Tán gái sát thủ
Chương 1 : Quyết định sống lại
Theo truyền thuyết, đi từ thấp đến cao, Bụt đạo có mười sáu cảnh giới.
Bốn cảnh giới sơ khai: Luyện hồn thể, Tụ hồn lực, Hóa hồn tinh, Xuất hồn khí.
Năm cảnh giới còn lại là: Phá hồn thân, Phân hồn xác, Thoát hồn linh, Sinh hồn cách và Tách hồn bụt.
Cuối cùng năm cảnh giới cao siêu nhất chính là Thực Bụt, Hậu Bụt, Tiền Bụt, Linh Bụt, Thần Bụt, Bụt Gia.
Tất nhiên đỉnh của đỉnh vẫn luôn là một vị tổ sư khai sinh ra môn đạo pháp này, đó chính là cảnh giới Bụt Tổ.
Nhưng Bụt là gì?
Lúc ban đầu, Bụt là một danh từ khác (được sử dụng rộng rãi trong dân gian ngày xưa) để nói về Phật.
Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, ngay từ đầu công nguyên với truyện cổ tích Chử Đồng Tử học đạo của một nhà sư Ấn Độ. Và Luy Lâu (thuộc tỉnh Bắc Ninh) là trụ sở của quận Giao Chỉ đã sớm trở thành trung tâm Phật giáo quan trọng. Ngoài ra, các truyền thuyết về Thạch Quang Phật và Man Nương Phật Mẫu xuất hiện cùng với sự giảng đạo của Khâu Đà La (Ksudra) trong khoảng các năm 168-189 là một trong những mình chứng rõ ràng cho sự du nhập của Phật.
Do tiếp thu Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ nên từ Buddha (bậc giác ngộ - Phật) được phiên âm trực tiếp thành Bụt, từ Bụt được dùng nhiều trong các truyện dân gian. Phật giáo Việt Nam lúc ấy mang màu sắc của Tiểu thừa, Bụt được coi như một vị thần chuyên cứu giúp người tốt, trừng phạt kẻ xấu. Sau này, vào thế kỷ thứ 4-5, do ảnh hưởng của Đại thừa đến từ Trung Quốc mà từ Bụt bị mất đi và được thay thế bởi từ Phật. Trong tiếng Hán, từ Buddha được phiên âm thành Phật đà, Phật đồ rồi được rút gọn thành Phật. Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm. Đến đời nhà Lý, nhà Trần, Phật giáo phát triển cực thịnh, được coi là quốc giáo, ảnh hưởng đến tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống. Đến đời nhà Hậu Lê thì Nho giáo được coi là quốc giáo.
Thế nhưng, đó chỉ là những gì được sử sách ghi lại. Mà sử sách ghi lại thì có thể là truyền thuyết, hoặc nó cũng đúng nhưng không đúng một trăm phần trăm.
Theo như sử sách, vào giữa thiên kỷ I - TCN và thiên niên kỷ I- CN, có một bộ tộc, tên là Bách Việt, do một trăm tộc người Việt kết hợp mà thành. Địa điểm định cư của bộ tộc này là vùng đất mà ngày nay thuộc lãnh thổ phía nam Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam. Danh từ Bụt chính là xuất hiện vào thời đại này. Thời đại mà tộc người Bách Việt tồn tại được một thời gian. Nếu lấy mốc thời gian với nước Trung Quốc thì là vào cuối thời kỳ Xuân - Thu chiến quốc.
Vào thời đại này, các cuộc chiến đấu theo kiểu man rợ thường xảy ra. Lại bởi vì các bộ tộc ở đây còn quá sơ khai nên người ta tu luyện theo kiểu tăng cường võ lực để chiến đấu là chủ yếu.
Sống trong cảnh man rợ và luôn đối mặt với những cuộc chiến tàn khốc này, một nhân vật có tên tục là Bụt, vì người thân bị kẻ thù sát hại nên quyết tâm luyện võ để trả thù. Tuy nhiên kẻ thù của hắn chính là những người trong gia tộc đứng đầu bộ tộc Bách Việt. Chính điều này đã làm cho huy vọng trả thù của hắn trở nên mong manh.
Không còn cách nào khác, hắn bắt buộc phải tìm ra một con đường tu luyện khác để khiến bản thân mạnh mẽ hơn.
Thế nhưng, việc này cũng không phải dễ dàng. Cho dù hắn tu luyện như thế nào thì cũng không thể vượt qua giới hạn của con người. Việc trả thù của hắn càng ngày càng thấp đi.
Mãi cho đến khi Tần Thủy Hoàng đem quân xuống chiếm đất và xác nhập bộ lạc Bách Việt vào tộc người Hán thì hắn mới có cơ hội trả thù.
Vào lúc đó, kẻ thù của hắn theo một tộc người Bách Việt xuôi về Nam, do việc bảo vệ lỏng lẻo, lại không đề phòng nên bị hắn mai phục, đánh lén. Cuối cùng những kẻ thù của hắn cũng chết đi. Đồng thời cũng do chuyện này nên việc di cư bị chậm trễ, làm cho quân đội của Tần Thủy Hoàng đuổi kịp.
