng tu lại cái mật thất trong cung nội để cho bà "dùng". Cái mật thất này có chừng hơn mười căn, vô cùng bí mật. Đây là công trình của Tây thái hậu. Những tên nội giám tầm thường không bao giờ có thể biết được. Mật thất này chỉ có mỗi một cửa ra vào. Mà cửa ra vào này lại chỉ có mỗi một mình Tây thái hậu biết được mà thôi. Ngoài cái cửa duy nhất này ra, không còn có gì khác hơn là tường với tường. Năm Canh Tý, bát quốc liên quân đánh phá kinh thành, Tây thái hậu hạ lệnh cho mấy tên nội giám khuân hết tất cả những đồ bảo vật vào trong mật thất. Rồi sau đó, dìm tất cả mấy tên nội giám này xuống ao cho chết đuối hết, mong tuyệt khẩu, khỏi bị bộ. Nhờ kế đó và nhờ mật thất đó, khi Tây thái hậu trở về cung năm Tân Sửu, tất cả mọi bảo vật tại nơi đây vẫn còn nguyên, chỉ mất những đồ đạc ở nơi khác mà thôi. Nhưng sau khi Tây thái hậu mất rồi, mật thất này không còn bí mật được nữa. Hon nữa, đã lâu năm không có ai ở nơi đây trông coi, mật thất này cũng đổ nát theo. Vì thế Long Dụ thái hậu cho gọi thợ mộc, thợ hồ vào sửa sang lại. Mặt tiền của mật thất này còn một bức hoạ thật lớn, vẽ ngay lên bức tường quét vôi trắng xoá. Thật ra bức tường này bằng đá, loại đá xanh vô cùng cứng rắn và mịn màng. Phía dưới bức tường này, giấu kín một bộ phận, chỉ cần lấy ngón tay gạt một cái nhẹ là tự nhiên cả phiến đá dùng làm tường đó từ từ mở ra, để lộ một căn phòng phía trong. Tiến vào căn phòng này rồi ta lại lấy tay gạt một cái chốt ở phía trong, tức thì một bức tường khác lại quay tròn đi, để lộ ra một căn phòng khách khác. Bước vào căn phòng khách mới này, tức thì ta lại thấy một căn phòng khác nữa phía trong. Đó chính là phòng ngủ của Tây thái hậu trước đây. Nhưng để bước vào được căn phòng ngủ này ta lại phải tìm cái bộ phận bí mật để gạt chốt, lúc đó tự nhiên căn phòng vụt biến thành thiên tỉnh rồi từ thiên tỉnh lại vụt biến thành thư trai, rồi thư trai vụt biến thành thiên tỉnh, thiên tỉnh lại biến thành phòng khách, cứ như thế biến đi biến lại nhiều lần, có thể nói là biến mãi không cùng, và cứ lần lần đi sâu mãi vào, hết từng nọ đến từng kia, cuối tận chót cùng lúc đó mới tới được phòng ngủ của Tây thái hậu. Nói đến phòng ngủ của Tây thái hậu này thì phải kể tới một cái "không quản" (tức là cái ống rỗng hai đầu) đặt ngay tại giường ngủ của bà. Cứ mỗi lần đi ngủ, bà đặt cái "không quản" này bên cạnh gói, điều quái lạ là bà có thể nghe được những tiếng động xa hàng trăm bước mà vẫn rõ mồn một. Những tiếng nói tiếng cười, những câu chuyện thì thào mưu tính bên ngoài, bà đều nhờ cái ổng "không quản" mà nghe, như ngồi nghe ở trước mặt vậy. Lúc sinh thời, Tây thái hậu rất sợ có kẻ ám toán mình, nên bà mới phải dùng đến loại máy móc tinh vi và tối tân đến như thế. Bọn nội giám cũng có kẻ đã nhìn thấy cái ống này. Cái ống này vốn do đại tướng Triệu Huệ xuất chinh trước đây đã tìm được trong cung vua Miến Điện. Nó được làm từ một cái sừng thú đẽo gọt mà thành. Có điều là không ai biết nó là sừng của giống thú nào và ở đâu. Long Dụ hoàng thái hậu sửa chữa lại mật thất rồi từ đó mặc tình hành lạc trong cung cấm, dần dần đi đến chỗ tồi tệ, không còn ra thể thống nào nữa. Giữa lúc này, bỗng một câu chuyện xảy ra không ngờ. Số là Mục Tông còn có một vị phi tử tên gọi Du quý phi. Bà này đã thông minh lại còn có tài. Bất luận cầm kỳ thi hoạ, tất cả đều tinh thông cả. Lúc Mục Tông (tức Đồng Trị) lập hoàng hậu, thì Tây thái hậu có ý muốn sách lập Du phi làm hoàng hậu, bởi vì nàng là con gái của Phương Tú. Ý của Tây thái hậu thì thế, nhưng ý của Hiếu Trinh thái hậu lại khác. Bà không tán thành. Kết quả như ta đã biết là cả hai để mặc cho hoàng đế tự, chọn lấy. Có quyền rồi, ngài bèn chọn con gái của Sùng Y làm hậu, còn con gái của Phượng Tú thì được phong làm phi, tức là Du phi. Tây thái hậu trong lòng tuy không vừa ý chút nào nhưng việc đã xảy ra như thế, biết làm sao hơn. Song bà thường hay dặn bảo hoàng đế rằng: - Hoàng hậu tuổi quá trẻ. Du phi có tài. Ngươi nên coi trọng nàng một chút. Đồng Trị chỉ biết dạ dạ luôn mồm để làm vừa lòng thái hậu mà thôi. Thực ra, ngài chỉ đặc biệt sủng ái có Hiếu Triết hoàng hậu, con gái của Sủng Y. Tây thái hậu vì thấy Du phi không được lập làm hoàng hậu, cho nên bà cũng có ưu đãi hơn. Rồi đến lúc Quang Tự lên nối ngôi, Du phi vẫn ở bên cạnh Tây thái hậu để hầu hạ như cũ. Điểm đặc biệt nhất khiến Tây thái hậu ưu đãi Du phi, là nàng có cái tài ăn nói hoạt bát, xử sự khéo léo, tất cả mọi việc, mọi chuyện đều có thể làm vừa lòng Tây thái hậu. Vì thế Tây thái hậu rất thích nàng, và không muốn cho nàng ở xa mình. Hồi đó, Long Dụ hoàng hậu tuy là cháu ruột của Tây thái hậu, nhưng lại không được bà yêu quý. Hậu thấy mình không bằng được Du phi, tự nhiên đem lòng ghen ghét. Bởi thế, trong những lúc trò chuyện, hậu thường dùng những lời mỉa mai để miệt thị nàng. Du phi không chịu nổi, bèn đem chuyện này khóc lóc tố cáo trước Tây thái hậu. Tây thái hậu cả giận, lập tức triệu Long Dụ hoàng hậu tới trách mắng cho một mẻ. Bà bảo: - Mi đường đường là một hoàng hậu, còn Du phi chỉ là một con nhạn lẻ loi đơn chiếc. Bất luận trường hợp nào, mi phải thương lấy hắn mới được chứ? Mi là cháu gái ta đương nhiên là mi phải quý những người mà chính ta đây quý mến mới phải chứ? Ta thật không ngờ mi lại cậy thế khinh người đến vậy, để cho một con mẹ goá phải than thở, khóc lóc với ta. Đáng lý mi phải giúp đỡ hắn mới đúng chứ? Chỉ vài câu mắng mỏ đó thôi cũng đã quá đủ để cho Long Dụ hoàng hậu tởn đến già. Mỗi lần gặp Du phi, đến một cái liếc bà cũng không dám nữa chứ đừng nói đến chuyện xoe xiên. Thói đời được cưng thì lại làm bộ lên mặt. Thực thế, từ hôm đó, Du phi đâm ra kiêu căng ngạo mạn. Cung tần phi tử, có còn ai được nàng coi trọng nữa đâu. Song đối với hai phi Trân, Cẩn của Quang Tự hoàng đế, nàng lại hết sức tử tế, đem hết tâm ngầm giúp trước Tây thái hậu. Năm Canh Tý loạn quyền phỉ, Tây thái hậu bức tử Trân phi, Du phi thường trong những lúc vắng vẻ khóc lóc thương tiếc Trân phi không lúc nào nguôi. Rồi những lúc thấy Long Dụ hoàng hậu bắt nạt Cẩn phi, Du phi cố đem hết sức mình để che chở cho Cẩn. Nàng nói thẳng với hoàng hậu: - Nàng ta có hai chị em đồng thời tiến cung hầu hạ hoàng thượng. ân sủng chưa thấy đâu, mà một đã chết tức tưởi rồi. Ấy thế mà bọn ta lại còn bắt khoan, bắt nhặt này nọ, thì chẳng hoá ra bọn ta nhẫn tâm quá sao? Mà cũng tiểu nhân quá sao? Long Dụ hoàng hậu bị Du phi "dạy" cho một hồi như vậy, từ đó cạch luôn, không dám nạt nộ Cẩn phi nữa. Chính nhờ được Du phi ám trợ tích cực như vậy, cho nên Cẩn phi mới dễ thở trong những ngày về sau này. ân nhân đem hết tâm lực vì mình như vậy đấy, nhưng Cẩn phi nào có biết gì. Âu cũng là một điều đẹp trong muôn vàn cái xấu xa bẩn thỉu của cung Thanh. Nhưng từ khi Quang Tự hoàng đế mất rồi, thì tình thế này khác hẳn. Tây thái hậu mất theo sau vài hôm. Phổ Nghi lên ngôi, nắm quyền đại thống, Long Dụ hoàng hậu được phong là hoàng thái hậu, Cẩn phi cũng được phong lên làm thái phi. Duy chỉ có Du phi, vốn là phi tử của Mục Tông hoàng đế nên không được gia phong. Chiếu lệ phi tử, khi vào yết kiến thái hậu, miệng phải tự xưng mình là nô tài. Du phi đối với Long Dụ hoàng hậu trước vốn bằng vai. Ấy thế mà ngày nay, bắt Du Phi phải tự xưng mình là nô tài khi gặp Long Dụ hoàng hậu thì thật là