Sáng thứ Hai. Thông thường đây là buổi sáng ảm đạm nhất trong tất cả các buổi sáng. (Trừ khi là sau một ngày nghỉ lễ, khi đó lại đến lượt sáng thứ Ba.) Mặc dù vậy, nó lại khiến Lisa phấn chấn không kể xiết. Ý nghĩ về việc bước vào văn phòng làm cô cảm thấy tự chủ được - ít nhất thì cô cũng sẽ làm gì đó để tự giúp mình. Sau đó cô cố tắm qua một cái trong khi nước thì lạnh như đá. Nhưng cô đành tạm xếp xó ý định gô cổ Jack về chuyện cái đồng hồ hẹn giờ trên bình nước nóng của mình khi bà Morley nói hở ra là anh đã làm việc suốt cả cuối tuần, giải quyết chuyện của những người thợ điện giận dữ và những tay quay phim bị bạc đãi. Trông anh có vẻ kiệt sức và khó đăm đàm. Ashling, ủ dột và đến muộn, cũng đang trải qua một ngày khó khăn. Thậm chí lại càng khó khăn hơn khi Jack Devine thò đầu ra khỏi văn phòng của anh ta và nói, cộc lốc, “Cô Gỡ rối?” “Anh Devine?” “Nói chuyện một chút chứ?” Hốt hoảng, cô đứng bật dậy quá đột ngột nên phải chờ dòng máu trong người dâng lên kịp và phục hồi lại thị lực. “Hoặc là chị đang gặp rắc rối to hoặc không thì chị phải khợp anh ta,” Trix thích chí nói. “Có chuyện gì thế?” Ashling không có tâm trạng đâu mà cho Trix và những trò cợt nhả của cô ta. Cô hoàn toàn không biết tại sao Jack Devine lại muốn nói chuyện riêng với mình. Với một linh cảm chẳng lành, cô bước vào văn phòng của anh ta. “Đóng cửa lại,” anh ra lệnh. Mình sắp bị đuổi việc rồi. Cô choáng váng. Cánh cửa đóng tách lại sau lưng cô và trong chớp mắt căn phòng co bé lại - và đen ngòm. Có vẻ như Jack, với mái tóc đen, đôi mắt đen, bộ vest màu xanh đen và tâm trạng cũng đen nốt của anh ta, sẽ làm điều đó. Tệ hơn nữa là anh ta còn không ngồi sau bàn, anh ta ngồi chênh vênh ngay phía trước và còn rất ít khoảng trống giữa hai người với nhau. Anh khiến cô cảm thấy cực kỳ khó chịu. “Tôi muốn đưa cho cô cái này, không để những người còn lại trông thấy.” Cô nhận ra mình đang ngả người ra sau, mặc dù cũng chẳng có chỗ nào mà đi nữa. Anh giúi cho cô một túi giấy bóng, cô lặng lẽ nhận lấy. Cô lờ mờ nhận thấy là nó hơi quá to đối với một bức thư thông báo. Cô cứ thế cầm nó khư khư trên tay, và với một nụ cười sốt ruột, Jack nói, “Xem bên trong đi.” Vò lớp giấy bóng, Ashling ngó vào bên trong ánh sáng mờ như ngọc trai của chiếc túi. Cô ngỡ ngàng thấy bên trong là một túi gồm hai trăm điếu Marlboro, vđi một chiếc nơ hoa hồng đỏ gắn loằng ngoằng trên giấy bọc ngoài. “Vì tôi cứ xin xỏ thuốc lá của cô mãi,” Jack chằm chằm nhìn cô. “Tôi, ờ, xin lỗi,” anh nói thêm. Nghe không có vẻ gì là thật lòng cả. “Đẹp thật,” cô lúng búng, ngỡ ngàng trước sự hoãn thi hành án - và chiếc nơ hoa hồng. Lần đầu tiên kể từ khi cô gặp anh, Jack Devine cười đúng nghĩa. Một tiếng cười ngặt