Rồi sau đó, trong khi hầu hết các tộc người Bách Việt đều bị đồng hóa vào nền văn hóa Hán, thì một hậu duệ trong bộ tộc đã thoát khỏi ách đồng hóa, giữ vững được bản sắc dân tộc của mình. Đó chính là tộc Lạc Việt, một bộ tộc đã đánh đuổi được ngoại xâm, thoát khỏi sự thống trị của Trung Hoa vào thế kỷ X, rồi phát triển thành dân tộc Việt Nam cho đến tận nay.
Đối với tất cả mọi người thì nhân vật tên Bụt chính là một tội nhân thiên cổ. Nhưng mấy ai có thể hiểu được mối thù của hắn. Nếu như họ không cố gắng truy tìm hắn thì việc di cư làm sao có thể chậm trễ được.
Chẳng qua đây chỉ là cái cớ mà Bụt dùng để biện minh. Cho dù hắn có tìm kiếm thêm nhiều lý do đi chăng nữa, thì mọi việc cũng đã xảy ra. Vì thế Bụt bắt buộc phải chịu một phần trách nhiệm và tội lỗi đã gây ra. Chính điều này đã dằn vặt hắn nhiều năm trời. Đến khi Bụt không chịu đựng nỗi sự ân hận trong lòng thì cũng là lúc Bụt quyết định quỳ bên một bụi cây, nhịn đói cho đến chết, nhằm để tạ tội với dân tộc của mình.
Bụt thật sự ngây thơ nhưng hắn chỉ có thể làm như vậy. Bởi vì khả năng hiện giờ của Bụt vô cùng nhỏ bé. Bụt chỉ là một kẻ tầm thường thôi.
Nhưng nhịn đói cũng không phải là một chuyện dễ dàng. Sau một vài ngày nhịn ăn nhịn uống thì cơ thể của Bụt không thể chịu đựng nỗi. Vì thế Bụt đành phải tìm kiếm thực phẩm để lót bụng, để sinh tồn.
Bụt rất yếu đuối, yếu đuối vô cùng. Hắn đã thất bại trong việc dùng nghị lực để đánh thắng nổ lực cầu sinh. Hắn cứ vậy mà sống lay lắt bên bụi cây bên nơi con sông nhỏ. Trông hắn càng ngày càng ốm eo gầy mòn, chứ không thể nào chết đi được.
Vài năm trời sống như một người tu khổ hành, Bụt từ từ thấu hiểu một vài đạo lý. Để rồi sau một lần tình cờ vò vò một chiếc lá (là cây râm bụt, nhưng lúc này chưa có tên), hắn mới ngộ ra Bụt đạo.
Loại cây này, khi ta vò nó, thì sẽ tạo ra chất nhớt. Theo như hắn nghĩ, loại chất nhớt này chính là tinh nguyên. Nghĩa là loại cây này sẽ hấp thụ không khí, hấp thụ năng lượng trong trời đất rồi chuyển hóa thành tinh nguyên.
“Vậy tại sao con người không thể tu luyện theo cách hấp thụ năng lượng của trời đất để chuyển hóa thành tinh nguyên?” Từ ý nghĩ đó, hắn mài mò tìm hiểu và từ từ ngộ ra một lối tu luyện mới, đây cũng là hướng tu luyện mà hắn đã tìm kiếm bấy lâu.
Thời gian lặng lẽ trôi qua, Bụt cũng không biết mình đã tu luyện bao lâu.
Cuối cùng Bụt cũng dừng trạng thái tu luyện. Không phải là hắn mệt mỏi, mà bởi vì hắn không thể tiếp tục tu luyện được nữa. Tu luyện cần phải đi đôi với ngộ đạo.
Không hề nản chí, Bụt tiếp tục nhìn vào bụi cây bên cạnh. Bụt cho rằng, chỉ cần nghiệm ra chân lý nhỏ của loài cây này thì sẽ tìm ra chân lý lớn.
Đúng như Bụt tưởng tượng, sau vài năm trời quan sát thì loài cây này có một chân lý vô cùng cao thượng. Hoa của loài cây này khá là đẹp. Thế nhưng, trong bốn mùa chúng không bao giờ tỏa ra hương thơm, hay mùi khó chịu nào. Nó giống như một loại hoa không thể hiện sự cao quý, không bị ô nhiễm bởi dục trần. Nó nở hoa làm đẹp cho cảnh vật, làm đẹp cho đời nhưng không bao giờ thể hiện hay đòi hỏi một thứ gì cả. Một cái đẹp quá bình thản, cái đẹp chỉ thể hiện qua sự thấp hèn của một loài cây bụi.
Nhờ điều đó, Bụt ngộ ra chân lý sống, hắn cần phải làm gì đó để chuộc lại lỗi lầm, chứ không phải là khư khư một chỗ. Hắn phải quên đi lỗi lầm trong đời để làm một người lương thiện.
Bụt đứng lên, việc đầu tiên hắn muốn làm là giúp đỡ dân tộc mình khôi phục lại nước nhà. Hắn đã thành công, và sau khi đã thực hiện được ước nguyện này, Bụt tiếp tục đi trừng phạt kẻ ác, giúp đỡ người hoạn nạn. Bụt làm một cách lặng lẽ, không cần phải được vinh danh.
Kể từ đó, trong lòng của mỗi người dân Việt, ai nấy đều khắc ghi công ơn và lưu truyền hai chữ “Bụt” “Bụt”.