một chuyện khó thuận tai quá. Bởi vậy, Du phi quyết không chịu tới gặp nữa. Trong cung cấm, ai cũng cố khuyên Du phi, nhưng nàng vẫn không chịu, chết cũng không chịu. Ít lâu sau, ngày đi yết lăng đã tới. Đó là lăng Tây thái hậu. Từ nhiếp chính vương trở xuống cho tới bọn vương công đại thần, ngay cả Long Dụ thái hậu nữa, cũng như toàn thể phi tần trong cung cấm, tất thảy đều phải có mặt. Đoàn người tới lăng làm lễ xong xuôi. Du phi trò chuyện với Tấn phi, Cẩn phi, lúc này đều đang có mặt tại đấy. Du phi thấy bọn thân vương đại thần tề tựu đầy đủ, bèn bước lên, nghiêm nét mặt hỏi Thuần thân vương: - Ta xin hỏi chư vị: hoàng thượng nối ngôi báu, vậy chỉ nối ngôi Đức Tông hoàng đế hay có cả Mục Tông hoàng đế nữa? Thuần thân vương bị Du phi hỏi một cách đột ngột, thộn mặt ra một lúc rồi mới trả lời: - Tự nhiên là nối cả ngôi Mục Tông hoàng đế nữa chứ! Được Thuần thân vương xác định như vậy rồi, Du phi tự cho mình như đã có một cái thế quá mạnh, bèn dõng dạc tuyên bố: - Mục Tông Hiếu Triết hoàng hậu nay đã quy tiên, người độc nhất còn lại duy chỉ có ta, hoàng thượng đã gọi là thừa kế cả ngôi báu của Mục Tông hoàng đế, thế thì tại sao Long Dụ hoàng hậu lại gọi được là mẫu hậu còn ta chỉ là một tên nô tài? Thuần thân vương nghe hỏi xong, ớ ra, mắt trợn ngược lên, không biết trả lời cách nào. Thế là Du phi quỳ ngay gối xuống trước lăng Tây thái hậu bù lu bù loa, khóe rống lên. Đứng trước tình trạng nan giải này, Thuần thân vương đành phải khuyên về cung rồi sẽ bàn tính lại. Được lời hứa hẹn đó trước quần thần, Du phi mới chịu gạt lệ, lên xe về cung. Nhưng khi về kinh rồi, bọn Thuần thân vương ngày một ngày hai quên béng ngay lời hứa trên đối với Du phi. Đến kỳ yết lăng thứ nhì, Thuần thân vương bận việc không đi được phái Tải Chấn thay mặt mình. Trong cung, phi tần tất nhiên kỳ này lại cũng đủ mặt như lần trước. Du phi lần này nhắc lại chuyện, sau đó đòi Tải Chấn lập tức tuyên cáo cho bà. Tải Chấn không dám giải quyết, lấy cớ là không có mặt Thuần thân vương. Sự trả lời né tránh này làm cho Du phi nổi máu điên lên. Phi cho rằng Thuần thân vương lần trước thất tín, tất nhiên là có dụng ý xấu với bà, không thể tin được. Lần này bà đòi sự việc phải rõ ràng, nếu không, bà nhất định sẽ chết ngay tại trước lăng. Vừa nói xong lời, bà liền xông thẳng vào cây cột trụ, định đập đầu tự tử. Tấn phi và Cẩn phi đứng cạnh thấy thế, hoảng hồn bạt vía, vội nhào tới níu lại, rồi cố tìm lời khuyên can an ủi, đồng thời đòi Tải Chấn quay về ngay Bắc Kinh, bàn tính gấp việc này với Thuần thân vương. Chẳng mấy chốc một tờ chiếu chỉ đã hạ xuống. Tải Chấn chạy thẳng lên lăng, tuyên đọc phong cho Du phi làm thái phi, và khi tới Thái hậu khỏi phải xưng nô tài, đồng thời chu cấp chiếc xe loan nữa, đón bà vào cung. Nghe rõ ràng chiếu chi rồi, Du phi mới chịu thôi. Việc rắc rối đến đây coi như chấm dứt. Nếu truy nguyên ra thì việc này có một nguồn gốc xa xôi nhưng rất rõ rệt. Số là Long Dụ hoàng hậu ở trong cung cấm làm bậy quá nhiều, có thể nói không việc bậy nào mà bà không làm, cho nên Du phi lấy làm khinh, quyết nhất định không chịu xưng nô tài. Nguyên do chuyến này quá nửa là chỗ đó. Lúc còn sinh thời Tây thái hậu mỗi khi trong cung có diễn tuồng, hát bồi, Long Dụ hoàng hậu thường hay ngồi bên cạnh Tây thái hậu để xem hát. Hồi đó, những cuộc vui như vậy được tổ chức vào những khi gặp thời gặp tiết, ví dụ như Nguyên đán, Trung thu… Bọn kép hát, đào nương theo lệnh triệu như các năm trước, lục đục kéo vào cung để diễn. Ngoài bọn phi tần, cung nhân trong cung nội ra, ngay cả các phúc tấn cũng như cách cách của các thân vương, hôm đó, cũng ùn ùn kéo vào cung để dự cuộc vui. Trong số kép hát, Liễu Du Các được thái hậu sủng ái, cho cả vợ và con gái vào cung để hầu hạ thái hậu. Cậy thế được cưng yêu đó, Các cũng tòn tòn vào cung cấm, ném tất cả những kẻ ghen ghét với vợ con mình ra sau ót. Nhưng từ khi Tây thái hậu chết rồi, vợ và con gái của Các đương nhiên không còn lý do gì ở lại cung nội, đành phải cuốn gói trở về nhà. Lúc này, Long Dụ hoàng hậu cũng muốn xem hát lắm, nhưng gặp lúc đại tang, thành thử sợ có điều phạm vào lễ nghi, luật lệ. Mãi về sau, một là tang cớ đã gần như nhạt, hai là thèm đến không chịu nổi, thế là bà cũng theo bọn phi tần đi xem hát. Tên kép hát Liễu Du Các lúc này cũng được vời vào cung nội để diễn cho bà xem. Võ hi của Các kể ra thì hay tuyệt, ít người bì kịp. Hồi Tây thái hậu còn sống, mỗi lần Các hát xong một tuồng, bà thường hay thưởng cho hắn một số tiền, Long Dụ hoàng hậu cũng muốn tỏ ra ta đây oai, cũng bắt chước Tây thái hậu ban ơn cho bọn kép hát mỗi lần hát xong một tuồng, nhất là cho Liễu Du Các, ít ra cũng được một trăm lạng. Cũng vì cái lợi đó, cho nên Các cố hết sức để đóng tuồng để được ơn thưởng đặc biệt. Trớ trêu thay, trong khi Các trổ tài trổ lực, bỗng một bà phúc tấn "dính" ngay phải mới chết chứ. Thực ra, thì vào cuối đời Thanh chuyện vợ con của bọn vương công đại thần mèo chuột với đám kép hát không thiếu gì coi như biết cũng để đấy mà thôi. Nhưng trường hợp kép Liễu Du Các này thì thật hy hữu, bởi vì Các dám chơi trèo mãi lên cho tới bà phúc tấn đệ nhất của triều đại nhà Thanh, là bà phu nhân của Thuần vương, mới nhiều chuyện chứ. Bà Đại phúc tấn này chính là mẹ đẻ ra Phổ Nghi hoàng đế tại triều hồi đó. Lúc mới đầu, bà với Liễu Du Các mới có chuyện mắt đi mày lại, nhưng dần về sau, người ta đã thấy hai người "dính cục", lại với nhau như keo sơn. Có điều, tại nơi cung đình, không giống như ở các chỗ khác. Bởi vì nơi đây, tai mắt nhiều, chạy đâu cho thoát bọn cung nhân dòm ngó. Bởi vậy, bà Đại phúc tân nhân một lúc tạm nghỉ trên sân khấu, không ai đề ý, bèn lén ra bên Thái hồ thạch đứng nấp đó để đợi kép. Thực thế, bà chẳng phải tốn bao nhiêu thì giờ, kép Các đã khéo léo theo đến gặp bà rồi. Vừa thấy mặt kép yêu, bà khẽ vả một cái nhẹ vào má trái kép Các, bảo: - Cậu hát quả hay thiệt! Minh khoái xem cậu hát quá! Liễu Du Các được khen, phổng mũi lên, nhưng cố làm ra vẻ khiêm nhường, khê cất tiếng thưa: - Không dám, phúc tấn quá khen đó thôi! Bà Đại phúc tấn lại nói: - Nơi đây đông người quá, sợ có kẻ dòm ngó, bất tiện trò chuyện. Nếu cậu rảnh, mời cậu lại phủ chơi. Vương gia cứ sáng sớm lên triều, mãi quá trưa mới về. Trong khoảng thời gian đó, cậu có thể tới phủ, bọn mình trò chuyện thì không còn gì phải lo ngại nữa. Liễu Du Các vốn đa tình đa dục, lẳng lơ giảo hoạt khi nghe được lời dặn dò của bà Đại phúc tấn, sướng đến điên người, biết đây là một cơ hội ngàn năm một thuở, đời nào chịu bỏ lỡ, vội dạ dạ mấy tiếng liên tiếp, tỏ ý vâng chịu rồi mới vội vã quay trở lại sân khấu. Đêm đó, xem xong tuồng, bà Đại phúc tấn tạ ơn Long Dụ hoàng hậu rồi ra về, trong lòng khấp khởi mừng thầm. Qua ngày hôm sau mặt trời đã lên cao, Liễu Du Các quả nhiên mò tới. Hắn nhắm cửa phủ Thuần thân vương mà tiến bước. Đến cổng hắn thấy quân cảnh vệ đứng lố nhố khắp đó đây, không dám vào. Hắn đứng xớ rớ một hồi, ngó mãi, nhưng rút cuộc cũng không dám. Hắn đứng thẫn thờ thêm một lúc nữa, phân vân không biết làm sao. Bỗng tự nhiên, khi phúc đến thì tâm linh hắn sáng nhanh lạ lùng. Hắn đi ngay ra cổng sau. Hắn cho rằng cổng trước có nhiều lính gác, ắt cổng sau phải ít đi, đôi khi không có nữa. Phủ đệ của Thuần thân vương có một khu vườn hoa ở