nghẽo, thực sự sảng khoái. “Đẹp ư?” anh thốt lên, mặt ngời lên vì thích thú. “Thuyền buồm thì đẹp thật, những con sóng cao tám bộ cũng đẹp. Nhưng thuốc lá mà đẹp ấy à? Thật ra, có lẽ là cô đúng.” “Tôi cứ tưởng anh sắp đuổi việc tôi,” Ashling buột miệng. Mặt anh nhăn lại vì ngạc nhiên. “Đuổi việc cô ư?... Nhưng này cô Gỡ rối,” anh nói, giọng dịu dàng thật bất ngờ, ánh mắt tinh nghịch, “thế thì ai sẽ lo cho chúng tôi những miếng băng dính, Anadin, ô, ghim băng, và cả cái gì để trị sốc - cái gì remedy ấy nhỉ...?” “Rescue remedy.” Ngay lúc này cô cũng cần có một chút. Cô cần phải ra ngoài. Chỉ như thế cô mới có thể thở tiếp được. “Cô đang sợ cái gì thế?” Anh hỏi, thậm chí còn dịu dàng hơn. Cô có cảm giác như thân hình to lớn của anh tiến lại gần mình. “Không có gì!” Cô ré lên như tiếng phanh một chiếc xe bus. Với hai cánh tay khoanh lại, anh chăm chú nhìn cô. Có gì đó trong cách miệng anh nhăn lại ở hai bên khóe khiến cô cảm thấy mình thật trẻ con và ngốc nghếch, như thể anh đang chế giễu cô. Và rồi, ngay lập tức, dường như anh không còn thích thú gì nữa. “Thôi được rồi,” anh thở dài, quay lại về phía sau bàn. “Cô đi đi... Nhưng đừng nói với ai trong những người còn lại,” anh gật đầu về phía chiếc túi. “Nếu không ai cũng lại đòi một túi.” Ashling quay về bàn làm việc của mình, chân cô như thuộc về người khác. Giữ lại trang nhất [Nguyên văn là "Hold the front page" - Câu nói thường dùng trong ngành báo in, tạp chí, trong trường hợp khẩn cấp khi số báo cho ngày hôm sau chuẩn bị được mang in thì lại có tin quan trọng cần thay ngay]. Jack Devine với cú sốc Không Đến Nỗi Là Một Kẻ Khốn Kiếp Như Anh Ta vẫn Tỏ Ra Lúc Đầu. Nhưng kỳ quặc nhất là việc Ashling phần nào nghĩ cô thích anh kiểu kia hơn. Mặc dù cả ngày còn lại sau đó, mọi việc lại đâu vào đấy. Mercedes lảo đảo lê bước vào văn phòng, và mọi người suýt nữa thì ngã lộn xuống khỏi ghế khi họ nhận ra cô đang thể hiện cảm xúc một cách bất thường. Rất nhiều cảm xúc là đằng khác. Vì theo yêu cầu của Lisa, cô đã đi cố tìm cách phỏng vấn mụ Frieda Kiely điên rồ. Và cho dù Mercedes đã dành cả cuối tuần ở Donegal để chụp khuôn báo mười hai trang những bộ trang phục của Frieda, bà ta vẫn bắt cô phải chờ cả tiếng rưỡi đồng hồ, để rồi sau đó còn tuyên bố chưa bao giờ nghe nói đến cô hay tạp chí Colleen. “Cô là ai?” Bà ta gặng hỏi. “Colleen? Đó là cái quái gì thế? Đó là cái gì?” “Mụ ta là một kẻ thần kinh. Đồ chó cái điên rồ,” Mercedes phun phì phì, rồi lại rơi vào một cơn nức nở vì nhục nhã khác. “Đồ CHÓ CÁI điên rồ chết tiệt!” “Một con điếm tâm thần tiền kinh nguyệt.” Kevin rất hăm hở đứng về phe bênh Mercedes. “Đồ đĩ thõa loạn thần kinh,” Trix chêm vào. “Một con mụ gầy giơ xương [Nguyên văn là "skinnymalinks", một từ lóng phổ biến ở Ireland để chì một người rất gầy.]” Bernard Tẻ ngắt nói, anh ta hoàn toàn không biết con mụ kia mặt mũi thế nào nhưng anh ta ghét những con mụ nanh nọc không kém gì những anh chàng bám váy mẹ khác. “Trên gậy của dân lang thang sau một trận cãi vã cũng còn dính nhiều thịt hơn.” Trix khinh bỉ nhìn anh ta. “Đó là một lời khen, đồ thiểu năng. Anh chẳng biết quái gì cả!” Hết lời xúc phạm này đến lời xúc phạm khác được trút lên đầu Frieda Kiely, chỉ trừ có Ashling, người đã nghe thấy ở đâu đó là bà ta bị điên thực sự. Hình như là bà ta tâm thần phân liệt thể nhẹ và nhất định không chịu uống thuốc. “Nhưng,” Ashling xen vào, cô cảm thấy nên có ai đó bảo vệ bà ta, “mọi người không nghĩ là trước khi nhận xét về bà ta, chúng ta nên thủ một dặm bằng đôi giày của bà ta đã chứ?” “Đúng đấy,” Jack nói, anh vừa thò đầu ra để tìm hiểu xem tất cả màn ầm ĩ này là về chuyện gì. “Khi đó chúng ta vừa cách xa bà ta một dặm lại vừa có đôi giày của bà ta[Ý nói "nên đặt mình vào cương vị người khác."]. Nghe hay đấy.” Anh ném cho Ashling một nụ cười nhăn nhở, rồi quát, “Vì Chúa, Ashling, cư xử cho đúng tuổi của cô đi, không phải cứ giới hạn tốc độ thế.” Lisa khoái trá. “Giới hạn tốc độ ở nước này là bao nhiêu?” “Bảy mươi,” Jack nói, và đóng rầm cửa quay vào trong văn phòng của mình. Ashling lại căm thù Jack. Mọi chuyện quay lại như bình thường. *** Mặc dù Marcus Valentine không hề có số điện thoại chỗ cô làm việc, sự tĩnh tại trong lòng Ashling vẫn xao động khi, đúng bốn giờ kém mười, Trix chia cho cô chiếc điện thoại và nói, “Một người đàn ông gặp chị này.” Ashling cầm lấy ống nghe, chờ một lát để tự trấn tĩnh lại, rồi đăng háng, “Aaalô.” “Ashling?” Đó là Dylan và nghe giọng anh có vẻ bối rối. “Em bị cảm lạnh à?” “Không.” Cô thất vọng quay lại với giọng nói bình thường của mình. “Em cứ tưởng anh là người khác.” “Tối nay đi uống chút gì đó được không nhỉ? Anh có thể vào thành phố bất kỳ thời gian nào thích hợp cho em.” “Được rồi.” Nó sẽ khiến cô không phải ngồi ở nhà kè kè canh bên chiếc điện thoại. “Khoảng sáu giờ anh ghé qua văn phòng nhé.” Rồi, rất nhanh, cô gọi về nhà xem có tin nhắn nào không. Mới chỉ có mười lăm phút kể từ lần gần nhất cô kiểm tra, nhưng ai mà biết được. Hoặc có lẽ là bạn biết, vì chẳng có ai gọi điện cả. Lúc sáu giờ mười lăm, Dylan gây ra một sự náo động nho nhỏ khi, với mái tóc vàng lòa xòa phủ xuống mắt, anh xuất hiện trong bộ vest băng vải lanh được cắt rất khéo và một chiếc áo sơ mi trắng tinh. Khi anh đứng bên bàn làm việc của Ashling, dường như có gì đó không bình thường với anh, một sự nghiêng lệch như thể anh bị trẹo vai. “Anh không sao chứ?” Ashling đứng dậy, đi vòng qua anh và phát hiện ra lý do