Lại nói đến bụi cây nơi Bụt quỳ và ngộ đạo. Thực chất nó chỉ là một cây bụi, chẳng có cái tên gì cả. Nhưng để cảm tạ nhân duyên khiến Bụt ngộ đao nên Bụt đặt tên cho bụi cây là râm bụt. Ý để nói, loại cây này đã râm bóng, bầu bạn cùng với bụt và giúp bụt ngộ ra được chân lý tối cao.
Nhưng bởi vì loại cây này chứa một loại chất nhớt, hơn nữa chữ râm có vần điệu giống với chữ dâm, nên người đời còn gọi đây là cây dâm bụt, nhằm chỉ những con người có tính dâm nhưng hiền như bụt.
Còn Bụt thì vẫn luôn giúp đỡ cho đời, chính vì nhờ vào nhân quả này nên tu vi của bụt ngày càng tăng tiến. Nhưng để rồi Bụt nhận ra một điều: “ Tuy thiện quả của hắn ngày càng nhiều, thế nhưng giác ngộ của Bụt không thê nào hoàn thiện được”
Để rồi vào khoảng thế kỷ thứ 3, khi Phật Giáo du nhập vào Việt Nam, thì Bụt bắt đầu xảy ra nhiều biến hóa.
Một người có tên là Thích Ca Mâu Ni, còn gọi là Phật A Di Đà, có thể nói là Tổ Sư của Phật Đạo, khi thấy được thiện quả và nghiệp duyên nặng nề của Bụt thì ngài đã mở lòng và giúp Bụt giác ngộ.
Vì quá trình ngộ đạo của Bụt có phần giống với Phật, (Phật bên gốc cây bồ đề, Bụt bên bụi cây râm bụt) nên ngài đã đưa Bụt đến một gốc cây Bồ Đề và nói rằng.
- Hỡi đạo hữu, ngươi cũng từng giác ngộ như ta, thế nhưng quá trình ngộ đạo của ngươi vẫn còn nằm trong vòng luẩn quẩn và nghiệp quả nặng nề. Vậy nên, ta đưa ngươi đến gốc cây bồ đề này, mong người sẽ ngộ ra một thứ gì đấy. Hãy cố gắng ngộ, nó sẽ giúp người ngộ, ta cũng nhờ nó mà ngộ ra nhiều thứ.
Sau khi nói xong, Phật liền rời đi. Để lại nơi đó, một người tên Bụt, ngồi bên gốc cây bồ đề, cố gắng ngộ thêm một đạo lớn.
Cây bồ đề này rất kỳ lạ. Lần đầu tiên Bụt chứng kiến thì đã nghĩ tới điều này. Nó rất đặc biệt, đặc biệt ở chỗ: “Ban ngày hút khí độc, thở ra khí tốt; còn ban đêm thì hít khí độc trở lại rồi thở ra khí tốt. (Đây chỉ là lối diễn giải của Bụt, nếu nói theo ngày nay thì loại cây này hít khí cacbonic và thở ra khí oxi.)
Tiếp theo, Bụt nhận ra loại cây này là loại thực vật già nhất nhưng vẫn có hoa (loài thực có hoa già nhất mà có thể kiểm chứng được tuổi).
Hoa râm bụt thể hiện vẻ đẹp không sắc không mùi, thì cây bồ đề lại cho ta thấy, đây là loại cây có sức sống vô cùng vô tận, nó sinh ra, nở hoa là để làm đẹp mãi mãi cho đời, trường tồn cùng với thời gian. Nó giống như một người cao thượng đi giúp đời mãi mãi, không bao giờ biết mệt mỏi là gì. Nó đúng là một tinh hoa hoàn mỹ, một thiện quả tuyệt luân mãi mãi trường tồn.
Còn rất nhiều yếu tố ẩn chưa trong cây bồ đề. Bụt đã thông hiểu được vô vàn chân lý từ nó. Loại cây bồ đề này mang rất nhiều yếu tố tâm linh, giúp người an tâm, thanh tịnh, dễ ngộ đạo. Hơn nữa, lá của loài cây này có hình trái tim, điều này thể hiện cho một tấm lòng thuần khiết, một tinh thần đại thụ bất diệt, bao dung vô vàn trái tim.
Qua những điều đó, bụt thấy được bồ đề cất chứa một cái gì đó rất cao siêu. Cao siêu đến mức "người hay vật không thể tồn tại giống như thế vào ngày mai, cũng giống như toàn thể vũ trụ.”
Cứ thế Bụt nhắm mắt, tịnh tâm, cảm nhận về đạo của mình- con đường mà Bụt đã đi.
Vậy giác ngộ của Bụt là gì? Có giống như Phật không? Tất nhiên là không, nhưng đại đạo như trăm sông đổ về biển. Đạo nào thì cũng là Đạo thôi.
Bụt Đạo được hiểu là một con người bình thường dùng phương pháp khổ luyện để chuyển hóa năng lượng trời đất thành tinh nguyên, rồi trở thành cao nhân. Sau đó, tiếp tục gieo trồng thiện duyên, xóa nghiệp quả. Đến khi khổ luyện thành công, thiện duyên đầy đủ và nghiệp quả không còn thì mới đi đến con đường giác ngộ.
Bụt chính là vậy!
Chân lý nào cũng là chân lý nhỏ.
Chân lý nhỏ góp tạo nên chân lý lớn.
Đạo là chân lý vô biên.
Sau khi giác ngộ thành công, để cảm tạ ân của đức Phật, Bụt quyết định gia nhập vào phật giáo, để trở thành bậc cao tăng. Nhưng bởi vì con đường tìm đạo của Bụt bất đồng với Phật, hơn nữa cảnh giới giác ngộ của Bụt đã gần như là tương đương với Phật nên việc trở thành cao tăng sẽ rất khó khăn. Điều này cũng sẽ làm lộn xộn đến giáo lý Phật pháp.
Đứng trước lời khuyên chân thành của Phật, Bụt lại trở về với con dân Lạc Việt của mình và lại ra sức giúp đời. Nhưng cái ân của Phật rất lớn, tuy Phật không cần Bụt phải báo, nhưng đã làm người thì phải biết báo ân, mà Bụt thì phải hơn người hàng tỷ tỷ lần.
Do đó, khi Bụt giúp đời thường tự xưng mình là Phật, vì điều này sẽ tăng công đức cho Phật, cho dù công đức của Phật đã là vô lượng chăng nữa thì Bụt vẫn làm thế.
Ngày nay, dân gian thường lẫm tưởng giữa “Bụt và Phật” cũng là do những điều trên. Nhưng ta nên nhớ rằng, trong những lần Bụt xuất hiện thì hình ảnh, quần áo của Bụt không hề mang dáng vẻ của người tu hành.
Nhưng tại sao, Bụt lại có sự trùng với từ Buddha. Đó chỉ là sự trùng hợp giữa ngôn từ, đây cũng chính là một nhân duyên giữa “Bụt” và “Phật”. Có thể nói, quá trình tu luyện của Bụt khác Phật nhưng tấm lòng thì đều như nhau.
Vậy Bụt giáo tại sao không xuất hiện? Bởi vì Bụt đã từng gia nhập Phật giáo nên không muốn lập thêm giáo phái. Tuy nhiên, Bụt Đạo vẫn được truyền lại cho chúng sanh.
Vậy ông Bụt và các đệ tử đã đi đâu? Cái này thì vẫn là một truyền thuyết.
Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó là truyền thuyết.
Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó thuộc về truyền thống.
Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó được nhiều người nhắc đến hay tuyên truyền.
Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó được ghi lại trong sách vở hay kinh điển.
Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó lý luận siêu hình.
Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó phù hợp với lập trường của mình.
Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều ấy phù hợp với định kiến của mình.
Chớ vội tin điều gì, khi điều đó được căn cứ trên những dữ kiện hời hợt.
Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều ấy được sức mạnh và quyền uy ủng hộ.
Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều ấy được các nhà truyền giáo hay đạo sư của mình tuyên thuyết.
Đừng nghe những gì ta nói, đó chính là sai đấy!
Cuộc đời của hắn thật sự rất lênh đênh và nhạt nhẽo.
Lúc sáu tuổi, cha mẹ của hắn ly hôn, mỗi người một nơi. Hắn về ở với ông bà nội.
Lúc bảy tuổi, hắn bôn chen vào đời, bán từng tờ vé số để kiếm thêm thu nhập.
Lúc tám tuổi, hắn bị bọn Trung Quốc bắt cóc.
Tưởng chừng cuộc đời như vậy sẽ kết thúc trong căn phòng phẫu thuật nội tạng. Ai dè, hắn được một người đàn ông cứu giúp, rồi đưa vào trung tâm huấn luyện sát thủ.
Cuộc đời đen tối thì lúc nào cũng đen tối. Tại đây, hắn phải nỗ lực học tập tất cả các kiến thức về sát thủ.
Học tập đương nhiên là tốt, tuy nhiên nó chỉ tốt khi người ta thích học tập. Cái độ tuổi của hắn, nó quá nhỏ để biết nhận biết học tập là tốt.
Hắn chỉ biết rằng, nơi đây chính là địa ngục tầng thứ mười chín. Hắn không muốn sống tại nơi đây, không muốn, trăm lần không muốn, ngàn lần không muốn. Hắn hi vọng được thoát ra kiểu sống chết chóc hàng triệu lần.
Cuộc đời đâu phải là mơ, nhân sinh thì như một giấc mộng.
Hắn vẫn duy trì kiếp sống sát thủ đến năm ba lăm tuổi.
Tại sao? Tại sao hắn không thể làm sát thủ đến năm bốn mươi tuổi? Tại vì có một nhiệm vụ đã thay đổi cuộc đời của hắn.
Nhiệm vụ: “Đạt một cuốn cổ tịch trên tay của người Pháp”.
Đối với hắn, nhiệm vụ nào thì cũng là nhiệm vụ, miễn là phù hợp với hắn thôi.
Chỉ có điều cuốn cổ tịch đó có khắc nhưng âm Hán tự.
Hán tự thì hán tự, tuy hắn là người Việt nhưng hắn cũng là một sát thủ. Hắn không ghét ai cả. Những khi cần thiết hắn có thể giết tất cả.