mặt sau rất lớn. Khi Các chạy vòng ra mặt sau, đến cổng vườn hoa, thì thấy ngay trước cửa cổng, có một tiểu cung nữ đang đứng chờ. Tiểu cung nữ thấy mặt Các thì cười khì khì, cất tiếng hỏi: - Ông có phải là Liễu đại quan nhân đó không? Các thấy hỏi, vội gật đầu lia lịa đáp: - Phải! Phải! Chính phải đấy! Con tiểu cung nữ bèn nói: - Phúc tấn bảo tôi đợi ở đây đã từ lâu rồi. Nói đoạn, con tiểu cung nữ tủm tỉm cười, nguýt Các một cái thật dài, ngoắc Các theo. Liễu Du Các theo tiểu cung nữ vào trong vườn, quanh hết lối tắt đến đường ngang, đi xuyên qua bên này một lát rồi lại xuyên sang bên kia một lúc, đi loanh quanh một lúc lâu, hết mấy khúc đường quanh nữa mới đến một nơi mà Các chỉ thấy có lầu son gác tía trùng trùng điệp điệp. Cung nữ bảo Các: - Quan nhân hãy ngồi đây chơi, tôi vào báo cho phúc tấn hay đã nhé. Nói đoạn, nó ba chân bốn cẳng chạy vào phía trong. Một lát sau, con cung nữ chạy ra, miệng cười tủm tỉm bảo Các: - Quan nhân hãy vào chơi. Theo tôi nhé! Liễu Du Các gật đầu, lòng vừa mừng nhưng cũng vừa run, vội theo con tiểu cung nữ đi vào phía trong toà lâu đài, bước vào trong một căn phòng khách trần thiết hết sức trang nhã. Mời Các ngồi xong tên tiểu cung nữ rót một chén trà nóng đặt lên bàn đãi khách. Đúng lúc đó, Các bông nghe tiếng động của bước chân đi tới gần. Hắn quay đầu lại, thì ra chính là bà Đại phúc tấn đêm qua. Bà nói tiếng Bắc Kinh rất thạo, miệng cười tủm tỉm, bảo Các: - Hay lắm! Làm thế nào mà cậu tới đây được? Và tại sao mãi đến bây giờ mới tới vậy? Liễu Du Các vội cười đáp: - Trễ là tại tiểu nhân không biết đường, lại mất lối, phúc tấn tha lỗi cho. Bà Đại phúc tấn bảo Liễu Du Các: - Chỗ này trò chuyện không tiện. Bọn mình vào trong này kín đáo hơn. Thế là hai người lại đi vào phía trong thêm một đoạn nữa về phía đông, qua không biết mấy căn nhà căn phòng nữa. Tại điểm mới này lại còn đặc biệt hơn nữa. Nơi đây, trang trí toàn là đổ cổ quý giá, rồi vàng, rồi ngọc, rồi châu báu, hoa cả mắt. Bà Đại phúc tấn bảo Các ngồi xuống. Nước trà, bánh ngọt được mang lên, chuyện trò hàn huyên bắt đầu. Được lúc lâu, bà Đại phúc tấn bảo con tiểu cung nữ vào trong nhà lấy một bình rượu cúc ra. Nói rồi, lúc đó thấy vắng người, Liêu Du Các mới hỏi Bà Đại phúc tấn: - Vương gia lúc này vẫn chưa về? Bà phúc tấn đáp: - Ngày thường thì đã về rồi. Nhưng hôm nay có ý chỉ của Thái hậu, vương phải vào cung để hội nghị. Có lẽ phải đến chiều tối mới về tới nhà. Giữa lúc hai người trò chuyện, con tiểu cung nữ đã chạy lên một tay bưng một mâm cơm rượu thịnh soạn, miệng cười chúm chím, đặt lên bàn. Sau đó, nó mở cái lồng bàn, thật là đủ sơn hào hải vị so hai đôi đũa bằng bạch ngọc, bày ra trước mặt môi người chiếc chén cũng bằng bạch ngọc rồi nắp bình rượu, rót đầy hai chén, rồi mới khoanh tay đứng hầu bên cạnh. Kép Liễu Du Các ngửi thấy mùi rượu trong chén thơm phưng phức, một mùi thơm kỳ lạ, tưởng như hôm nay mình được lên ăn yến trên Diêu trì của bà Tây vương mẫu. Mùi thơm phưng phức càng xông lên mũi Các. Hắn không chịu nổi nữa, liền nâng đại ly rượu đưa lên môi nhấm nháp, chẳng cần đợi cho bà Đại phúc tấn mời mọc. Hắn vừa mới nhắp có một hớp, mà cảm thấy như rượu chạy khắp toàn thân, lồng vào ruột, chạy vào mạch máu, tuôn ra cả lỗ mũi, không chỗ nào là không thấy mùi thơm kỳ lạ của rượu. Nhân lúc khoái sướng đến cực độ vì thứ rượu quý, Các bèn cất tiếng hỏi bà Đại phúc tấn. - Là thứ rượu gì, mà thơm ngon quá vậy? Thực là một thứ rượu hiếm có trên đời. Bà Đại phúc tấn cười đáp: - Đấy chính là ngự tửu của Lão Phật gia đấy. Hồi nọ, quốc vương Cao Ly đã chẳng tiến cống đó sao. Năm đó, lễ vạn thọ Cao Tông hoàng đế, quốc vương Cao Ly sai sứ tiến cống bản triều ta. Trong số đồ cống, có mười bình rượu tân kỳ này. Cứ theo như lời tường thuật của sứ thần Cao Ly, thì thứ rượu này chính do tay quốc vương Cao Ly ủ men, gây mốc, và cất đấy Khi cất, nhà vua lấy năm thứ cúc đủ năm mầu, đem tẩm với mật ong, rồi trộn vào. Cất thứ rượu này nghe nói phải có lối cất riêng, vô cùng đặc biệt, chứ không như cất thường. Rượu cất thành được gọi là "Cúc Hoa Băng Lân Tửu". Người được uống thứ rượu này, đã thêm tuổi thọ lại tráng linh, kiện sức nữa. Từ đời vua Cao Tông rượu để lại cho đến nay, chỉ còn có một nửa, nghĩa là mười bình chỉ còn lại có năm. Có một hôm, Tây thái hậu bỗng nhớ tới chiếc bình rượu này. Bà bèn cho Thuần thân vương hai bình. Vương thấy đây là rượu quý nếu không phải là ngày lễ tế, quyết không đem ra uống bừa bãi. Hiện nay còn một bình nữa chưa khui. Rượu mà hôm nay bọn mình đang uống đây chỉ là rượu chiết trong chiếc bình uống dở đó thôi. Nói đoạn, bà Đại phúc tấn có lẽ cao hứng lắm, giơ cao chén rượu của mình tợp cạn. Từ đó, cả hai đều đắc ý với thứ rượu quý, cất chén liên hồi, có vẻ tâm đầu ý hợp lắm rồi. Con tiểu cung nữ đứng bên cạnh thấy tửu lượng hai người khá lắm, cứ việc thả dàn rót tiếp. Chuyến này thấy của lạ, lại có người đẹp ngồi trước mắt, Liễu Du Các đâm ra quá chén, mặt đã thấy đỏ, người đã thấy lắc lư, ngồi hình như không vững nữa. Còn bà Đại phúc tấn mặt hôm nay đỏ còn hơn gấc chín. Mắt bà liếc lia liếc lịa, tình trong người dường như đã có cơ muốn phá trái tim mà nhảy ra ngoài. Cặp tình nhân, một đệ nhất phu nhân với một kép hát, thực đã đến lúc mùi mẫn. Hai người cùng cười cùng kề vai sát vế, cùng mắt đi mày lại. Đã đến lúc quá sây rồi, không những say về rượu mà còn say về tình, bà Đại phúc tấn, bèn bảo con tiểu cung nữ dẹp hết mâm rượu, để đưa bà cùng với tên kép Các vào phòng trong vầy duyên cá nước. Thế là từ đó, kép hát Liễu Du Các ngày ngày ngang nhiên vào trong phủ đệ của Thuần thân vương. Trong phủ, nào là cung nhân, nào là bộc phụ, nào nô, nào tỳ, không một kẻ nào là không biết chuyện này, nhưng biết mà đâu dám nói, và nói để làm gì, để kệ cho những kẻ giàu sang quyền thế ăn vụng chứ, mình cũng có chút lợi là được rồi. Thực thế, từ khi lén lút vào trong phủ, ngoại tình với Đại phúc tấn, Liễu Du Các cũng chịu khó bỏ tiền ra để đấm móm mấy đứa nô tỳ biết chuyện. Trong phủ Thuần thân vương, không một đứa nô tỳ nào là không được. Ấy thế nhưng sự đời thường có những việc xảy tới mà không ai có thể ngờ trước được. Số là kép Các trong khi quá sướng, quá đắc ý, đã quên mất một tên: đó là tên quan sĩ Lão Cửu. Các đã quên rằng Lão Cửu đang ghen ngược với hắn, bởi vì trước đó chính bà Đại phúc tấn là con mồi của Cửu, khiến Cửu không còn được một chút phần thừa hương rớt nữa mà đến cả tiền cũng chẳng được một cắc thêm. Các chính là kẻ thù cướp cả tiền lẫn tình của Cửu. Không tính được cái chuyện tình nữa ta phải xoay sang chuyện tiền, Lão Cửu liền tìm cách gỡ gạc kép Các. Cửu ta cứ sáng sớm đã tới chực sẵn tại cửa vườn hoa. Vừa thấy mặt kép Các, Cửu hỏi tiền thẳng cánh, không do dự, e dè gì. Tiền mới xong, chứ nếu không ắt là có chuyện. Cửu doạ thế, thử hỏi Các không "xuỳ" ra sao được? Khổ cái là Cửu ta bắt được thóp Các, lần đầu thì ít, nhưng lần thứ hai, thứ ba, rồi thứ tư, thứ năm… Cửu ta đâu có chịu cái số tiền mà hắn cho là tiền "gà chết" đó? Hắn đòi càng ngày càng cao, đến độ anh chàng kép Các tự thấy mình không còn cách gì để cung ứng cho hắn nữa. Các cảm thấy mình bị "làm tiền" một cách trắng trợn quá, vừa giận vừa tức, đâm liều, không thèm cho nữa, mặc cho mọi việc đến đâu thì đến. Lão Cửu thấy kép Các bắt đầu lờ hắn đi, thì nổi xung lên, răng nghiến ken két, chỉ vào mặt Các mà doạ nạt: - Coi chừng. Thằng khốn kia, ông mách cho vương gia biết thì bỏ mẹ mi có chầu, nghe chưa? Từ khi quen biết bà Đại phúc tấn, Liễu Du Các tự nhiên ăn xài sang. Nhất cử nhất động, cái gì cũng tỏ vẻ quý phái ra mặt. Nào ăn vận, nào đãi đằng, tất cả đều phải hơn người. Đến vợ con, Các cũng đều cho xài của lạ, của quý, nào trâm giắt đầu, nào xắc tay, nào vòng, nào xuyến, hết thảy đều là của lạ. Người ta tự hỏi Các chỉ là một tên kép hát, tại sao lại có thể có được những đồ quý giá, phần lớn đều là những đồ tiến cống từ nước ngoài đưa vào? Đừng nói đến một tên kép hát, ngay đến các bậc quan to, quan lớn, nhất phẩm, nhị phẩm cũng chưa chắc đã có được những bảo vật như vậy nữa là! Một tên kép hát, dù có hay được thái hậu ân thưởng đi nữa, thì quyết cũng không thể có những của lạ như thế được. Người xài bảnh nhất khoái thưởng cho bọn con hát nhất là Tây thái hậu, ấy thế mà cũng chỉ cho bọn này vàng bạc, tơ lụa là cùng, chứ chưa từng nghe nói đến bảo vật. Những nghi vấn đó không cần phải tìm lâu mới ra câu đáp. Người ta đã nghĩ ngay tới mối tình vụng trộm giữa Các và bà Đại phúc tấn. Chính giữa lúc lời ong tiếng ve xộn xao này, Các lại bị Lão Cửu chỉ vào mặt hăm doạ đòi quyết ăn thua đủ với hắn. Mà trong vương phủ, Lão Cửu đâu có phải tay xoàng. Bà phúc tấn được rò câu chuyện, đùng đùng nổi giận, nghiến răng dằn giọng nói: - Hừ! Ta nghĩ hắn làm việc lâu năm nên mới cho hân có địa vị ngày nay. Không ngờ hắn lại dám vô lễ như thế. Để ta bảo vương gia đuổi cổ nó đi cho rảnh. Quả nhiên, vài ngày sau, Thuần thân vương cho gọi Lão Cửu lên nhà trên và bảo: - Ngươi theo ta đã lâu, ta lấy làm bất nhẫn phải đuổi ngươi đi. Song phúc tấn lại không vừa lòng ngươi. Vậy ngươi hãy thu xếp theo ta qua nơi khác ở ít láu. Lão Cửu không dám trái lệnh, đành dạ dạ luôn miệng rồi lui ra. Sau đó, Cửu thu xếp hành trang đi chỗ khác theo như lời Thuần thân vương dạy. Đi rồi, nhưng Cửu đâu có chịu bỏ cuộc, hơn nữa thua như thế này, Cửu tức lắm. Vốn không phải kẻ thường gặp việc khó mà nản chí, Cửu tức tốc huy động bạn bè vẫn thường chè chén xưa nay với nhau, kéo rốc tới cổng vương phủ để chờ đợi Các, quyết ăn thua đủ. Chẳng bao lâu, kép Các như thường lệ nghênh ngang bước những bước thật dài tới vương phủ, như chẳng coi ai ra gì hết. Vừa đến cổng, Các chạm mũi ngay vào mặt Lão Cửu, Cửu chẳng nói chẳng rằng, chìa ngay cánh tay phải ra, hất cao cái bàn tay bự vào mặt Các để đòi tiền. Thái độ của Cửu hôm nay có vẻ hống hách hơn những ngày nọ, có lẽ hắn ỷ có đồng bọn đang nấp sẵn đâu đây chăng. Nhưng lúc này, Các đã biết Cửu bị tống khứ đi chỗ khác rồi, Các đâu có sợ Cửu nữa. Thế là Các ngoảnh mặt làm thinh, như có ý không thèm đếm xỉa tới. Cửu đòi gắt. Lời qua tiếng lại đôi lần, câu chuyện đâm ra găng. Găng quá đôi bên dùng đến võ lực để giải quyết. Lúc ra đi, Cửu định tâm chuyến này cho Các một phen vỡ mày vỡ mặt, cho nên chỉ mong Các ta gây ra chuyện để gọi đồng bọn tới cho Các ăn đòn hội chợ. Việc đã đến lúc phải đấm đá, Cửu vội ra ám hiệu, tức thì đồng bọn của Cửu từ trong các góc tường, trong các ngõ kẹt xông ra. Nhưng Cửu không ngờ Liễu Du Các vốn xuất thân từ một tên xướng võ sinh, đôi tay cũng thuộc loại có hạng, chứ đâu phải vừa. Các thấy bọn Cửu xông ra, nghĩ rằng không dùng tới võ lực không xong, tức thì tay đấm chân đá tới tấp, bao nhiêu bản lãnh vốn có đều mang ra hết rồi, liếc nhìn thấy có một khoảng trống, hắn nhảy vút ra, để dễ bề xoay trở. Ra được nơi đất trống rồi, Các tả xung hữu đột, gạt bên nọ, đấm bên kia, thi thố hết mọi sở trường về võ thuật của mình ngày trước. Bọn Cửu không ngờ vớ phải tay độc, cứ tưởng đông người xông đại vào, ôm đại lấy, đấm mỗi người một đấm là kẻ khốn kia phải bỏ mạng. Sự đời nhiều khi biết đâu mà tính trước. Cả bọn em út của Cửu bị Các đánh cho một trận tơi tả Ngay cả Cửu cũng bị Các chặt cho một cái vào cánh tay trái gây luôn, chỉ còn cách ôm kẹp vào người mà chạy trốn. Chiến trường sôi động không mấy phút mà đã phải thu dọn cấp kỳ. Cửu vội hè bọn anh em chạy mất dạng. Liễu Du Các đại thắng keo đầu, lấy làm đắc chí lắm. Hắn lại ngang nhiên cất bước vào vương phủ, chẳng thèm để ý tới Cửu nữa. Lão cửu đã bại, nhưng đâu có chịu thua. Cửu còn phải báo thù chứ? Suy nghĩ mãi một hồi, Cửu vô mạnh vào đùi đến đét một cái, buột miệng nói: - Có rồi! Có rồi! Kế ở đấy chứ đâu mà phải suy nghĩ mãi? Thoạt đầu, Cửu nghĩ rằng hắn sẽ đem câu chuyện này tố cáo với Thuần thân vương, nhưng sau nghĩ lại và lý đoán rằng vương gia sẽ không tin hắn, cho rằng hắn bị bà phúc tấn đuổi sinh đặt điều. Rất có thể vương giả về phủ cật vấn chuyện này, bà phúc tấn lại mồm năm miệng mười, dùng lời ngon lẽ ngọt chối khéo thì câu chuyện chắc phải đi đến hậu quả tai hại cho hắn. Đánh cọp không bẹp đầu thì chỉ tổ mang hoạ vào thân. Nghĩ vậy, hắn tìm kế thứ hai. Hắn đợi lúc Liễu Du Các không đề phòng, lén vào trong phủ tự tình sẽ thi hành thủ đoạn. Rồi một hôm, Thuần thân vương sau khi bãi chầu, đang thẳng đường về phủ. Vương liếc nhìn thấy Cửu vội thò đầu từ trong xe ra hỏi: - Lão Cửu? Vội chạy đi đâu vậy? Lão Cửu nghe hỏi, giả bộ hoảng hết, rồi tỏ ý nghi ngại, cất tiếng run run đáp: - Nô tài vốn ở trong biệt thự. Không phải vương gia cho gọi sao? Thuần thân vương lấy làm lạ hỏi tiếp: - Ta cho gọi ngươi lúc nào? Lão Cửu đáp: - Dạ! Vừa có một tên tiểu thái giám tới gọi mà? Hắn nói vương gia hôm nay cho dọn tiệc để khoản đãi Liễu Du Các. Bởi thế, vương gia cho gọi nô tài tới Tụ Phong lâu để hầu rượu. Thì ra, hôm đó, Lão Cửu được tin đích xác là bà Đại phúc tấn có mời Liễu Du Các tới phủ để uống rượu tìm vui, hắn mới tạo ra câu chuyện đó để thi hành kế hoạch của mình. Thuần thân vương nghe Cửu nói vậy, cả giận mắng: - Ta có mời khách đâu? Mà sao lại có chuyện mời một kép hát hạ lưu hạ cấp như vậy được? Ngươi trông gà hoá cuốc rồi phải không? Lão Cửu tỏ vẻ trang trọng nói: - Thực vậy, chính nô tài cũng nghi ngờ điều này. Chẳng lẽ vương gia lại đi mời một tên kép hát tới ăn tiệc? Quả là một việc đáng cười. Song tên tiểu thái giám nói rõ ràng như vậy, chẳng lẽ nô tài lại không tuân mệnh của vương gia? Do đó, nô tài vội vã lên đường đi ngay, kẻo phạm tội bất kính với vương gia. Nếu không có chuyện đãi tiệc, thì tại sao có chuyện vương gia cho gọi như vậy nhỉ? Chẳng lẽ có kẻ xấu mồm đặt điều? Nhưng ở đó không có lửa sao lại có khói? Thực là kỳ! Thuần thân vương nghe Lão Cửu nói xong, như người vừa tỉnh mộng, bỗng đâm nghi, Vương nhớ lại ngày nọ, lúc sinh thời Tây thái hậu, Liễu Du Các thường có những hành vi ám muội khiến đã có lời đồn đại tới tai vương. Cũng có đôi lần, chính mắt vương đã thấy Các vào trong cung cấm, đã không biết an phận mà còn dám làm những điều ngang tai trái mắt. Bởi thế, hôm nay nghe đến tên Các và có chuyện lạ xảy ra ngay trong gia đình mình, thì đem lòng nghi. Vương tự nhủ: - Biết đâu chính tên Liễu Du Các đã lẻn vào phủ đệ mình gây ra chuyện bê bối gì chăng? Đúng, biết đâu được? Suy nghĩ một lát, Thuần thân vương đổi hướng đi. Ngài không cho xe chạy tới nhà Tải Chấn nữa mà quay về phủ đệ mình. Lão Cửu thấy thế, biết kế mình đã đắc, vội tiến lên mở đường lòng khấp khởi mừng thầm. Cửu dùng mắt ra hiệu cho đồng bọn chạy trước về vương phủ, khoá chặt cổng sau lại. Còn