Tàng Châu

Chương 63 : C63

Edit: Châu Phức Viên đang mở tiệc thưởng mai, trong rừng mai, bạch mai như tuyết, hồng mai như mây. Dưới tàng cây mai có mấy chục nhạc công ngồi chơi đàn, nào đàn nhị, nào tỳ bà, nào sáo, âm thanh bay bổng như tiếng đất trời. Lý Mô đang nhắm mắt nghe đàn thì Tề Việt đến gần lão, nói nhỏ: “Chủ thượng, Tiết Độ sứ Hoài Tây xin gặp ạ.” Lý Mô không đứng dậy ngay, lão nhìn quanh các vị quan viên một vòng, hết thảy đều đang say mê trong tiếng nhạc, có người gật gù đắc ý, có người nhẹ nhàng đánh nhịp theo. Những người này không phải là quan lại cấp cao, thì cũng là gia đình hiển quý, chính giữa có một chỗ trống. Vừa lúc nãy, Lý Mô đã không nhịn được phải nện cho người nọ một trận. Lỗi là do người đó tự ý đưa tin cho quan phủ Lạc Dương, gây nên nỗi “mất tích” cho công tử phủ Thái sư. Đề nghị chinh phạt U Châu vừa bị Thánh nhân phủ quyết xong thì cháu nội Thái sư liền xảy ra chuyện, cả Kinh thành đều cho rằng do Lý Mô trả thù cá nhân. Nghĩ cũng biết, Thái sư không hỏi chuyện Triều chính đã nhiều năm, nay bỗng dưng nhẩy vào vũng nước đục, nhất định là để trả ơn một người. Mà người có thể khến cho Thái sư phải trả ơn ấy, cũng chỉ có Bạch Thạch Sơn Nhân mà thôi. Như vậy kẻ bày mưu tính kế sau lưng nhất định chính là đồ đệ ngoan Ngọc Hành của Bạch Thạch Sơn Nhân chứ còn ai nữa. Đám người này thú vị ghê cơ, rõ ràng Quảng Lăng Vương chủ động đến tìm Lý Mô lão, đòi liên kết cùng nhau đối phó ba trấn vùng Hà Sóc, lão triển khai kế hoạch còn trước cả thời hạn, đã bảo bọn chúng chớ có quấy rối, kết quả lại bị đâm ngang như thế. Thật là dở khóc dở cười. Nói cho ngay thì không phải Lý Mô phạt viên quan kia vì dùng thủ đoạn nham hiểm, mà phạt vì làm mà không hỏi ý lão, lại còn làm kiểu ngu như bò. Thái sư vốn trung lập, làm như vậy tức là đẩy ông ấy về phe đối lập rồi còn gì. Làm cho một nguyên lão tam triều, học trò trải rộng ba miền trở thành người đối địch, thật là không sáng suốt chút nào. Cho nên Lý Mô mới đánh người kia một trận, xong thì đuổi ra ngoài. Trên triều, Lý Mô lão đã trở thành người một tay che trời, thế lực vượt xa Thái tử. Nhưng Thánh nhân vẫn còn đang ngồi đó, Thái tử cũng chưa bị phế, chỉ còn một bước cuối cùng, không thể xem thường được. Người làm việc cho lão có thể cá tính, có thể không nghe quân lệnh, nhưng lão tuyệt không tha thứ những kẻ ngu xuẩn và phản bội. Lý Mô đứng dậy đi chầm chậm tới nhà nghỉ chân giữa hồ, nơi Ngu Bắc Huyền đang đợi. Ngu Bắc Huyền khom người làm lễ với Lý Mô: “Hôm nay thần đã cùng Tiết Độ sứ Vũ Ninh đi gặp sứ thần của Thổ Phồn đấy ạ.” Lý Mô ngồi xuống, không nói năng gì cả. Lão biết rõ nhất cử nhất động của Ngu Bắc Huyền. Nói đúng hay nói sai lão cũng biết cả. Quán Sở Tương là địa bàn của lão, chỗ nào cũng có tai mắt, có trốn đằng trời cũng không thoát. Ngu Bắc Huyền tiếp tục nói: “Thổ Phồn muốn bản đồ bố phòng biên giới, còn muốn thâu tóm Nam Chiếu, cho nên thần đã nghĩ cách trì hoãn mấy năm. Từ Tiến Đoan có vẻ không hài lòng lắm, và cũng không tỏ rõ thái độ là