Hắn không biết nói tiếng hán nhưng hắn lại thông thạo chữ Trung - một loại ngôn ngữ cũng từ cách phiên âm chữ hán mà ra. Chính vì lẽ đó, hắn hiểu được ý nghĩa của những dòng chữ hán này.
Trên bìa cuốn thư tịch đó được khắc một dòng chữ.
Lạc Việt - Truyền Thuyết Bụt.
Vâng! Cuốn thư tịch này là của Lạc Việt, mà Lạc Việt chính là Việt Nam, điều này không cần phải bàn cãi.
Từ khi làm một sát thủ, hắn rất ít khi trở về nước nhà, bởi vì hắn đi đến đâu thì nơi đó phải đổ máu, hắn là một người Việt nên hắn không muốn sát hại người Việt.
Thật ra, hắn cũng chẳng có tinh thần yêu nước gì cả, nhưng bởi vì còn một chút ký ức mờ mịt và mông lung về đất nước mình nên trong thâm tâm của hắn vẫn còn chứa đựng những tình cảm khó diễn tả.
Chính xác mà nói, đất nước Việt Nam rất đẹp, lịch sử của dân tộc Đại Việt rất hào hùng. Nó đẹp vô cùng, cái đẹp mà chỉ có trong sách vở.
Hắn cũng chỉ biết tới cái đẹp của đất nước mình thông qua sách vở, những cái xấu, hắn ít biết tới, có lẽ do người ta ít đề cập tới.
Mặc dù hắn biết rất ít, thế nhưng những cái đó chính là một chút nhỏ nhoi mà tâm tư hắn trầm lắng, lúc buồn buồn hắn thường nghĩ đến. Hắn không biết tình cảm là thứ gì cả, lúc nhỏ đã vậy, trưởng thành cũng thế, không ai cho hắn tình cảm cả.
Nói về vấn đề cuốn cổ tịch, lúc ban đầu, hắn cũng định giao cho người đưa ra nhiệm vụ, nhưng khi biết đó là một người Trung Quốc thì mọi thứ liền thay đổi.
Đất nước Việt Nam từ lâu đã vô cùng nhỏ bé nhưng nó chưa bao giờ khuất phục người Trung Quốc cả. Không phải hắn đề cao đất nước của mình, mà sự thật là nó như thế, lịch sử chính là chứng minh.
Tất nhiên, chữ “người” ở đây cũng chỉ nói đến giai cấp cầm quyền của Trung Quốc, chứ thật ra người với người đều như nhau cả.
Nói chung là vậy, hắn cũng không biết lịch sử bao nhiêu, nhưng đã mang dòng máu Việt Nam thì không bao giờ được khuất phục Trung Quốc, cha ông ta đã làm được thì không có lý do gì mà ta không thể làm được.
Không nói tới chuyện phát huy, nhưng ta cần phải biết kế thừa.
Hắn là một người lạnh lùng, một đỉnh cấp sát thủ hùng mạnh nhưng cuộc đời hắn vẫn bị người ta kiềm chế. Chính vì bị cầm chế nên hắn rất thích những con người không khuất phục trước quyền lực, sức mạnh.
Hắn không biết có yêu Việt Nam không, nhưng hắn rất thích các vị anh hùng trong lịch sử Việt.
Nào là Hai Bà Trưng, nào là Hưng Đạo vương, hay là một Hồ chủ tịch đại tài trí. Hắn không thể nhớ hết các anh hùng Việt, họ quá nhiều, có lẽ phải nói đến cụm từ “vân vân và vân vân”.
Hắn nhất quyết, nhất định, không bao giờ trao cuốn cổ tịch cho người Trung Quốc, có rất nhiều nguyên nhân để hắn quyết định như vậy.
Với lý do đó, hắn sắp đặt kế hoạch, tạo ra tình huống để làm thất bại nhiệm vụ này. Hắn biết nếu nhiệm vụ này thất bại thì món tiền trăm triệu USD sẽ không cánh mà bay.
Nhưng tiền không phải tất cả, tiền chỉ quan trọng ở chỗ có nhiều hay ít thôi.
Hắn có rất nhiều tiền nhưng hắn lại không có một chút tình cảm nào. Hắn đang cố tạo cho mình một chút tình cảm, nói đúng hơn là hắn làm theo bản tính của mình.
Hắn bỏ đi phần thưởng và quan trong nhất là hắn đã mất tất cả chiến tích được ghi nhận trong tập đoàn sát thủ “Bravo”. Có thể nói, quy định của tổ chức rất tàn khốc, nếu như nhiệm vụ thất bại thì chính là tử vong. Ở nơi khỉ ho cò gáy đó, sát thủ không thiếu, cái thiếu chính là nhiệm vụ.
Nhưng hắn là một sát thủ đỉnh cấp, một nhân vật rất quan trọng đối với tổ chức, nên hắn là một ngoại lệ.
Sau khi đã giải quyết một số vấn đề ở tổ chức, hắn đem giấu cuốn cổ tịch đi, rồi tìm cách đưa về cho tổ quốc mình. Nhưng cũng chính vì điều đó nên hắn bị cố chủ phát hiện ra âm mưu.
Và thế là một kẻ sa cơ, ngàn người truy sát.