chính mình thì thôi thúc bọn đô tuỳ cho xe chạy thật nhanh. Chẳng bao lâu xe của Thuần thân vương đã về tới cổng phủ. Chiếu lệ thì cứ mỗi khi vương gia về tới cổng bọn lính thị vệ phải tung hô rầm rộ để lấy oai cho vương gia. Nhưng hôm đó, được Lão Cửu báo trước với những mật hiệu đặc biệt, tất cả đều im lặng như không có chuyện gì xảy ra. Bởi thế, đám hầu gái ở mãi trong nhà trong chẳng biết một tí gì về chuyện quan ông đã về. Chính giữa lúc này, bà Đại phúc tấn đang cùng kép Các cất chén mua vui, hể hả kê đùi kề vế ở trong trướng, tại hoa đình. Có ai ngờ được lúc này vương gia lại trở về? Bà phúc tấn thì cho rằng phủ đệ lầu ngang gác dọc, nhà cửa rộng thênh thang, vườn ao trông bát ngát, chỉ cần có vài tiếng ồn ào ngoài cổng báo hiệu quan ông đã về là có thể lẩn tránh được ngay. Chỗ nào chả là chỗ trốn, cất sao khỏi bị bắt quả tang còn sau đó, con hầu thân tín đưa Các luồn qua mấy dãy nhà thấp ra khỏi vườn hoa, chuồn qua cổng sau, thế là êm chuyện. Đường lối này thực ra đã xảy ra vài ba lần rồi. Bởi thế sau mấy phen kinh nghiệm, bà phúc tấn thấy cách bố trí của mình quá chu đáo, cho nên khỏi cần phải đề phòng, mặc sức cười cợt với kép Các, coi như quan ông tài thánh cũng chẳng thể biết được. Bà Đại phúc tấn lâu dần càng can đảm hơn, bà bày ngay tiệc, nào rượu quý, nào trân tu mỹ vị để thết đãi tình nhân ở tại hoa đình, trong vườn hoa phía sau, thả sức chè chén say sưa, chẳng thèm để ý tới việc đề phòng. Hoa đình này vốn là chỗ của Thuần thân vương nghỉ mát mỗi khi hè tới oi bức nóng nực. Trong đình, ngoài mấy cái án thư lớn nhỏ ra, toàn là đồ cổ quý giá. Cũng có một số báu vật rất đắt tiền nữa, ví dụ như một cây bảo kiếm, bao làm bằng da cá xanh, trên có cẩn ngọc bích, mỗi khi rút ra, kiếm loé ánh sáng, rọi thẳng vào đến choá mắt, tóc gáy dựng ngược lên. Cây kiếm này tên gọi Trạm Lư. Nó là một trong số sáu cây kiếm báu của Âu Dương Tử đúc ra, còn truyền lại hậu thế, và nổi danh khắp hoàn vũ. Thời trước, Âu Dương Tử chi đúc được có sáu cây kiếm trong suốt cuộc đời mình. Sáu cây kiếm báu đó là: hai cây kiếm Thư Hùng, cây kiếm Cự Khuyết, cây kiếm Thanh Hồng, cây kiếm Thái A, còn cây nữa chính là cây Trạm Lư này. Nói đến kiếm Trạm Lư thì người can đảm đến đâu cũng phải rùng mình. Chỉ cần thổi nhẹ sợi tóc cũng đứt ngay trên lưỡi kiếm. Kiếm chém người ngọt xớt, không thấy vấy máu. Kiếm chặt vào vàng bạc, sắt đá, như chém vào bùn. Khi đức Thánh tổ (nhà Mãn Thanh) kéo binh đánh Đại, Tiểu Kìm Xuyên, đức Cao tổ của Thuần thân vương đi tuần doanh đến một địa điểm thấy có ánh lửa sáng rực một góc trời. Sợ có quân mai phục, ngài bèn cho quân đi tuần thám xem sao. Quân chạy về báo nơi đó chỉ có một cái giếng khô, còn luồng ánh sáng thì từ đáy giếng phát lên, không biết do một vật gì. Đức Cao tổ tới bên giếng sai bọn lính nhảy xuống giếng, đào cho bằng được để xem cái gì. Thì ra là một cây bảo kiếm. Cây bảo kiếm đào được này chính là cây kiếm Trạm Lư hiện dùng làm vật truyền gia chi bảo trong phủ Thuần thân vương. Thường vào những ngày mưa gió, cây kiếm này tự nhiên kêu lên vo vo. Nếu đeo cây kiếm này mà lỡ giữa đường gặp giặc cướp hoặc thích khách thì tự nhiên cây kiếm này bật lên thành tiếng để cảnh cáo cho người đeo hay. Ví thử trong phủ của vương gia có giặc cướp hoặc những chuyện nguy hiểm sắp xảy ra, tức thì cây kiếm nhảy vọt ra khỏi vỏ chừng ba tấc và kêu lên ù ù… Khi Quang Tự hoàng đế vào cung nối ngôi, cây kiếm này đã một lần kêu lên ù ù như vậy. Do đó, bà Đại phúc tấn đã biết trước lành ít dữ nhiều, không muốn cho Quang Tự vào là vì thế. Chưa hết, trong phủ đệ Thuần thân vương còn có một cái lạ nữa: đó là cây Dao cầm. Tại sao cây Dao cầm được gọi là của lạ? Xin mời nghe qua chút ít lịch sử kỳ bí của nó. Cây Dao cầm gia bảo của nhà Thuần thân vương có một lai lịch khá ly kỳ. Cây đàn xuất hiện từ đời vua U vương nhà Chu (cách nhà Thanh chừng hai ngàn năm trăm năm), do chúa Khuyển Nhung đem tiến. Đàn có cẩn ngọc xưa, chạy dây vàng, thanh âm trong trẻo dị thường. Trong những đêm trăng trong gió mát, nếu có tay danh thủ đàn lên, tiếng du dương có thể nghe xa đến vài dặm. Thuần thân vương coi cây kiếm và cây đàn này như là sinh mạng của mình, không khi nào chịu để cho người ngoài xem và thưởng lãm. Trong vương phủ, trước đây có một người thị cơ (nàng hầu) có thể đánh được đàn này. Bà Đại phúc tấn rất thích chiếc đàn. Vì thế, bà bảo người thỉ cơ dạy cho bà học. Nhưng bà mới học có một nửa, thì người thị cơ bỗng lăn ra chết, thế là ngón đàn của bà bị gián đoạn. Thuần thân vương nhìn vật nhớ người, lại càng thêm quý cây đàn. Hiên nay, ngoài bà Đại phúc tấn đàn được vài bản ra, không còn có ai đàn được nữa. Hôm đó, giữa bàn tiệc đối ẩm trong hoa đình, Liễu Du Các bỗng chỉ chiếc đờn, hói bà ĐạI phúc tấn: - Phúc tấn có thể đàn vài bản được không? Bà đại phúc tấn cười đáp: - Trước đây, ta được người thị cơ dạy cho được ít bài, nhưng từ khi nàng chết đi rồi thì nghệ thuật đành bỏ. Chiếc đàn từ đó đến nay bỏ không, chẳng ai chơi cả. Các cười nói: - Tại hạ biết phúc tấn chơi đàn sành lắm. Hôm nay nhân tửu hứng, xin phúc tấn đàn cho nghe vài bản. Bà đại phúc tấn nghe lời yêu cầu của Các, cười duyên nói: - Ta học được đôi chút, có gì gọi là tài nghệ đâu mà đàn cho rườm tai. Thôi xin cho miễn! Liễu Du Các nhất định không chịu, quyết bức Đại phúc tấn đàn cho bằng được mới nghe. Bà Đại phúc tấn thấy tình nhân nài nỉ mãi chẳng tiện khước từ đành một mặt cười tình, một mặt đứng dậy đi lấy đàn. Bản đẩu tiên bà gảy là bản Bình sa lạc nhạn. Bản thứ nhất vừa ngừng, thì tiếng khen của Các làm cho bà vô cùng sung sướng. Bà đàn tiếp bản Lưu Bị tháo linh. Tiếng đàn nghe lảnh lót du dương, không thể chê được. Bà đàn sang bản thứ ba Phong tông tùng thanh. Rồi đến bản thứ tư Cảnh dương khai thái. Càng về sau, tiếng đàn của bà càng ảo não lâm ly. Các ngồi đó mà hồn như thân mãi nơi đâu. Bà Đại phúc tấn đờn hết bản thứ tư, bỗng ngừng ngay lại cười bảo Du Các: - Thế nào? Không đến nỗi làm trò cười chứ? Các vốn là một tên giảo hoạt, thấy hỏi, vội tìm những câu thật mùi mẫn để nịnh bà Đại phúc tấn, mong lấy lòng bà, rồi sau đó cũng giở giọng phê bình này nọ, cho ra điều ta đây cũng giỏi đàn, rành nhạc. Hắn lên tiếng: - Tiếng đàn của phúc tấn như có vẻ thiếu vui. Bà Đại phúc tấn cười nói: - Muốn vui, muốn nhộn ư? Có khó gì? Để ta gảy bản Xích bích ao binh cho mà nghe. Nói đoạn, bà Đại phúc tấn sửa lại dây đàn chút xíu, cho hợp với giọng ca, rồi bắt đầu bản nhạc. Mười ngón tay trắng như ngọc của bà thoăn thoắt chạy trên làn phím đường tơ, làm nảy bật lên những tiếng đàn vừa mau vừa mạnh, sát phạt như kiểu đao thương chạm nhau ngoài trận địa, những tiếng chiêng tiếng trống hãi hùng giữa ba quân. Nếu tinh ý, người nghe như nghe, như nhìn thấy một cuộc chém giết tơi bời trên chiến trường, chứ không còn là những âm thanh du dương, lâm ly, ảo não như mấy bản đờn trước nữa. Bà Đại phúc tấn đàn xong, liếc nhìn Các, nhoẻn miệng cười, tỏ vẻ kiêu hãnh phần nào về tài nghệ của mình. Nhưng khổ cái là tên kép Các quả tình dốt nhạc thật, hắn lại đành dùng chiến thuật khen bừa đi để nịnh người đẹp. Hắn khen được vài câu, bỗng nhớ ra rằng khi hắn lên sân khấu, thường nghe tiếng thanh la, tiếng chiêng, tiếng trống chung quanh, mà người ta thường bảo tình cảnh thật giống lúc Thập diện mai