cả ngưòi anh bị vặn vẹo là do anh đang cố giấu một chiếc túi của HMV[Tức His Masters Voice - một thương hiệu bán lẻ các sản phẩm âm nhạc hàng đầu thế giới, rất phổ biến ở Anh và châu Âu.] sau lưng mình. “Dylan, em sẽ không nói là anh vừa mua đĩa CD đâu.” “Xin lỗi,” anh ngượng nghịu nhún vai. “Đây là hệ quả của chuyện làm việc ở làng Sandylord khỉ ho cò gáy. Lần nào vào thành phố, anh cũng mê mẩn trong những cửa hàng âm nhạc. Cảm giác tội lỗi giày vò anh lắm chứ.” “Với em thì bí mật của anh sẽ được an toàn.” “Áo khoác mới à?” Dylan hỏi, trong lúc Ashling đang tắt các thứ. “Thực ra thì, vâng.” “Để anh xem nào.” Khăng khăng bắt cô đứng yên, anh liếc dọc theo hai vai cô, gật gù và nói, “Được.” Ashling cố, một cách vô ích, hóp cho eo nhỏ lại, trong khi anh lướt nhìn xuống đường may hai bên, gật gù và nói, “Được” lần nữa, thậm chí còn có vẻ đồng tình hơn, rồi ngước lên. “Hợp với em,” anh kết thúc bằng một nụ cười. “Hợp với em lắm.” “Anh đúng là đồ xỏ lá chứ chẳng tử tế gì.” Nỗi sung sướng của Ashling tăng vọt trong khi cuộc kiểm tra tiếp tục. Dylan lúc nào cũng hào phóng những lời khen một cách quá đáng. Tuy thế mặc dù biết anh reo rắc chúng khắp nơi như rắc thuốc lá bột trong đám ma, nhưng kể cũng khó mà không ít nhiều tin anh, lại càng khó hơn để không rạng ngời vì sung sướng. “Anh thật là nguy hiểm" cô hoan hỉ. “Đi nào.” Cô quay người để đi thì nhln thấy Jack Devine ở gần đó, đang đăm chiêu lật lật qua một tập tài liệu trên bàn làm việc của Bernard. Cô hồi hộp mỉm cười tạm biệt và trong giây lát đã hoảng sợ nghĩ anh sẽ không thèm để ý gì đến cô. Nhưng rồi anh nặng nề thở ra và nòi, “Tạm biệt, Ashling.” *** Lisa đã ở trong phòng vệ sinh tút tát lại đồ trang điểm để tỏ lòng trân trọng cho buổi đi chơi tối hôm đó với một đầu bếp người Ireland nổi tiếng mà cô hy vọng sẽ thuyết phục phụ trách thường xuyên chuyên mục nấu ăn. Khi hớt hải quay trở ra văn phòng để lấy áo khoác, cô lao qua cửa quá nhanh và đâm sầm phải một anh chàng tóc vàng cô chưa hề gặp lần nào. Cô tông vai mình vào ngực anh ta, và thoáng cảm thấy sức nóng tỏa ra qua lần áo sơ mi mỏng của anh ta. “Xin lỗi.” Anh ta đặt hai bàn tay to khỏe lên vai cô. “Cô không sao chứ?” “Tôi nghĩ thế.” Khi cô đứng thẳng người lên, hai người chăm chú nhìn nhau hồi lâu. Rồi cô nhận ra Ashling ở bên cạnh anh ta. Không lẽ anh chàng này là bạn trai của cô ta à? Không, chắc chắn không phải. “Ai đấy?” Dylan hỏi, khi cửa thang máy đã đóng lại sau lưng họ. “Anh là một người đàn ông có cuộc hôn nhân hạnh phúc,” Ashling nhắc nhở anh. “Anh chỉ hỏi thôi mà.” “Tên cô ấy là Lisa Edwards, cô ấy là sếp của em.” Nhưng Ashling chợt nhớ lại cuộc trò chuyện giữa cô với Clodagh về tất cả những cuộc hội thảo mà Dylan