Pháp quốc, Trung Quốc và rất nhiều nước hùng mạnh khác cũng ngấp nghé cuốn cổ tịch này. Thế giới hầu như bị cơn sóng ngầm chấn động
Tại sao lại vậy? Nó cũng chỉ là một cuốn cổ tịch thôi mà, nó quan trọng đến thế sao, quan trọng khiến cho lực lượng của các quốc gia phải rung động, quan trọng đến mức khiến tổ chức của chính mình cũng tham gia đuổi giết?
Hắn không biết nó quan trong như thế nào nhưng hắn cũng không suy nghĩ nhiều, điều quan trọng mà hắn cần phải làm đó chính là chạy trốn.
Chẳng ai dám chứa chấp hắn cả.
Đất nước của hắn sao? Đứng trước áp lực của vô số các quốc gia lớn thì chẳng ai có thể giúp được hắn. Họ huy vọng hắn đem cuốn cổ tịch cao chạy xa bay. Bởi nếu nó được đưa lên bàn đàm phán để thảo luận việc sở hữu thì kết quả cũng chỉ là “trao không cho kẻ khác”.
Kể từ đó, hắn sống chui sống rủi trong các vùng hẻo lánh. Rồi một thời gian sau đó, hắn tìm được một hang động nhỏ nằm ở miền bắc đất nước. Lúc này, hắn quyết định dừng chân.
Tưởng đâu như thế là điểm cuối của cuộc đời nhưng ai dè, khi hắn tham thiền thì lại hiểu ra ý nghĩa của cuốn cổ tịch này.
Đây chính là cuốn bí tịch để tu luyện thành Bụt trong truyền thuyết.
Đối với hắn, quyển bí tịch này cứ như than sưởi ấm mùa đông. Hắn cắm đầu vào tu luyện. Hắn sẽ cho tất cả kẻ địch biết.
Hắn không phải là một củ khoai lang thường mà chính là củ khoai tây độc.
Thời gian cứ thế mà lặng lẽ trôi đi. Tu luyện chính là không biết tháng ngày, ngộ đạo chính là không biết đến thời gian.
Ngày hắn xuất quan chính là ngày nực cười nhất của hắn. Một cái ngày mang những con số tuyệt đẹp. Ngày 1, tháng 1, năm 2500.
Nó đẹp tới mức bó tay chấm com, què giò chấm nét.
Ôi! Thời gian hắn sinh sống chính là thế kỷ hai mươi mốt! Ôi! Kẻ địch ngày ấy đâu rồi!
Năm trăm năm cứ thế trôi đi, thời gian đúng là khái niệm mơ hồ, khi mông lung thì chẳng ai có thể nhận biết được thời gian.
Hầy….!
Rời động, xuống núi, hắn tiếp tục sống. Sống một cách khô khan, không có mục đích. Và có lẽ đây cũng là một kiếp sống yên ổn nhất của hắn.
Hắn cũng dễ dàng hiểu thôi! Bởi vì với đẳng cấp bây giờ của hắn, nếu người nào đụng chạm vào hắn thì đúng là một đứa xui xẻo, ngu ngốc và có vấn đề.
Mười lăm năm bình thản trôi qua, tại thế giới khoa kỹ này không có gì làm khó được hắn.
Hắn sống rất thanh thản, một cuộc sống mà rất nhiều người hằng mơ ước.
Chỉ có điều, sống bình thản trong một thời gian vô cùng vô tận chính là điều buồn tẻ nhất, tuy đẳng cấp hắn khá cao nhưng cảnh giới ngộ đạo thì sao bằng được Phật tổ, Bụt Tổ.
Cố gắng tìm mục tiêu sống nhưng mà chẳng có lí tưởng nào khiến hắn nhiệt huyết thực hiện cả. Nhớ ngày đó, trước khi tu luyện, hắn tự nhủ sẽ đưa đất nước mình cùng sánh vai với các cường quốc năm châu, bốn bể.
Ấy thế mà, con dân của tổ quốc Việt Nam đã thực hiện điều đó rồi. Bây giờ, đất nước của hắn đã vô cùng mạnh mẽ rồi, nó đã đứng vững trên Lục Địa Á Âu.
Tại sao phải nói là lục địa Á Âu? Tại vì vào lúc này, tất cả các quốc gia ở châu Á và châu Âu đều chỉ do một tổ chức lãnh đạo.
Vẫn còn quốc gia, vẫn còn người điều hành nó, nhưng tất cả phải thực hiện theo pháp luật của tổ chức.
Hắn không quan tâm điều này, ai quản lý cũng tốt, tất cả cũng chỉ là người, tất cả cũng đều có cái tên là người điều hành, hay kẻ quản lý, nặng hơn một chút là người cầm quyền, kẻ thống trị.
Một ngày kia, hắn quyết định, đứng trên đỉnh cao nhất của thế giới này, muốn tất cả mọi người phải khuất phục. Thế là hắn đã đi theo hướng sai của việc truy cầu sức mạnh.
Nhưng không sao, với đẳng cấp thứ chín trong truyền thuyết Bụt, thì đứng trên cái đỉnh của thế giới này là một điều rất dễ dàng.
Chỉ trong thời gian vài tháng, tất cả những người cầm quyền đều phải khuất phục và làm theo mệnh lệnh hắn. Đó là một điều rất đương nhiên, không ai sinh ra là muốn chết cả.