có định thành tâm dốc sức với ngài hay không. Thần không biết cách mình làm có thỏa đáng hay không, xin ngài chỉ thị cho.” Lý Mô nhắm mắt lại, tiếng đàn sáo từ rừng mai tựa như vẫn vang bên tai. Không biết là lão vẫn đang nghe nhạc, hay là nghe Ngu Bắc Huyền nói chuyện. Ngu Bắc Huyền thấy hơi bồn chồn, hồi lâu mới nghe được Lý Mô trả lời: “Ngươi làm không sai. Thổ Phồn có dã tâm, một Nam Chiếu nhỏ bé liệu có thể thỏa mãn cái dạ dày của chúng hay không? Dẫn sói vào nhà thì đơn giản, mời sói đi ra mới khó đấy. Lịch sử có nhiều ví dụ như vậy rồi, cho nên mới mất nước đấy, làm người vẫn nên có giới hạn cuối cùng. Thôi, không cô thì chợ vẫn đông. Từ Tiến Đoan gian xảo, nếu chuyện không thành, Bổn vương cũng không trách ngươi.” “Nếu Từ Tiến Đoan ngả về bên Quảng Lăng Vương …” Ngu Bắc Huyền gióng giả. Lý Mô bưng ly sứ trắng, men sứ thượng hạng, đúng là người nào của ấy. Lão cười tự tin: “Ngay cả Thái tử còn không đấu lại Bổn vương, con trai của Thái tử có thêm Từ Tiến Đoan thì sẽ thắng Bổn vương được chắc? Đồ không biết tự lượng sức mình.” Trong lúc nói chuyện, mắt Lý Mô hiện lên một vẻ ngông cuồng muốn đứng trên thiên hạ. Loại ánh sáng nóng bỏng đó cũng là đích phấn đấu của Ngu Bắc Huyền. “Tĩnh An à, ngươi phải nhớ cho kỹ. Nhiệt tình của đàn ông đối với giang sơn, là loại mưu cầu cốt tử. Còn lòng yêu thích đối với đàn bà, chỉ nên tao nhã như thích hoa thích cỏ mà thôi. Đừng quá để ý.” Lý Mô cười một tiếng. Ngu Bắc Huyền biết tâm sự của y không qua được mắt Lý Mô, bèn nghiêm nghị chắp tay thưa vâng. “Ma ma hầu hạ Trường Bình mới đến phủ, có nói với Vương phi là ngươi còn chưa chạm vào Trường Bình? Sao, không thích à?” Lý Mô uống một hớp, tán gẫu đến chuyện trong nhà Ngu Bắc Huyền. Ngu Bắc Huyền nhất thời cứng họng, trên trán mồ hôi nhỏ thành giọt. “Ngươi cũng lớn tuổi rồi, dù sao cũng phải có đời sau chứ. Ngươi là một người thông minh, phải không? Không cần Bổn vương phải dạy chứ hả?” Cho dù Lý Mô đang cười, nhưng giọng lão không cho phép phản bác. Đồ lão ban thưởng, người khác không thích tức là không cảm kích, thế tức là hai lòng. Lý Mô rất tán thưởng thanh niên này, thậm chí đã nghĩ xong phương án bồi dưỡng, nhưng dứt khoát lão không chấp nhận một kẻ mà lão không điều khiển được. “Thần hiểu nên làm thế nào rồi ạ.” Ngu Bắc Huyền cung kính trả lời. Lý Mô đứng dậy, vỗ vai Ngu Bắc Huyền: “Ta đang thết yến ở rừng mai. Đi, ta giới thiệu cho ngươi biết mấy quan viên.” Ngu Bắc Huyền đi theo Lý Mô, nghĩ lại còn thấy sợ. Mới vừa rồi, nếu y không vâng lời thì không biết kết quả sẽ ra sao. Lúc vừa tới, thấy có người đang được mang ra, hình như là quan viên trong triều thì phải, thương thế cũng không nhẹ. Hôm nay Ngu Bắc Huyền theo Thư Vương ra mắt, những người đó đều sẽ biết, y là người Thư Vương coi trọng nhất. Sau này, danh thiếp cùng lễ vật sẽ bay đến phủ của Tiết Độ sứ Hoài Tây như bươm bướm. Các phiên trấn, các quan viên theo phe Thư Vương đều sẽ mở rộng cửa cho y. Đây là phần thưởng của Thư Vương cho sự trung thành của Ngu