tham dự. Anh ấy có chung thủy với vợ không nhỉ? Cô hỏi nhanh, “Chúng ta sẽ đi uống ở đâu đây?” Anh đưa cô tới quán Shelbourne, một nơi đông nghịt những tay chơi sau giờ làm. “Mình phải đứng thôi,” Ashling nói. “Sẽ không bao giờ kiếm được chỗ ngồi đâu.” “Đừng bao giờ nói không bao giờ,” Dylan nháy mắt. “Chờ nhé.” Ngay sau đó anh đã sà xuống một chiếc bàn đầy những người là người, tươi cười và liến thoắng tán gẫu, rồi quay lại chỗ Ashling. “Đi thôi, họ đang về rồi.” “Từ lúc nào thế? Anh đã nói gì với họ vậy?” “Không cò gì! Anh chỉ để ý thấy là họ gần uống xong rồi.” “Hmmm.” Dylan mới thật là có sức thuyết phục đầy quyến rũ làm sao, anh có thể bán cả muối sang Siberia ấy chứ. “Nhảy vào kia, Ashling - tạm biệt nhé, cám ơn rất nhiều.” Vừa tươi cười, anh vừa chào tạm biệt những người nhường tặng bàn. Sau đò, với tốc độ đáng ngờ, anh chen lấn xuyên qua những đám đông trong quán bar và quay về với đồ uống. Thói quen của những điều tốt đẹp là chỉ xảy ra với Dylan, và khi anh đặt ly gin pha tonic xuống trước mặt cô, Ashling tự hỏi, như lắm lúc cô vẫn làm, không biết lấy anh sẽ như thế nào nhỉ. Hẳn phải hạnh phúc lắm, cô nghĩ vậy. “Kể cho anh mọi thứ, mọi thứ, về công việc mới tuyệt vời này đi nào,” Dylan hào hứng đề nghị. “Anh muốn biết tất cả về nó.” Ashling bị cuốn theo sự nhiệt tình rất dễ lây của anh. Với tâm trạng hoàn toàn thoải mái, cô phác qua tất cả những tính cách khác nhau ở Colleen và cách họ tương tác - hoặc là không tương tác, có lẽ như thế thì đúng hơn – với nhau như thế nào. Dylan cười rất nhiều, tỏ ra thực sự thích thú, và Ashling hầu như bị rơi vào cái bẫy khi nghĩ rằng minh là một người có tài kể chuyện hấp dẫn. Đây hoàn toàn là một phần của màn vồn vã cũ như khi Dylan ngưỡng mộ chiếc áo khoác mới của cô trước đó - năng khiếu vĩ đại của anh là làm cho mọi ngưòi cảm thấy tốt đẹp về chính mình. Anh không thể đừng được. Không phải như thế là không chân thành, Ashling biết. Chỉ là hơi quá thổi phồng một chút. Cô không nên phạm phải sai lầm là kể lại nguyên xi những câu chuyện dở hơi này cho người khác và chờ đợi những trận cười tương tự. “Lạy Chúa, em thật là hài hước.” Anh chạm cốc của mình vào cốc cô để uống mừng khen ngợi. Cung cách tán tỉnh của anh bao giờ cũng chứa đựng nhiều ẩn ý hơn những gì anh muốn bày tỏ. Không có chuyện Ashling đánh giá nó một cách nghiêm túc. ít nhất, không còn như thế nữa. “Thế công ty máy tính sao rồi?” Cuối cùng cô hỏi. “Lạy Chúa! Bận điên cuồng! Bọn anh không thể đáp ứng kịp đơn đặt hàng.” “Ô!” Ashling lắc đầu trầm trồ. “Khi em mới gặp anh anh còn không dám chắc liệu công ty có sống sót được qua năm đầu tiên không. Giờ thì hãy nhìn anh này!” Tâm trạng đột nhiên chùng xuống, hầu như không cảm nhận được, khi nhắc đến lần đầu tiên họ gặp nhau. Nhưng, may mắn làm sao, họ gần như đã uống hết cốc của minh, thế là Ashling đứng bật dậy. “Vẫn như cũ chứ?” “Ngồi xuống, anh sẽ đi lấy.” “Không sao, em sẽ...” “Ngồi xuống, Ashling, anh yêu cầu đấy.” Còn có một điều khác nữa ở Dylan. Anh hào phóng một cách rất tự nhiên và lịch lãm. Khi anh quay lại cùng đồ uống, Ashling tò mò hỏi. “Vậy là có một lý do đặc biệt nên anh muốn gặp em...?” “Uuuuừ,” Dylan kéo dài giọng, vừa nghịch nghịch miếng lót cốc bia. “ừ, có đấy.” Bỗng nhiên anh không còn tỏ ra thoải mái chút nào, và riêng chuyện đó thôi cũng đủ là lý do để lo lắng rồi. “Em không hề nhận thấy...điều gì sao....?” Anh dừng lại và không nói tiếp. “Điều gì là sao?” “Về Clodagh?” “Ý anh là thế nào?” “Anh...” Một khoảng ngập ngừng nặng nề, kéo dài “...thấy lo lo về cô ấy. Cô ấy không lúc nào tỏ ra hạnh phúc, cỏ ấy thường gắt gỏng với bọn trẻ và thậm chí thỉnh thoảng... còn hơi quá đáng. Molly mách là Clodagh tát con bé mà bọn anh thì không bao giờ tát các con cả.” Lại một khoảng trống bối rối khác, trước khi Dylan nói tiếp. “Có lẽ chuyện này nghe thật ngớ ngẩn, nhưng lúc nào cũng thấy cô ấy trang trí nhà cửa. Bọn anh vừa mới làm xong phòng này thì cô ấy đã nói đến chuyện làm lại phòng khác. Và việc anh cố nói chuyện với cô ấy về tất cả những chuyện này đều không ăn thua gì. Anh đang băn khoăn... Anh nghĩ là có khi cô ấy bị trầm cảm.” Ashling trầm ngâm. Lúc này khi nghĩ về chuyện đó cô mới thấy dạo gần đây Clodagh có vẻ bất mãn và hơi khó tính. Đúng là hình như cô ấy trang trí nhà cửa quá nhiều. Và đi nói với Molly là Barney đã chết thì Ashling thấy đúng là kỳ quái. Thậm chí là choáng váng. Mặc dù lời biện hộ của Clodagh là cô cũng có cảm xúc nghe có vẻ hợp lý. Nhưng giờ đây, trong bối cảnh là sự lo lắng của Dylan, nó bỗng vụt lật ngược trở lại thành đáng ngại. “Em không biết. Có thể,” Ashling nói, đăm chiêu suy nghĩ. “Nhưng kể có con cũng vất vả. Đòi hồi rất nhiều. Và nếu như ta phải làm việc lâu thì...” Dylan cúi người về phía trước, chăm chú nghe Ashling cứ như là có thể nắm hoặc giữ lại được những lời nói của cô vậy. Nhưng khi thấy cô nói nhỏ dần rồi chìm vào im lặng hoàn toàn, anh bèn nói, “Anh hy vọng em không phật ý khi anh nói chuyện này - nhưng anh cứ nghĩ có thể em biết rõ một số dấu hiệu. Bởi vì mẹ em...” “Mẹ em ấy?” Anh nhắc lại, khi thấy Ashling vẫn câm như hến. “Bà bị bệnh trầm cảm phải không?” Sự dịu dàng của Dylan không đủ để dụ dỗ Ashling lên tiếng. “Và anh nghĩ có thể Clodagh cũng giống thế chăng...?” Bỗng nhiên Ashling vụt quay trở lại nơi đó, sa lầy trong trạng thái điên loạn, hoang mang, và nỗi kinh hoàng thường trực. Tai cô ù ù tiếng gào thét và la hét từ xa xăm, cơ miệng hầu như