phục và hắn không ngờ rằng ngay ở trong bản đàn mà cũng có cái điệu này. Hắn nghĩ vậy, càng thêm ngạc nhiên cho đàn là một vật lạ, bèn cất tiếng ngây thơ hỏi bà Đại phúc tấn: - Cái đàn này mà cũng gảy thành Thập diện mai phục được sao? Bà Đại phúc tấn thấy hỏi, cười lên khanh khách, càng tỏ vẻ đắc chí, bảo Các: - Có chứ! Chỉ phải cái khó đàn được mà thôi. Ngón này, ta còn chưa luyện được tinh thục lắm. Sở dĩ bà Đại phúc tấn có lời lẽ khiêm nhường này là vì bà nghe Các hỏi câu trên, xem hắn như người sành điệu, sợ mình trở thành người dám múa rìu qua mắt thợ, làm trò cười cho thiên hạ. Thực ra bà đã lầm. Hắn chỉ có nghề đóng tuồng trên sân khấu, thường diễn tuồng Cửu bại Chương Cam mà biết được cái điệu trống, điệu chiêng của cuộc thập diện mai phục kia thôi. Đó là khi Sở bá vương xuất đài lên ngựa xông trận giữa những âm thanh rộn rã của đôi bên có vẻ tương tự, kép Các ta đoán bừa, may trúng, rủi trật, bất quá cũng chỉ bị bà Đại phúc tấn cười cho là cùng. Không ngờ Các ta đoán mò mà đúng, khiến bà Đại phúc tấn càng thêm giật mình, đành phải xuống nước y như một tay võ xoàng biết kẻ đứng trước mặt mình chính là một võ lâm cao thủ. Tại Bắc Kinh thời đó, ngón đàn của bà Đại phúc tấn kể đã được liệt vào loại tên tuổi. Đối với nhóm người Mãn có lẽ không có kẻ nào ăn đứt được bà. Ngay cả đến người Hán cũng chẳng có mấy ai hơn. Tên kép Các kể cũng là kẻ nhiều cơ duyên nên mới gặp được trường hợp hy hữu này. Liễu Du Các ngồi ngây như tượng gỗ. Hắn tuy dốt đặc về nhạc, nhưng tiếng đàn hay dở cũng có thể biết. Hắn vừa phục tài vừa tôn kính bà Đại phúc tấn. Hắn tự nhận mình thua hẳn một bực. Nhưng hắn lại tự kiêu, bởi vì không ngờ tạo hoá lại gia ân cho hắn được ân ái với một mệnh phụ phu nhân, được một tay nhạc trứ danh đàn cho nghe, hắn tự thấy mình như kẻ đang được hưởng hạnh phúc trên trần thế. Trong khi Các thả hồn mình bay bổng theo tiếng đàn du dương êm ái, thì bà Đại phúc tấn cũng đã đàn đến lúc say sưa, đắm đuối. Bà say sưa với men tình đang mơn trớn lòng bà, bà đắm đuối với những âm thanh lả lướt, mê ly quyến rũ… Giữa lúc hai người đang chập chờn theo tiếng nhạc điệu đàn, bỗng từ bên ngoài có một người khách "tri âm" bước vào… Người đó chẳng phải ai xa lạ mà là Thuần thân vương. Theo lệ thường thì Thuần thân vương hằng ngày trở về phủ, trước hết là tới thư phòng xem tất cả những công văn giấy tờ từ các nơi gửi đến, và danh sách của bọn ngoại thần, nội thần đem dâng cho vương lễ vật này nọ, sau đó mới vào phòng trong trò chuyện cùng Đại phúc tấn. Sau khi cơm nước xong, vương mới ra công đường để giải quyết mọi việc trong vương phủ. Thường đến giờ này, thì cũng là lúc Liễu Du Các đã ra đi, cho nên không bao giờ hai bên chạm phải mặt nhau. Những hành động này lâu ngày đã trở thành thói quen, cho nên anh kép Các hôm đó cứ ung dung ngồi nghe đàn, chẳng có gì đáng lo ngại. Nào ngờ Thuần thân vương đột nhiên trở về trước giờ đã định, nhất là lại còn quá sớm. Hôm đó, Thuần thân vương được Lão Cửu đưa đường, bỏ cái lệ thường vào qua thư phòng, đi thẳng vào hậu đường rồi ra phía sau xông thẳng tới vườn hoa, nghe tiếng đàn văng vẳng từ phía hoa viên vọng lại, vương biết tiếng đàn đó là của bà Đại phúc tấn. Trong phủ có còn ai gảy được chiếc đàn này nữa? Thuần thân vương lúc đó đã hoài nghi càng hoài nghi thêm. Vương bước những bước thật dài, y như chạy, vượt lẹ qua cổng vườn. Lão Cửu theo vương đến đây, nhưng hắn không theo vào. Thuần thân vương thấy Lão Cửu đứng lại bên cạnh, lòng càng xốn xang, bối rối, tin rằng ở bên trong nhất định phải có gì quái lạ, vương thấy mình tối tăm mặt mũi, lửa giận bốc lên ngùn ngụt. Đến lúc này, vương không còn gì phải thắc mắc. Những lời của Lão Cửu trước đây bỗng vụt tới, đánh thức mối nghi ngờ của vương. Giữa lúc lửa giận bùng lên phừng phừng vương bỗng thấy một tên đầy tớ cầm một cái be rượu, từ trong ĩ hoa bước ra. Hắn thấy Thuần thân vương, vội rụt cổ trở lui. Thuần thân vương thấy dáng bộ che che giấu dấu đó, lòng nghi ngờ tăng lên đến cực độ. Vương vội quát tên đầy tớ đứng lại rồi tự mình bước mạnh trên con đường đá, theo hướng tiếng đàn mà vào. Vườn hoa này của vương cho nên vương chỉ cần liếc mắt là biết. Vương biết rằng tiếng đàn phát ra từ hướng hoa đình thì Đại phúc tấn của vương nhất định ở tại nơi đấy. Thế là vương thăng bước lẹ tới hoa đình. Khi bước tới cạnh hoa đình, vương nghe thấy tiếng đàn đang lúc trầm bổng vô cùng du dương, quyến rũ, bỗng quát một tiếng lớn khen hay. Tiếng quát vừa dứt, thì tiếng đàn trên hoa đình cung câm bặt. Đại phúc tấn đã nghe rõ tiếng quát đó là chính của Thuần thân vương thì giật mình đánh thót một cái, hồn vía bay lên tận mây xanh. Ả vội đẩy cái đàn ra, nghiêng đầu nhìn ra ngoài. Sắc mặt bà Đại phúc tấn lúc này vụt biến từ đỏ sang xám rồi tím lại. Không để chậm một phút, Thuần thân vương đã bước lẹ lên hoa đình. Vương đã thấy rõ ràng Liễu Du Các đang ngồi, còn bà Đại phúc tấn thì đứng cạnh cửa sổ, người ngây ra như chết rồi, đôi mắt trợn ngược lên, hướng thẳng về phía vương. Lửa giận dâng cao đến chín tầng mây, lòng ghen sôi lên như nồi nước luộc, Thuần thân vương há rộng mồm quát vang lên như một con trâu điên: - Quân khốn nạn! Quân khốn nạn! Liễu Du Các đột nhiên thấy Thuần thân vương hiện ra, giật mình đánh thót một cái, trống ngực nện thình thịch. Trong lúc nguy cấp, thường thì trí vụt sinh. Thực thế, Liễu Du Các thấy Thuần thân vương nhô ra ở cửa đình, vụt đứng dậy, xông thẳng ra trước mặt vương như một chiếc tên bắn, rồi thừa lúc vương không đề phòng, hắn phóng một đá đánh huỵch vào ngực khiến vương lộn nhào đi mấy vòng, lăn luôn xuống cầu thang và cuối cùng nằm sóng sượt trên mặt đất. Không để mất thì giờ quý báu, kép Các ta nhảy vút một mạch ra khỏi hoa viên. Thật là một phen hú vía. Lão Cửu, tên oan gia của bà Đại phúc tấn đến nửa đường, thấy diệu kế đã thành công, liền rút lui ra ngoài. Nhưng tại sao trong một vương phủ rộng lớn, há lại không có lấy một kẻ hầu người hạ biết chuyện để phò cứu Thuần thân vương và bắt lấy tên kép hỗn xược dám co căng đá vương? Số là trong hoa viên, bọn con hầu đày tớ nếu không có lệnh không được lảng vảng tại đây. Chỉ riêng có quyến thuộc của vương là được quyền vào hoa viên mà thôi. Ấy cũng chính vì thế nên Lão Cửu khi vào tới hoa viên, liền dừng lại. Thành thử nơi hoa viên rộng rãi, Thuần thân vương tuy bị nạn mà vẫn không có ai tới để phò cứu. Hơn nữa, khi kép Các co giò đá một đá như trời giáng vào vương, khiến vương lộn nhào xuống đất, đầu va vào chân tường, bất tỉnh nhân sự, nằm lịm trên mặt đất một lúc khá lâu mới hồi tinh và gượng dậy được. Đến khi vương tỉnh đậy được thì tên gian phu nọ đã cao chạy xa bay từ lâu rồi. Nếu không có cái đá cứu mạng ấy, thì chỉ cần một tiếng hô "bắt" đủ để Các ta vào ngồi nhà đá từ lâu. Tên gác cổng hoa viên thấy Các hối hả chạy ra, đã định xông lên chặn lại để bắt, nhưng hắn nghĩ Các vốn là người tình của Đại phúc tấn, chẳng dại gì mà can thiệp, mặc dầu hắn đả có lời căn dặn trước của lão Cửu, hơn nữa, hắn còn nhớ rằng lão Cửu chỉ nói giữ cửa, chứ không dặn bắt người. Hắn cũng còn đắn đo khi so sánh hai thế lực: thế lực của Lão Cửu và thế lực của bà Đại phúc tấn. Tất nhiên thế lực của bà Đại phúc tấn lớn hơn thế lực của lão Cửu nhiều. Vậy thì dại gì mà can thiệp vào chuyện của