Bắc Huyền. Đàn ông nắm quyền lực trong tay là có thể giẫm lên Giang sơn ngàn dặm, có thể tùy ý quyết định sinh tử của một người. Mùi vị chí cao vô thượng đó, Ngu Bắc Huyền cũng muốn nếm thử một chút. *** Thầy thuốc nói Gia Nhu phải tĩnh dưỡng, thế là nàng liền ở lì trong phòng nghỉ ngơi hai ngày. Mỗi ngày ăn uống rất ít, nói năng không nhiều, tâm trạng gần giống như lúc mới sống lại. Khi đó, nàng thấy mờ mịt với tương lại, còn bây giờ thì nàng đang phải suy nghĩ xem phải làm gì để thoát khỏi tình thế khốn cùng trước mắt. Nàng đã đưa tin cho cha, lại viết thư riêng cho mẹ và em trai. Tuy hôm đó nàng đã nhờ Lý Diệp nói với Lý Giáng mong được giúp đỡ, nhưng giờ nghĩ kỹ, nàng định nói lại với Lý Diệp để cha con chàng không phải giúp nàng nữa. Đừng nói bọn họ có khả năng giúp được hay không, coi như có thể giúp lần này, thì lần sau, lần sau nữa phải làm thế nào? Mới đầu, nàng chỉ nghĩ đơn giản, rằng có mối quan hệ thông gia thì Lý gia có thể giúp sức cho cha. Nhưng sau khi gả tới đây, nhìn rõ mối quan hệ giữa Lý gia với phủ Vũ Ninh Hầu và phủ Vệ Quốc công rồi, thì nàng đã hiểu ra một điều. Quan hệ thông gia của thế gia đều dựa vào mục tiêu hai bên cũng có lợi. Trừ phi có liên quan đến bản thân, còn đâu nếu xảy ra chuyện, bên nào bên nấy đều vội vã phủi sạch. Huống chi mỗi gia tộc đều ràng buộc đến rất nhiều tài sản, tính mạng, người đứng đầu nhất định không thể nóng nảy, vội vàng. Cho nên khi ấy Lý Diệp mới nói đừng đi thuyết phục Lý Giáng, bởi cầu xin cũng vô dụng. Nàng nghĩ chỉ cần làm sao cho Thổ Phồn không tấn công ngay lập tức, tranh thủ thời gian dăm ba năm, Nam Chiếu có thể trùng tu phòng tuyến, chỉnh đốn quân đội, chuẩn bị chu đáo. Nhưng làm thế nào để kéo dài thời gian là cả một vấn đề. Nam Chiếu từng rất rạng rỡ, ngày ấy quân đội Nam Chiếu thiện chiến, xung quanh lại có núi đá, có thể phòng thủ không cho quân địch tiến được nửa bước. Nhưng mấy năm nay, lòng người ly tán, lực lượng Nam Chiếu đã không còn như xưa, cho nên đã mấy lần bại trận dưới tay Thổ Phồn. Nàng thật sự không nên vì biết được những rối loạn kiếp trước, lại chỉ nghĩ đến việc đi tìm ngoại viện. Điều đứng đắn duy nhất có thể giúp Nam Chiếu, đó chính là dựa vào bản thân mình. Nàng cũng không muốn đặt gánh nặng này lên vai bất kỳ người nào nữa. Nghĩ thông suốt rồi, đương nhiên Gia Nhu khỏe lại rất nhanh. Lý Diệp đoán được sơ sơ tâm sự của Gia Nhu, nhưng không có cách nào khuyên giải được. Nàng không thể phó thác toàn bộ sinh tử tồn vong của Nam Chiếu lên người chàng, đó là chuyện hết sức bình thường. Dẫu sao trong mắt nàng, mình chỉ là một mưu sĩ bình thường, nào có bản lĩnh thay đổi càn khôn. Cho nên cái câu “giúp nàng” kia, rơi vào tai nàng chả có chút sức nặng nào. Nàng hy vọng Lý Giáng sẽ giúp, nhưng cha nhất định sẽ từ chối. Trong phòng có hai bệnh nhân, cả ngày thuốc thang ra ra vào vào, không khí xung quanh đầy mùi thuốc. Gia Nhu điều dưỡng hai ngày, cơ thể đã khỏe hẳn. Lý Diệp thì vẫn phải uống thuốc như cũ, thầy thuốc tới bắt mạch luôn, nhưng