cứng đờ với khát khao không nhắc đến chuyện đó. Dứt khoát, gần như hung hăng, cô nói, “Clodagh chẳng có gì giống với mẹ em trước kia cả.” “Không ư?” Hy vọng của Dylan đi liền với sự tò mò không tử tế gì. “Trang trí phòng khách trước không thể gọi là trầm cảm. Hừm, ít nhất thì cũng phải là trầm cảm như em biết. Cô ấy không từ chối ra khỏi giường đúng không? Hay có cầu mong là mình chết rồi không?” “Không.” Anh lắc đầu. “Hoàn toàn không. Không có gì như thế cả.” Mặc dù mẹ cô không đột ngột bắt đầu theo cách đó. Mọi thứ diễn ra từ từ thì phải? Trái với ý muốn của mình, Ashling chìm vào trong quá khứ và cô quay trở lại tuổi lên chín, cái tuổi khi cô lần đầu tiên nhận ra có điều gì đó rất không bình thưòng. Cả nhà đang đi nghỉ ở Kerry khi bố cô nhận xét về một cảnh mặt trời lặn rực rỡ. “Kết thúc tuyệt đẹp cho một ngày tuyệt đẹp. Phải không, Monica?” Đăm đăm nhìn thẳng về phía trước, Monica nặng nề nói, “ơn Chúa là mặt trời bắt đầu lặn. Em chỉ muốn ngày hôm nay qua đi.” “Nhưng hôm nay thật là tuyệt vời còn gì,” Mike phản đói. “Mặt trời rực rỡ, chúng ta vui chơi trên bãi biển...” Tất cả những gì Monica nói là, “Em chỉ mong cho ngày hôm nay qua đi.” Ashling ngừng đánh nhau với với Janet và Owen, cảm thấy lạc lõng và bứt rứt. Lẽ ra bố mẹ đâu được phép có tâm sự, dù thế nào cũng không phải là những cảm xúc loại này. Họ có thể phàn nàn khi bạn không làm bài tập về nhà hay không ăn tối, nhưng họ không được phép có nỗi bất hạnh riêng của mình. Khi hai tuần đi nghỉ kết thúc, họ quay về nhà, và dường như thể phút này mẹ cô đang trẻ trung, xinh đẹp và hạnh phúc thì ngay phút sau bà lại im lặng, ủ dột và đã ngừng việc nhuộm tóc. Rồi bà khóc. Liên tục, lặng lẽ, cứ để mặc cho nước mắt chảy dài trên mặt. “Có chuyện gì vậy?” Mike hỏi, hết lần này đến lần khác. “Có chuyện gì vậy?” “Có chuyện gì vậy mẹ?” Ashling hỏi. “Mẹ bị đau bụng à?” “Mẹ bị đau trong tâm hồn,” bà thì thầm. “Hãy uống hai viên Junior Disprin.” Ashling bắt chước câu mẹ vẫn nói khi cô bị đau ở đâu đó. Những chuyện bất hạnh của người khác làm Monica suy sụp. Cả ba ngày liền được bà dành cho việc khóc than về một nạn đói ở Châu Phi. Nhưng khi Ashling về nhà với thông tin đáng mừng, hóng hớt được từ mẹ của Clodagh, rằng “người ta đang gửi lương thực tới,” thì Monica lại đã chuyển sang khóc thương cho một bé trai sơ sinh được tìm thấy trong chiếc hộp các tông. “Đứa bé tội nghiệp,” bà nức nở. “Đứa bé tội nghiệp, không nơi nương tựa.” Trong khi mẹ cô khóc, thì bố cô lại cười đủ phần cho cả hai người. Cười khắc khổ. Lúc nào cũng cười. Ông có một công việc bận rộn. Đó là điều ai cũng nói với Ashling - “Bố cháu có một công việc rất bận rộn và quan trọng.” Ông là một nhân viên kinh doanh và phải đi lại nhiều, từ Limerick đến Cork, từ Cavan đến Donegal, nghe như những cuộc phiêu lưu của các hiệp sĩ Pianna[Những chiến binh tự do trong thần thoại cô’ Ireland, được gắn với vô số chiến công anh hùng và các cuộc phiêu lưu.]