người có thế lực lớn để hại đến mình, khi mình chỉ là một anh chàng gác cổng? Thế là tự nhiên tư tưởng chống đối bà Đại phúc tấn để đi theo lão Cửu tiêu tan ngay như mây khói. Hắn để mặc cho Các phóng mạnh ra khỏi cổng, mất hút tận khúc quẹo đường lộ bên ngoài. Thuần thân vương lúc này lửa giận cao ngất trời xanh, chỉ tiếc là không mang cây kiếm đi để cho bà vợ một nhát cho xong đời con dâm phụ làm xấu xa ô nhục cả tông môn. Vương gầm lên như hổ rống, hai mắt quắc sáng như mắt con tinh, chỉ chực nuốt con mồi đang bò lăn dưới chân. Nhưng gầm thét mới có được vài phút, vương bỗng nhớ đến thân phận mình, đến địa vị mình, địa vị một nhiếp chính vương, vội câm bặt ngay, chỉ còn biết nghiến răng lên ken két, tỏ vẻ như hằn học đến khó có thể sống nổi. Vương nghĩ rằng nếu mình làm om sòm lên, câu chuyện đổ bể ra thì chỉ xấu mặt mình, mất danh dự của mình mà thôi. Thực thế, nếu triều đình văn võ bá quan mà biết chuyện động trời và ô nhục này thì ai còn trọng vương nữa? Máu hận của vương to thật nhưng hoàn cảnh đã bắt vương phải xuống nước trước một chuyện đã rồi. Hơn nữa, vương còn nghĩ dù sao bà phúc tấn của vương cũng đã có bao năm tình nghĩa vợ chồng với vương khiến vương càng chẳng nỡ. Đương kim hoàng đế Phổ Nghi lại chính là con đẻ của bà, vốn được thái hậu rất cưng chiều, và còn là mối hy vọng của bà nữa. Nếu ví thử đổ bể, điều tiếng bay đi rất có thể còn nguy hại cho cả sự nghiệp của con mình là khác. Nghĩ đến đây, Thuần thân vương đổi hẳn thái độ. Vương không còn dữ tợn như khì nãy nữa. Vương thở dài một tiếng, khẽ cất tiếng dặn dò bà Đại phúc tấn: - Lần sau, cấm bà không được lui tới với tên kép hỗn xược ấy nữa, nghe chưa? Nếu không, coi chừng cái đầu của bà. Bà Đại phúc tấn nuốt lệ, run run nhận tội và cam đoan chẳng dám, mặt trắng bạch ra như sắc đất, đúng là sắc mặt của mấy con dâm phụ ngoại tình bị chồng bắt được quả tang. Lại nói tới chuyện cách mạng lâu nay sôi động khắp nước, Đảng cách mạng tuy đã khởi nghĩa nhiều lần nhưng đều bị thất bại, hy sinh quá nhiều đồng chí, thật là một điều đáng hận và cũng là đáng ngại. Nhưng đã gọi là hy sinh cho tổ quốc hoạt động cho cách mạng, thì mấy ai chịu đành bó tay. Lần này, họ đi vào thuyết phục đám quân nhân, bởi vì quân nhân mới có sức mạnh thực tế. Họ vận động khởi nghĩa. Rồi cuộc khởi nghĩa Vũ Xương nổ lớn. Tiếng đồn đại xa dần, máu ái quốc của người Trung Hoa lúc này sôi lên sùng sục. Thế là khắp các nơi hưởng ứng lời kêu gọi của cách mạng, của các nhà lãnh tụ từng nêu danh. Triều đình Mãn Thanh được tin động trời này, chân tay ai nấy run lên cầm cập, chạy ngả trước không đường, chạy lối sau không ngõ. Hơn nữa lúc bình thời, họ lại chẳng có đề phòng gì, làm sao lúc này đương đầu với quần chúng cách mạng đông đảo được. Bởi thế, Phổ Nghi, ông vua chót của nhà Thanh chỉ còn cách nhường ngôi… Các đảng cách mạng đã đồng loạt nổi dậy tại khắp nơi. Tiếng súng nổ, tiếng reo hò, tiếng đả đảo, tiếng chân chạy, tiếng ngựa hý vang rầm khắp thành phố Vũ Xương. Quân cách mạng trước nổ súng xa xa, nhưng chỉ trong vài tiếng đồng hồ đã xáp lại gần dinh quan hiệp thống. Nào nha, nào dinh, nào thự, nào công đường, tất cả đều bị vây hăm tứ phía. Có những cái ống loa bắc từ ngoài thét to vào bên trong dinh, bức bách quan hiệp thống họ Lê phải thừa nhận cách mạng, nếu không sẽ bị trừ diệt. Lê hiệp thống nghe tiếng loa, càng hoảng, ông nhất định không chịu cho mở cửa thành. Bà Nguỵ thị là vợ bé của quan hiệp thống thấy nguy, vội tương kế tựu kế, cho rằng nếu không thừa nhận giùm quan ông thì quyết là mất mạng. Bởi thế, bà vội vàng chạy ra trước công đường đứng ngang nhiên trước mặt mọi người, la lớn: - Quan hiệp thống, ngài chấp nhận rồi đấy! Ngài rất vui lòng hưởng ứng cách mạng, các người hãy chia nhau đi các nơi tiến hành công việc đi thôi. Thật là một câu nói đắt giá vào lúc đó. Quân cách mạng cho rằng đã chinh phục được một tướng lãnh của đối phương về mình. Trong khi bà Nguy thị thì mừng vì đã tìm được sự sống cho chồng và cả cho chính mình. Lời của bà Nguy vừa ban ra, quân cách mạng tin là thực đồng thanh hô vang mấy tiếng "Muôn năm! Muôn năm!" rồi ùn ùn kéo nhau sang hướng nha môn của quan tuần phủ Ngọc Châu. Tin cách mạng thành công ở Ngọc Châu chẳng mấy chốc loan truyền đi khắp nước. Chính phủ nhà Thanh được tin cấp báo từ bốn phương gửi về như bươm bướm, từ quan đại thần đến chú lính lệ các nhà quan, đều sờ lên gáy để xem cái đầu lâu của mình liệu còn tồn tại bao lâu nữa. Bọn thân vương thì chân tay rụng rời, mặt mày xanh xám. Bọn đại thần nhà Thanh lúc đó là Thế Tích, Cù Hồng Cơ, Thịnh Hanh Tôn, tất cả đều chỉ là một bọn giá áo túi cơm, thật là vô dụng cho đại cục. Trong lúc nguy khốn đó, một cuộc hội họp khẩn cấp được triệu tập, rồi loanh quanh mãi cả buổi, bọn đại thần sợ chết này bỗng nhớ đến Viên Thế Khải. Viên Thế Khải lúc đó hiện đang bị mất chức, nhưng không còn cách nào hơn, nếu không đưa Viên ra để cáng đáng công việc khốn nguy hiện tại. Thế là cả bọn nhao nhao lên đề cử họ Viên, phục chức lại cho Viên, sai Viên đi chỉ huy quân đội để chống lại quân cách mạng. Viên Thế Khải vốn là một tay túc trí đa mưu, trong lòng ôm ấp trí lớn. Viên người Hạng thành, xuất thân chỉ là một anh giám sinh. Viên nhờ được lão sư Lý Hồng Chương dẫn dắt, đã từng được chức Triều Tiên uỷ viên. Lúc Viên còn nhỏ tuổi, ông già của Viên là Viên Giáp Tam vốn đã từng làm mạc phủ của họ Lý. Có lẩn, Viên được vào yết kiến họ Lý. Quan sát tướng mạo cũng như hành động của Viên, dù rằng lúc đó còn nhỏ tuổi, Lý Hồng Chương đã phải thán phục, và thường nói với bọn mục hữu ở trong phủ: - Thằng bé này về sau công danh phú quý còn hơn lão phu xa! Các ngươi chớ có khinh thị hắn. Nhờ được sự trọng thị đó, Viên ở dưới trướng của họ Lý luôn một lèo được đến mười hai năm. Có một hôm, xảy ra chuyện ghen tuông rồi đánh nhau giữa một tên đầy tớ và một tên nhà bếp. Tên nhà bếp quá ghen, hung tiết, xách dao rượt tên đầy tớ. Tên đày tớ chạy cùng cả nhà trong, nhà ngoài, cuối cùng không còn chỗ nào trốn nấp được nữa, đành phải chạy đại vào thư phòng của Lý Hồng Chương. Tên nhà bếp đuổi theo quyết không bỏ, mặc dầu thấy ông chủ đang ngồi đường bệ trong đó xem sách, có Viên đứng hầu bên cạnh. Tên đầu bếp xách dao rượt vào thư phòng, đuổi chém tên đầy tớ: Lý Hồng Chương vẫn thản nhiên xem sách, giả tảng như không biết, hoặc có biết mà mặc kệ, không thèm đếm xỉa gì đến. Tên đầy tớ vào đến đây bí lối, bị tên đầu bếp tóm cố được điệu ra bên ngoài, dùng dao chém đứt lìa cổ, chết ngay tại trận. Câu chuyện xảy ra xong, về sau có người hỏi Viên Thế Khải: - Lý lão sư không để ý tới chuyện của kẻ khác, đó là cái tính cố hữu của ông chẳng nói làm chi. Ngươi ở ngay bên cạnh, tại sao lúc bấy giờ, thấy người ta sắp chết mà không cứu? Khải nói: - Tất cả bọn ngươi đều thấy tên đầu bếp cầm dao lăm lăm chực giết tên đầy tớ chứ, phải không? Tên đầy tớ cũng có đôi tay như tên đầu bếp, tại sao hắn lại không biết cầm dao mà chống lại? Hắn thấy rõ ràng có kẻ xách dao chém mình, ấy thế mà không dám chống lại, trong đời này, có kẻ nào hèn hơn hắn nữa không? Tên đầy tớ quả thực chẳng có nghị lực, có đởm lượng gì cả. Hèn mạt đến như hắn, thử hỏi để cho nó sống trên thế gian này có được ích gì? Để cho hắn chết đi, chính là một điều rất nên, rất phải, Lý lão sư