chỉ bốc thuốc trị nguyên nhân thôi. Nàng cảm thấy lần bệnh này của chàng kéo hơi dài, tinh thần cũng không tốt bằng lúc trước, ban đêm lúc ngủ vẫn còn ho khan nhiều. Gia Nhu lặng lẽ hỏi thăm Thu Nương, Thu Nương thở dài nói: “Tứ lang quân khi còn bé từng ngã xuống ao nước đá, khó khăn lắm mới cứu sống được, nhưng suốt đời mang tật. Những năm này vất vả điều dưỡng, mới khá hơn một chút, nhưng vẫn yếu hơn người thường rất nhiều, mỗi lần ốm thì rất lâu khỏi, uống thuốc thay cơm hàng ngày. Mà Tứ lang quân thì chẳng phải là một bệnh nhân biết nghe lời, suốt ngày lo toan này nọ. Chao ôi.” “Sau hôm thành hôn ấy. .” Gia Nhu nhớ, rõ ràng mấy hôm đó thấy chàng khỏe mà. Thu Nương giải thích: “Hồi đó lang quân đã đỡ đấy chứ, không hiểu sao mấy hôm sau lại yếu thế, hôm đi thi cũng là ôm cái đầu nóng sốt đi thi đấy.” Thế mà có thể thi đậu luôn? Gia Nhu thở dài trong lòng. Đầu tiên là Vương Thừa Nguyên, rồi đến chuyện Nam Chiếu, chính nàng đã mang đến phiền toái cho chàng. Nàng vẫn luôn đặt bản thân, rồi đến phủ Vân Nam Vương lên trên, chàng thì luôn ở phía sau thôi. Sau này sẽ không thể như vậy nữa. Hơn nữa màu sắc vết máu bầm trên ngực chàng chẳng thấy nhạt đi, mà lại còn đậm hơn. Nàng hơi lo lắng, lại hỏi Thu Nương: “Trước kia ở Ly Sơn thì ai là người chăm sóc bệnh tình cho Lang quân? Ta thấy thầy thuốc có vẻ không nắm được tình trạng bệnh của chàng.” Thu Nương gật đầu nói: “Lang quân đã đổi rất nhiều danh y, cho đến mấy năm trước thì gặp một vị…” Thu Nương dừng lại, không nói tiếp. Gia Nhu đoán có lẽ vị này chính là nhân vật then chốt giúp cho bệnh tình Lý Diệp thuyên giảm hẳn, liền thúc giục: “Bà nói tiếp đi.” “Ông thầy kia tính tình cổ quái, nhưng thật sự chữa bệnh rất mát tay. Ông ấy chữa bệnh cho lang quân, chỉ mất nửa thời gian dự tính, đã giúp Lang quân khởi sắc rất nhiều. Nhưng…ông thầy ấy muốn cho em gái đi theo lang quân, mà lang quân sống chết không chịu, ông ta tức giận bỏ đi. Sau này thì lang quân lại ngã bệnh trở lại.” Lý Diệp này thật là, giả vờ giả vịt tốt quá đi, làm cho người ta quên béng mất chàng một con ma ốm. Cú ngã đêm ba mươi kia, thầy thuốc bình thường không nhìn ra được nguyên nhân, nhưng khẳng định không phải chuyện nhỏ. Xem ra phải đi tìm cho ra ông thầy tính tình cổ quái kia, để chữa bệnh cho chàng. “Thầy thuốc kia tên là gì?” Gia Nhu hỏi. Thu Nương nhớ lại: “Hình như tên là Tôn Tòng Chu.” Hóa ra là quỷ y Tôn Tòng Chu! Gia Nhu giật mình, vị quỷ y này về sau trở thành nhân vật tiếng tăm lẫy lừng trong triều đình của Nguyên Hòa Đế. Là người có thiên phú tuyệt vời, sinh ra trong gia đình có tiếng về học thức, là người có thể cải tử hoàn sinh. Nguyên Hòa Đế từng ép đưa Tôn Tòng Chu từ miền rừng núi Thục Trung xa xôi ngàn dặm về Trường An để chẩn bệnh cho Ngọc Hành tiên sinh, nhưng Tôn Tòng Chu bất khuất, thà chết không nghe, nói mình đã đập bảng hiệu rồi, không chữa bệnh cho ai nữa. Nguyên Hòa Đế giận đến mức chút nữa thì chém Tôn Tòng Chu. Tính cách người này rất ngang bướng, đến Hoàng đế còn chẳng