Thế nhưng tại sao mọi thứ lại nhạt nhẽo đến vậy? Cuộc đời của hắn, số phận của hắn sao mà vô vị thế?
Hắn cần một thứ tình để sống. Ai có thể cho hắn chút tình!
Tình thân thì không có, cha mẹ của hắn…!
Tình yêu thì không thể, quá già rồi… !
Còn tình bạn, một sát thủ thì làm sao có thể hiểu bạn là gì…!
Đứng trên cái đỉnh của thế giới, hắn phải sống tiếp như thế nào đây? Chẳng lẽ hắn cứ mãi đứng trên cái đỉnh này sao?
Không ai có thể chia sẽ cảm giác này cho hắn, bởi chẳng có ai đứng trên cái đỉnh này cả.
Trở lại hiện thực, hắn tiếp tục mục tiêu tu luyện Bụt pháp.
Theo như bí tịch, truyền thuyết về bụt có mười sáu cảnh giới.
Bốn cảnh giới mà người ta có thể đạt được: Luyện hồn thể, Tụ hồn lực, Hóa hồn tinh, Xuất hồn khí.
Năm cảnh giới còn lại của tu bụt giả là: Phá hồn thân, Phân hồn xác, Thoát hồn linh, Sinh hồn cách và Tách hồn bụt.
Cuối cùng, năm cảnh giới cao siêu nhất chính là Thực Bụt, Hậu Bụt, Tiền Bụt, Linh Bụt, Thần Bụt, Bụt Gia.
Tất nhiên, đỉnh của đỉnh vẫn luôn là một vị tổ sư khai sinh ra môn đạo pháp này, đó chính là cảnh giới Bụt Tổ.
Riêng hắn thì cũng chỉ mới đạt tới cảnh giới thứ chín “Tách Hồn Bụt”. Nếu như nói theo cách khác thì bây giờ, hắn đang là một vị Bán Bụt duy nhất trên thế giới này.
Bởi vì không có mục đích, hắn quyết định truy cầu cảnh giới tối cao. Chỉ là hắn không biết tại sao hắn tu luyện mãi mà chẳng thấy tăng tiến chút nào. Và đây cũng chính là nguyên nhân năm xưa hắn xuất quan .
Có lẽ, nếu như đạt tới cảnh giới Bụt thực sự thì ngày mà hắn xuất quan phải là năm 3000 mới đúng.
Những cảnh giới tiếp theo này không đơn giản là ngồi không mà tu luyện, nó chính là cần ngộ đạo. Tu nếu không đi đôi với ngộ thì mãi mãi chỉ là luyện thôi!
Bỗng một ngày, hắn đạt được một loại công pháp kỳ diệu.
Cái công pháp này cũng trong quyển bí tịch năm xưa, chẳng qua là nó bị người ta dùng thủ pháp tinh vi che đậy. Nếu như không phải hắn đã đạt tới đẳng cấp giới cấp thứ chín và vô tình phá vỡ trận pháp che đậy công pháp thì đừng nói là công pháp, đến một thứ gọi là trận pháp thì hắn cũng chưa hề biết tới.
Quả thật đây là lần đầu tiên mà hắn biết trận pháp là cái gì. Nó rất cao siêu, cao siêu hơn khoa học kỹ thuật tinh tế trăm ngàn lần.
Nói chung, hắn đã có một loại công pháp kỳ diệu, nhưng để quyết định học loại công pháp này thì chính là một điều vô cùng bức bối, rất khó để lựa chọn.
Loại công pháp này chính là một loại công pháp hại mình mà chẳng ai được lợi cả.
Nó có tên là “Nghịch Trời Sống Lại Pháp Môn”.
Tên cũng như ý nghĩa, loại công pháp này có thể giúp cho người ta xuyên nhập trở lại cái thời còn trong bụng mẹ.
Nghe thì có vẻ tận cùng khủng bố, nhưng cái giá phải trả thì cũng vô cùng khủng khiếp.
Để thực hiện nó, hắn phải đánh đổi tất cả tu vi của mình. Đồng thời khi sống trở lại, hắn không thể nào tu luyện thành Bụt được nữa.
Có nghĩa là, hắn sẽ có cơ hội hiểu được cái mà hắn chưa từng nhận nhưng hắn sẽ phải mất tất cả sức mạnh và sẽ không bao giờ đứng trên đỉnh của kẻ khác nữa.
Điều này không sao cả, khuất phục người cũng tốt, bị người khuất phục cũng tốt, nếu như người đó là một anh hùng, nếu như hắn bị khuất phục một cách chân chính thì chẳng có gì to tát cả.
Hắn cần một cuộc sống thật ý nghĩa, cho nên hắn quyết định luyện tập loại công pháp này.
Hắn một kẻ quá ngu ngốc. Bởi trên đời này không có ai điên rồ mà từ một người làm đỉnh của đỉnh lại tự dưng đi làm đáy của đỉnh.
Nhưng ngu ngốc thì sao, điên rồ thì sao? Hắn thích làm những chuyện mà hắn muốn và tất nhiên cũng chẳng có một ai đủ sức ngăn cản hắn được.