không cứu tên đầy tớ chính là do ý kiến đó. Ý kiến của Lý lão sư thế, thì hà tất tôi phải cứu giúp tên đầy tớ vô dụng kia? Câu đối đáp này của Viên Thế Khải lọt đến tai Lý Hồng Chương. Lý vuốt râu cười khà khà bảo với tả hữu: - Thằng bé quả đã hiểu được lòng ta. Từ đó, Lý Hồng Chương càng thêm trọng thị Viên Thế Khải. Nhờ đó, chỉ vài năm sau, Viên nhảy ngay lên chức uỷ viên đồn trú tại Triều Tiên. Nguyên Lý Hồng Chương có tính rất lạ là chỉ thích kẻ can trường, dũng lược, trái lại rất ghét và rất khinh bọn người nhát gan, yếu hèn. Bởi thế, trong nhà, mỗi khi có bọn đầy tớ bộ hạ gây chuyện đánh nhau, đâm chém nhau, vô phúc cho kẻ nào thua trận, chạy lên mách thưa, tố cáo, đã không những không được bênh mà trái lại còn bị quở trách, chửi bới nữa là khác. Mặt khác kẻ nào thắng trận không những không bị trừng phạt mà còn được khen thưởng, khuyến khích nữa. Ấy chính vì cái tính quái lạ đó của chủ, cho nên bọn bộ hạ trong nhà Lý Hồng Chương mỗi khi phải chiến đấu, chúng thường rất quyết liệt, chỉ có tiến chứ không bao giờ lùi. Đó là tính của Lý, còn con người của Viên cung chẳng để cho ta có thể khinh thị được. Viên là một nhân vật vô cùng trọng yếu trong lịch sử đời Thanh mạt. Từ khi bị bãi chức ở Triều Tiên, Viên trở về Trung Quốc, được Vinh Lộc biết đến tên tuổi. Lộc sai Viên làm đốc biện tại Tiểu trạm luyện binh. Nắm được cơ hội nghìn năm một thuở Viên bèn sửa soạn ngay thế lực cho mình. Viên để ý thu dụng những tướng lãnh có khả năng ở dưới trướng để chờ lúc dùng tới. Hồi đó, người ta thường nghe nói tới danh từ "Lục quân tứ kiệt", đó là bốn tay tướng lãnh nổi danh một thời của Viên: Phùng Quốc Chương, Đoàn Kỳ Thuỷ, Vương Sỹ Trân và Trương Huệ Chi. Năm Mậu Tuất chính biến, bọn quyền phỉ làm náo loạn cả Trung Quốc, Viên Thế Khải đã làm tuần phủ tỉnh Sơn Đông. Rồi đến năm Tân Sửu, Tây thái hậu và Quang Tự hoàng đế hồi loan, Viên được tiến cử làm Tổng đốc tỉnh Trực Lệ. Lại đến năm mạt niên đời Quang Tự, cả hai cùng mất (tức Tây thái hậu và Quang Tự hoàng đế) Phổ Nghi vào cung kế vị, Thuần thân vương Tải Phong nhiếp chính, thì Viên bị mất chức về vườn. Tuy bị về vườn, nhưng Viên Thế Khải vẫn thường nói với những người thân cận của Viên: - Triều đình nhà Thanh không biết người biết của chút nào! Hiện nay, ta bị mất chức, nhưng ta biết chẳng bao lâu nữa họ lại phải dùng đến ta… Kịp đến khi quân cách mạng khởi nghĩa tại Vũ Xương, đúng vào năm Tân Hợi đời Tuyên Thống, Viên lúc đó đang ở nhà bỗng được tin Thanh triều cho công văn gấp đến triệu ra cầm binh chống cách mạng như trên đã kể. Được tin này, Viên nhảy lên vì sung sướng và quát vang cả nhà, đến nỗi vợ con, đầy tớ giật mình không hiểu chuyện gì. - Thời kỳ xuất sơn của ta đã đến. A ha ha! A ha ha! Thời của ta đã đến. A ha ha! A hà ha! Nghe Viên la lối om sòm, gia đình tuy đã biết lý do, nhưng đều cho là chuyện không tưởng. Không ngờ, ba hôm sau, câu chuyện lạc quan của Viên quả chẳng tếu tí nào. Triều đình nhà Thanh đã hạ chi triệu Viên vào cung, trao cho Viên quyền hành chỉ huy toàn quân đội. Thanh triều khi gặp Viên, liền huấn miễn Viên đôi ba câu, gia phong quan tước cho Viên, rồi giục giã Viên lên đường đi đối phó quân cách mạng. Viên thấy thời cơ đã tới cuộc đời của mình đã lên hương, liền làm bộ bất cần, đến nỗi Thanh triều phải hạ một đặc mệnh, coi Viên y như Tăng Quốc Phiên thời Hồng Tú Toàn thuở nọ. Đến lúc được thoả mãn lòng tự ái cũng như được đãi ngộ tương xứng Viên Thế Khải mới xuất đầu lộ diện với một vinh hiệu thật hiếm có trong thời đó. Viên thấy đại quyền đã nắm trong tay mình, bèn một mặt cho bố trí ngầm thế lực, một mặt sai Phùng Quốc Chương xuất quân, chống trả quân cách mạng. Thủ hạ của Phùng Quốc Chương lúc đó có khá nhiều những tay tướng giỏi nổi danh là thiện chiến, bởi thế khi giáp đấu với quân cách mạng chưa từng luyện chiến, Phùng đã thắng được vài ba trận đầu. Tuy thanh thế của Phùng bốc lên mây xanh, nhưng thế lực cách mạng lúc này đã thành tựu đến tám, chín phần, khó có thể đảo ngược được. Nhà Thanh nếu chỉ hy vọng vào đội quân của Phùng thì không thể nào nắm được phần thắng. Hơn nữa ngay lúc đôi bên đang chiến đấu kịch liệt nảy, Tôn Văn, nhà lãnh đạo cách mạng Trung Quốc có uy danh lớn đương thời đã được đám dân quân cách mạng suy tôn lên làm Đại Tổng thống lâm thời tại Kim Lăng (tức Nam Kinh). Ý dân trong thiên hạ đều hướng về cách mạng, về chế độ cộng hoà. Triều đình nhà Thanh chỉ nhờ vào có mỗi một quân lực của họ Viên cũng như họ Phùng, thực chẳng thấm tháp vào đâu. Viên Thế Khải tự biết rằng mình cưỡng lại với lòng trời quả là một việc khó khăn nguy hiểm. Do đó, sau khi chiến thắng được vài phen bèn án binh bất động, chờ đợi xem tình thế xoay chiều ra sao. Mặt khác, trong triều đình nhà Thanh lúc này tình trạng chẳng khác chi nồi nước sôi. Nhiếp chính vương Tải Phong ngay trong đêm vội vã chạy vào cung gặp Long Dụ hoàng thái hậu để triệu tập một cuộc hội nghị quan trọng. Hoàng hậu liền cho đi triệu Cẩn phi cùng tất cả những thân vương đại thần trong Mãn tộc như Tải Chấn, Tải Tuân, Thế Tục, Lục Nhuận Tường, Thái Phó để mở ngay một cuộc đại hội gọi là "Ngự tiền đại hội nghị". Trong cuộc họp, cả Mãn tộc được thông báo tình hình tường tận như sau: Viên Thế Khải án binh bất động, không chịu tiến quân. Các tỉnh kéo cờ trắng đầu hàng. Bọn Đoạn Ngọ Kiều đều tuẫn tiết cả Trương Lưu thua trận, đang đêm trốn chạy về Từ Châu. Trương Huân bỏ Nam Kinh rút lui chạy ra bên ngoài. Cái thế lớn của Thanh triều như thế là đã hết nếu có muốn miễn cưỡng hành động, cũng khó có thể khôi phục được. Với tình hình này, Mãn tộc quả thực đang lâm vào cảnh nguy khốn đến cùng độ. Được báo cáo tình hình vô cùng khôn nguy như vậy, tất cả Mãn tộc rúm người, mặt xanh như chàm đổ, đồng thanh quyết liệt xin nghị hoà với quân cách mạng. Tất nhiên chuyện nghị hoà phải dẫn tới trường hợp triều đình nhà Thanh bắt buộc phải hạ chiếu nhường ngôi, song song với những điều kiện được đặt ra. Những điều kiện như thế nào? Trước hết triều đình nhà Thanh yêu cầu phải được ưu đãi, quân dân cách mạng không được chém giết người Mãn. Mặt khác, Chính phủ Dân quốc được chính thức thành lập, nhưng chính phủ này phải hằng năm trợ cấp cho con cháu nhà Thanh ba trăm vạn đồng bạc. Đến đây, vương triều nhà Thanh coi như đã chấm dứt. Nếu kiểm lại cả một giai đoạn lịch sử Trung Quốc gần ba trăm năm dưới triều đình nhà Thanh ta thấy từ khi Ngô Tam Quế, chỉ vì một cô vợ bé đã nhẫn tâm đem người Mãn vào thống trị Trung Quốc, cõng rắn cắn gà nhà. Đa Nhĩ Cổn định đô cho nhả Thanh ở Yên Kinh, lấy nhiếp chính vương sự nghiệp mà mở nước, làm chủ nước Trung Hoa, đến đầu thế kỷ thứ hai mươi này, cũng lấy sự nghiệp của một vị nhiếp chính vương mà chấm dứt, tổng cộng tất cả là mười đời vua, trong khoảng hai trăm sáu mươi tám năm. Nhà Mãn Thanh trước khi vào Trung Quốc, lúc còn ở Mãn Châu đã có ba đời vua, bởi thế cộng lại là mười ba đời, do đó bộ tiểu thuyết lịch sử này mới có tên Thanh cung mười ba triều. Thực ra, cái tên này không chính xác lắm về mặt nội dung bởi bộ sách đầy rẫy những chuyện ly kỳ, rùng rợn, những chuyện xấu xa, tàn ác, lại cũng chẳng ít những chuyện hoang đường, những chuyện mưu mô của những kẻ sống trong cung cấm. Bởi thế, nếu gọi bộ tiểu thuyết này là "Thanh cung bí sử" có thể sẽ phù hợp hơn chăng?.