coi ra gì, thế thì còn còn sợ cái gì nữa đây? Nói tới người này, Gia Nhu lại nhớ tới một chuyện. Ngọc Hành tiên sinh kia hình như cũng rất ốm yếu, thời điểm đang đối đầu với quân của Ngu Bắc Huyền, từng có tin là bệnh tình Ngọc Hành nguy kịch. Trước khi Gia Nhu trúng kế bị bắt, còn có tin là Ngọc Hành đã qua đời lúc còn đang trong trận chiến, nhưng vì ổn định lòng quân, nên mới cố tình phong tỏa tin tức. Sau đó khi nàng bị giam trong ngục, còn nghe cai ngục nói, Tuy Ngu Bắc Huyền đã bị đánh lui, nhưng triều đình vẫn phái ba đại tướng gấp rút tăng viện cho Từ Châu, lại giao cho Thôi Thời Chiếu điều động lương thảo, đích thân trấn giữ ở Lạc Dương. Nếu Ngọc Hành tiên sinh còn sống, nhất định sẽ thừa thắng truy kích, sao lại phải huy động nhiều người chi viện như vậy, như là sợ Ngu Bắc Huyền sẽ đánh lại vậy? Cho nên suy ra, khả năng khi đó Ngọc Hành tiên sinh đã… chết. Gia Nhu cũng không giải thích được vì sao nàng lại để ý Ngọc Hành như vậy. Rõ ràng chỉ nhìn thoáng một cái từ chỗ xa xa, chưa bao giờ tiếp xúc, chắc Ngọc Hành không thể biết là nàng đang ở đó. Thế nhưng chỉ một cái nhìn đã in sâu trong tâm trí nàng, làm nàng không tự chủ mà để ý đến mọi tin tức của Ngọc Hành. Có thể nói đấy là một loại duyên phận rất huyền diệu. Tìm Tôn Tòng Chu không phải là chuyện đơn giản, chỉ trông cậy vào người của Gia Nhu thì sao đủ được. Người của Lý gia thì nàng không dùng được, suy đi tính lại, chỉ có thể tìm cơ hội, đến Thôi gia nhờ Thôi Thời Chiếu giúp. Nhân tiện thăm hỏi chị họ. Nay Vương Thừa Nguyên đã bình an rời Trường An, chắc hẳn Thôi Vũ Dung rất vui. Thế gian này, trong số những người có tình, cũng phải có lấy một hai đôi được như nguyện chứ. Lý Diệp ngồi sau bàn sách, chân đắp chăn nhung, đang lật xem một quyển sách. Gia Nhu bưng thuốc đến trước mặt chàng, nói: “Đến giờ uống thuốc rồi. Cẩn thận nóng đấy.” Lý Diệp nhận thuốc, đặt sách xuống uống một hơi. Chàng đặt chén thuốc không xuống án thư, nhận ra Gia Nhu vẫn đang nhìn mình chăm chú thì cười hỏi: “Sao nào? Trên mặt ta dính lọ à?” “Ta vẫn chưa hỏi chàng.” tay Gia Nhu đỡ cằm, nhìn chàng, “Sao chàng lại đối tốt với ta như vậy?” Ánh mắt Lý Diệp rơi trên cuốn sách: “Đây là vấn đề vớ vẩn, ta không trả lời đâu.” Gia Nhu quả thực không nghĩ ra, nàng đầy rẫy khuyết điểm, hơn nữa trong hai lần gặp mặt ở Nam Chiếu, chả lần nào nàng để lại ấn tượng tốt với chàng. Thế nhưng sau khi thành thân thì chàng toàn tâm toàn ý che chở nàng, không hề để ý chút nào đến chuyện hoang đường nàng đã từng làm, cũng cho tới bây giờ cũng chưa từng hỏi. Nàng vốn cảm thấy đó chỉ là trách nhiệm, nhưng hôm nay lời Thu Nương nói đã nhắc nhở nàng. Lý Diệp là một người hoàn toàn không để ý đến phụ nữ, gia nhân phục vụ đều là phụ nữa lớn tuổi. Quỷ y từng đề cử em gái cho chàng, nhưng chàng thà không trị bệnh cũng không chịu. Mình có chỗ nào đặc biệt nhỉ, mà lại được chàng yêu quý nhiều như thế? Ngọc Hồ vội vã bước vào, làm lễ nói: “Lang quân, Quận chúa, Quảng Lăng Vương cùng Quảng Lăng Vương phi vừa đến phủ đấy ạ.” Quảng Lăng Vương đến không báo trước, nhà họ Lý không kịp chuẩn bị gì. Lúc này mấy người đàn ông có công chức đều ở hoàng thành, có mỗi Lý Diệp ở nhà. Đám Trịnh thị ra cửa chào đón, Lý Thuần đỡ Lý Mộ Vân xuống xe, liếc nhìn Lý Diệp, vẻ mặt ôn hòa nói: “Ta đường đột tới thăm, không cần đa lễ. A Vân nhớ nhà, cho nên ta đưa nàng về thăm nhà một lúc.” Mặt Lý Mộ Vân ửng đỏ, trước tiên đến đỡ Trịnh thị lên: “Mẹ có khỏe không?” Trịnh thị mỉm cười gật đầu, đưa tay mời: “Xin mời vào đi.” Ánh mắt Lý Mộ Vân lướt qua Trịnh thị, nhìn thấy Gia Nhu đứng ở phía sau. Sau nhiều năm, hai người lại đối mặt. Gia Nhu thấy so với thời niên thiếu thì Lý Mộ Vân trưởng thành hơn rất nhiều, tóc chải cánh tiên, cài bộ diêu vàng, mặc y phục thêu hoa tròn, ánh mắt kiêu ngạo y như ngày trước. Năm đó Gia Nhu ở Lý gia mấy hôm, Lý Huyên với Lý Sưởng luôn đi học, người nàng tiếp xúc nhiều nhất là Lý Mộ Vân. Hai người chơi với nhau cũng chả vui vẻ gì, chi tiết cụ thể Gia Nhu không nhớ rõ, chỉ nhớ đêm đó Lý Mộ Vân bưng hoa quỳnh cất đi, không cho Gia Nhu xem. Đoàn người vui vẻ đưa nhau vào trong phủ, nữ quyến không tiện theo hầu Quảng Lăng Vương, cho nên chỉ có mình Lý Diệp đưa Lý Thuần vào phòng khách rộng rãi. Hai người ngồi trên sập, Lý Thuần cau mày nói: “Chỗ này có lạnh quá không? Sao dạo này khí sắc cậu càng ngày càng kém thế, người gầy đi rất nhiều. Quận chúa nhà cậu không chăm sóc tử tế à?” Lý Thuần vừa nói, vừa đặt tay lên trán Lý Diệp. Nhiệt độ cơ thể thì cũng bình thường, nhưng vì chàng đang ốm, nên sờ có vẻ lành lạnh. Lý Diệp sợ lạnh, lúc này đang đắp một tấm chăn nhung hình vuông, chàng kéo tay Lý Thuần ra, nói: “Không có gì đáng ngại. Mấy hôm trước Gia Nhu cũng bệnh, cho nên không chăm sóc ta được.” Lý Thuần phát hiện tay Lý Diệp còn lạnh hơn, liền nhất định bắt chàng nhét tay vào trong chăn: “Ta nghe nói rồi. Có tin tức tốt đây”, vừa nói vừa cảnh giác nhìn quanh. Lý Diệp nói: “Nơi này rộng rãi trống trải, rất khó ẩn nấp để nghe lén, ngài cứ nói đi.” “Có vẻ như Ngu Bắc Huyền và Từ Tiến Đoan chưa thỏa thuận được với nhau. Nghe đâu Thổ Phồn đã chấp nhận đề nghị của Ngu Bắc Huyền, tạm hoãn dùng binh với Nam Chiếu.” Coi như Ngu Bắc Huyền vẫn còn biết điều. Mà kể cả Ngu Bắc Huyền không có giới hạn, thì Lý Diệp cũng đã nghĩ xong phương pháp đối phó với Từ Tiến Đoan rồi. Mộc Gia Nghi không phải là một con cờ tốt, không thể đặt quá nhiều hy vọng vào cô ả được. Lý Diệp nói với Lý Thuần: “Xin ngài viết cho bố vợ của ta một phong thư, để ông ấy chủ động đàm phán với Từ Tiến Đoan, hứa hẹn hàng năm chia cho Từ Tiến Đoan hai phần muối và sắt của Nam Chiếu, đổi lại thì Từ Tiến Đoan đưa cho ông ấy mấy người thuộc hạ.” Chàng đọc mấy cái tên, đều là phụ tá dưới trướng Tiết Độ sứ Vũ Ninh cả, trong đó có hai người rất được Từ Tiến Đoan tin dùng, Lý Thuần cũng đã nghe tên, mấy người còn lại thì đều vô danh tiểu tốt. “Cậu định làm gì đấy?” Lý Thuần hỏi, “Vân Nam Vương là người rất có nguyên tắc, bao nhiêu Tiết Độ sứ đã ngầm tìm ông ta, mà ông ta có