Đối với hắn, là bụt là người chỉ là một ý niệm thôi. Tất nhiên, ý niệm thành bụt không phải là ý niệm đơn giản, hắn đã tìm kiếm ý niệm này rất lâu rồi. Nó vô cùng dài, dài đăng đẳng và cuối cùng hắn chẳng có tiến triển gì hết.
Do đó, hắn phải tìm cách khác, có thể đạo của đạo chính là phá đạo. Đương nhiên, đây chỉ là ý nghĩ của hắn.
Hắn lựa chọn trọng sinh vì hắn cho rằng, không phải tự dưng mà trong cuốn bí tịch lại chứa loại công pháp điên rồ này.
Lựa chọn, bởi vì đây cũng là mục tiêu để hắn truy cầu, để hắn khỏi buồn tẻ mà tồn tại.
Chính xác một điều, hắn chẳng biết mình cần cái gì cả.
Chân tình sao! Nó là cái gì thế? Hắn cần một cái tình để sống, cần một cái tình để hiểu tình là gì!
Hắn cố gắng tu luyện loại công pháp này. Nó cũng khá dễ dàng tu luyện. Chắc có lẽ là vì cái gì xấu thì lúc nào cũng dễ dàng nhất.
Một thời gian trôi qua, khi tất cả đã đâu vào đó, hắn quyết định làm theo công pháp để quay ngược thời gian. Tất nhiên đây cũng không phải là một vấn đề đơn giản.
Không phải tự dưng mà có thể sống lại được, phải cần một nguồn năng lượng cực mạnh, mạnh hơn lực lượng trong cơ thể cua hắn hàng tỷ lần.
Hắn chắc chắn rằng, nếu như không có một vị cao nhân nào giúp đỡ thì công pháp này chắc chắn là đồ bỏ đi. May mắn sao, ngày mà hắn thực hiện, chính là một thời đại khoa học kỹ thuật tối tân.
Có một năng lượng được tạo ra từ cái gọi là “Siêu Phản Vật Chất”.
Hắn cũng không hiểu cái nguồn năng này cho lắm, nhưng điều đó không quan trọng, hắn chỉ cần một nguồn năng lượng để vận hành trận pháp và công pháp mà thôi.
Nếu như không phải là một kẻ đỉnh của đỉnh thì chắc chắn rằng, cái quá trình tạo ra nguồn năng lượng siêu phản vật chất này không bao giờ thực hiện được.
Rất chi là khỏe, tất cả mọi thứ đã được cấp dưới của hắn chuẩn bị đầy đủ.
Để rồi, ngày hôm nay, hắn đã bước vào trận pháp này.
Sự ra đi của hắn, chắn chắn sẽ có người buồn, nhưng kẻ vui mừng thì vẫn là đa số.
Ầm… ầm... ầm ~~~!
Từ một nơi xa xăm trong vũ trụ.
Ầm… ầm... ầm ~~~!
Hàng loạt tiếng nổ khủng khiếp vang lên.
Ầm… ầm... ầm ~~~!
Ánh sáng hoàn toàn bị dập tắt.
Tất cả chỉ còn lại màu đen huyền bí của vũ trụ.
Hắn đã đi, đi thật rồi!
Không ai biết hắn đi đâu cả. Tất cả chỉ làm theo sắp xếp của hắn.
Nhưng trời biết đất biết và hắn biết. Hắn đang đi xuyên qua thời không của luân hồi.
Không có ngôn ngữ nào để miêu tả quá trình này cả. Nó cứ như một cái không thể nào diễn tả.
Những thứ kiểu này chính là vậy. Thời không cũng vậy, luân hồi cũng thế, một cái thì thực chất không tồn tại, còn một cái thì mờ mịt mông lung.
Nhưng có một thứ mà hắn có thể cảm nhận được, nguồn năng lượng được tạo ra đã đem linh yếu ớt lúc nhỏ của hắn, chuyển nhập nó qua một thời không song song.
Tại hành tinh tồn tại song song này, linh hồn song song của hắn được chuyển vào một đứa trẻ vừa mới chết. Sau đó, linh hồn của chính hắn – linh hồn lúc hắn còn trong bụng mẹ - được nhập vào nhân vật song song mới bị tách linh hồn.
Cuối cùng, linh hồn chính thức của hắn cũng xác nhập vào thân thể chính thức của mình. Đây là kết quả không tồi chút nào.
Quá trình này cũng khá lợi cho nhân vật là hắn, thế là đã tồn tại ba người như hắn, tuy hơi khó hiểu nhưng điều đó không quan với một kẻ từng là sát thủ như hắn.
Linh hồn thời bé của hắn cũng tốt, linh hồn song song cũng tốt, tự đối xử với mình như vậy cũng tốt, giúp một đứa bé có thể tồn tại cũng tốt (đứa bé này được dịch chuyển linh hồn song song vào). Mọi thứ đều không sao cả, bởi tất cả đều tốt.
Quan trọng là hắn đã được trọng sinh, quan trọng là hắn đã được sống lại.
Dù lịch sử sẽ khác đi một chút nhưng rồi hắn cũng sẽ hiểu một số thứ chưa được hiểu.
Đơn giản như tên của hắn. Tại sao hắn lại có tên?
Hắn tên là Nguyễn Đại Mạnh!
Truyện khác cùng thể loại
66 chương
81 chương
49 chương
339 chương
40 chương
45 chương
11 chương