nhả ra đâu, làm sao cậu biết ông ta sẽ đổi ý chỉ bởi một phong thư của ta chứ hả?” Lý Diệp cười khẽ: “Bởi vì ngài từng giúp ông ấy, cho nên đương nhiên ông ấy sẽ cân nhắc lời ngài nói. Hơn nữa bây giờ không so với trước đây được, giờ là thời điểm sinh tử tồn vong của Nam Chiếu. Nếu vẫn khư khư bảo thủ thì liệu có thể tự cứu hay sao? Chờ đến lúc Thổ Phồn xuất binh xuôi nam thì không còn kịp rồi. Ngài nhớ nói thêm những lời này vào.” Lý Diệp nói chuyện quá nhanh, nghiêng đầu nặng nề ho khan hai tiếng. Quảng Lăng Vương vuốt lưng cho chàng: “Thế cậu muốn mấy người kia để làm gì?” “Thật ra thì người có ích thật sự trong đó là một phụ tá họ Triệu. Đó là một người nói lắp, nhưng vô cùng tinh thông binh pháp và quản lý quân đội, ta đã được xem mấy công văn người đó viết báo cáo bộ Binh, có rất nhiều nhận xét vô cùng độc đáo có thể giúp Nam Chiếu cải cách binh chế, huấn luyện binh sỹ càng mạnh hơn. Nhưng bởi vì người đó không biết cách biểu đạt, cho nên chưa từng được trọng dụng. Nhưng nếu bố vợ ta chỉ đòi một mình hắn, Từ Tiến Đoan thấy Nam Chiếu dùng hai phần muối sắt đổi một người, đương nhiên sẽ biết người kia có giá trị, lúc ấy làm sao mà đổi được nữa?” Lý Thuần bấy giờ mới hiểu, Lý Diệp cố ý nêu tên cả hai người phụ tá mà Từ Tiến Đoan tương đối xem trọng, đến lúc mặc cả thì chỉ cần Từ Tiến Đoan nhả họ Triệu cho Nam Chiếu là được. Người này không được trọng dụng ở Từ Châu, đến Nam Chiếu thì được tôn sùng là thượng khách, cảm ơn tri ngộ của Vân Nam Vương, sẽ tự hết lòng hết dạ dâng hiến. Ngọc Hành thật là tính toán đâu ra đấy. “Phụ tá Triệu kia hay như thế, sao không để ta dùng?” Lý Thuần chua xót nói. Lý Diệp dửng dưng cười: “Ngài đã có ta, còn cần người ta làm gì?” Đúng vậy, Lý Thuần đã có Ngọc Hành tiên sinh, thuộc hạng chuyên phụ tá cho vua, thì còn tranh mấy phụ tá nhỏ làm gì. Trong lòng Lý Thuần cảm động, nắm bả vai Lý Diệp: “Ngọc Hành, cậu và ta cùng nhau đoạt lấy giang sơn, sau này ta tất dành cho cậu tước vị Tam công.” Tam công là nhất phẩm, từ thời khai quốc tới nay, phần nhiều chỉ truy phong cho quan viên đã chết, chưa có tiền lệ phong cho quan viên còn tại triều, huống chi Lý Diệp còn quá trẻ tuổi. Lời hứa này còn nặng hơn ngàn vàng. Lý Diệp lắc đầu nói: “Ta không cầu những thứ này, chỉ muốn như mây bay trên trời thôi.” Lý Thuần đưa tay vào dưới chăn nắm lấy tay Lý Diệp, nắm rất chặt, không biết phải nói gì. Lúc Lý Thuần còn tứ cố vô thân, tiền đồ mịt mờ, Ngọc Hành đã tới, giúp đỡ Lý Thuần trên con đường lúc ấy còn chưa thấy điểm bắt đầu, không cầu gì cả. Lý Thuần phải làm sao để báo đáp đây. *** Lý Mộ Vân và Trịnh thị tâm sự chuyện riêng, nên Gia Nhu liền về khu phòng của mình trước. Nàng phát hiện quan hệ của Lý Mộ Vân cùng Vương Tuệ Lan cũng không thân thiết gì, hai người chỉ gật đầu chào nhau, không ai nói với ai câu nào. Còn Quách Mẫn thì về phủ Vệ Quốc công thăm nhà từ hôm mùng hai đến nay cũng chưa trở lại, chắc là không muốn thấy nhìn thấy cảnh Lưu Oanh được sủng ái. Nàng ngồi đọc sách trong phòng, trong lòng thầm nghĩ không biết Lý Diệp với Quảng Lăng Vương nói những gì. Hôm nay nàng nhìn thấy Quảng Lăng Vương lần nữa, quả thực rất khó liên hệ Quảng Lăng Vương của hôm nay với Đế vương uy nghiêm ở pháp trường đời trước. Rốt cuộc trong mấy năm này đã xảy ra những chuyện gì mà để Quảng Lăng Vương biến thành người như vậy? Phải chăng hễ ngồi lên vị trí Đế vương là trở thành vô tình bạc nghĩa? Lúc này, có tiếng Ngọc Hồ vang lên từ bên ngoài: “Quảng Lăng Vương phi, người tới chơi đấy ạ?” Gia Nhu đứng lên, đang muốn đi ra tiếp đón thì Lý Mộ Vân đã tự mình bước vào. Lý Mộ Vân cho tùy tùng ở bên ngoài hết, cười nói với Gia Nhu: “Hình như cô nàng của anh hai khó ở, cho nên mẹ ta phải sang xem thế nào. Ta ngồi một mình cũng chán, lại chẳng biết đi đâu chơi, nên tới chỗ này ngồi một chút. Cô không ngại chứ?” Gia Nhu lắc đầu, còn đang chưa biết nên xưng hô thế nào, Quảng Lăng Vương phi, hay là tỷ nhỉ? Lý Mộ Vân nói: “Cô gọi ta là tỷ đi.” Hai người cùng ngồi trên sập, Ngọc Hồ dâng trà, dùng ánh mắt hỏi Gia Nhu, Gia Nhu khoát tay một cái, tỏ ý Ngọc Hồ cứ lui xuống. Lý Mộ Vân vừa uống trà vừa nói: “Mẹ ta nói em trai đối với cô rất tốt. Tính nó lạnh nhạt như thế, từ trước tới nay chưa từng để ý quan tâm đến ai, cho nên ta mới đến hỏi thăm xem thế nào. Nhưng trên đường tới đây, ta đột nhiên nhớ tới khi còn nhỏ các người đã gặp nhau rồi, đúng không?” Gia Nhu không hiểu Lý Mộ Vân đang nói gì, ngạc nhiên lắc lắc đầu. Nàng với Lý Diệp, đã gặp nhau bao giờ đâu nhỉ? “Không à? Cô không nhớ ngày bé từng đến nhà ta à?” Lý Mộ Vân hơi nheo mắt, hồi đó Gia Nh quá nhỏ, chắc là không nhớ rồi. Không ngờ Gia Nhu lại gật đầu, nói hai chữ: “Hoa quỳnh.” Mặt Lý Mộ Vân hơi hồng, thuở nhở kiêu căng ngạo mạn, cả vùng Nam Chiếu còn chẳng coi ra gì, đừng nói tới con ranh quê mùa. Lý Mộ Vân hắng giọng một cái: “Hồi đó em ta cũng ở nhà, nhưng vì dưỡng bệnh nên không thích gặp người khác. Hiếm khi nó ra ngoài như đêm đó, nghe nói còn ngồi suốt đêm trên nóc nhà hứng gió lạnh, ngày hôm sau thì bệnh nặng. Cô ở trong sân mà không nhìn thấy nó à? Lạ nhỉ.” Lời Lý Mộ Vân như cơn gió mạnh quét qua lòng Gia Nhu, hơi thở Gia Nhu như ngừng lại, vô thức đặt tay lên bàn, thiếu chút nữa thì không kềm chế được để nắm tay Lý Mộ Vân. Giọng nàng run rẩy hẳn: “Tỷ nói là đêm đó chàng ngồi trên nóc nhà à?” Lý Mộ Vân gật đầu: “Hồi nhỏ, những hôm khó ngủ, nó đều thích ngồi trên nóc nhà ngắm sao. Nó biết tên rất nhiều ngôi sao như…” Gia Nhu lấy tay che miệng, vụng về nghiêng đầu đi, không muốn bị Lý Mộ Vân nhìn thấy nàng mất bình tĩnh. Bàn tay khác của nàng đang nắm chặt trong tay áo, nhưng vẫn rất run. “Nhóc có biết các ngôi sao trong chòm Bắc Đẩu gọi là gì không? Ngôi thứ nhất là Thiên Xu,… ngôi thứ năm là Ngọc Hành, cũng có nơi gọi là sao Liêm Trinh.” “Cô nhóc này, sao nhóc bám người thế?” “Nhóc mời ta đi Nam Chiếu hả? Vậy nhóc phải chỉ đường cho ta tử tế đấy, nếu không ta sẽ lạc mất.” … Gia Nhu bỗng bật dậy, không hề để ý đến Lý Mộ Vân, chẳng kịp xỏ giày đã lao như bay ra ngoài.