. Bận rộn và quan trọng đến mức ông thường xuyên vắng nhà từ thứ Hai đến thứ Sáu. Ashling thấy tự hào vì điều đó. Bố của tất cả những người khác về nhà lúc năm rưỡi mỗi buổi tối, và cô không khỏi cảm thấy khinh bỉ là công việc của họ chắc chắn không có gì đáng nói. Rồi bố cô về nhà vào cuối tuần và mỉm cười và mỉm cười và mỉm cười. “Hôm nay chúng ta sẽ làm gì nhỉ?” Ông thường vỗ hai bàn tay vào nhau và hồ hởi nhìn gia đình mình. “Em quan tâm gì chứ?” Monica lầm bầm. “Em đang chết dần trong lòng đây.” “Chà, em muốn một việc ngốc nghếch như vậy để làm gì chứ?” Ông bỡn cợt. Quay sang Ashling, ông mỉm cười và nói, như thể đang chia sẻ một điều bí mật, “Mẹ con thật là nghệ sĩ.” Từ trước đến nay mẹ cô vẫn luôn làm thơ. Bà thậm chí còn có một bài thơ được đăng trong tuyển tập nào đó khi Ashling còn nhỏ, và kể từ khi chuyện khóc lóc cùng thái độ lạ lùng bắt đầu, bà lại càng làm nhiều thơ hơn. Ashling biết về những bài thơ. Chúng là những câu từ có vần điệu rất đẹp, về hoàng hôn và hoa, thường là thủy tiên. Nhưng khi, theo sự rủ rỉ xúi giục của Clodagh, hai đứa lén lút đọc trộm mấy bài thơ của Monica, chúng khiến Ashling bị sốc nặng. Xuyên suốt đám sương mù tăm tối có một điều mà cô thấy nhẹ nhõm khủng khiếp - đó là Clodagh đọc nhưng cũng không hiểu mấy. Những bài thơ không hề có vần điệu, cách ngắt câu không chuẩn, nhưng chính những từ riêng lẻ mới là nguyên nhân lớn nhất khiến cô lo lắng. Không hề có hoa trong những bài thơ của Monica Kennedy. Thay vào đó là những từ ngữ tàn nhẫn và kỳ lạ mà Ashling mất rất nhiều thời gian giải mã. Khâu kín trong nồi im lặng, Máu tối đen ngòm. Tôi là mảnh kính vỡ, Tôi là những lưỡi dao han gỉ, Tôi là sự trừng phạt và tội ác Quay trở về hiện tại, Ashling nhận ra Dylan đang chăm chú nhìn cô với vẻ quan tâm lo lắng. “Em ổn chứ?” anh hỏi. Cô gật đầu. “Đã có lúc anh tưởng em không nghe thấy anh nói gì.” “Em không sao,” Ashling khăng khăng. “Clodagh vẫn chưa bắt đâu làm thơ, đúng không?” Cô tự ép mình mỉm cười khi hỏi. “Clodagh ấy à! Một ý nghĩ hay thật!” Dylan cười khùng khục, như thể nhận ra mình mới ngu ngốc làm sao. “Vậy là nếu cô ấy bắt đầu làm thơ thì anh nên lo lắng đúng không?” “Nhưng từ giờ đến lúc đó, anh không việc gì phải lo cả. Có lẽ chỉ là vì cô ấy mệt mỏi và cần được nghỉ ngơi. Anh có thể làm gì đó hay hay không? Làm cô ấy phấn chấn lên bằng cách đi nghỉ hoặc gì đó đại loại?” Lại nữa, cô cay cú nghĩ. Cô cảm thấy hơi ấm ức là Dylan lại đang hỏi cô lời khuyên làm thế nào để khiến cho cuộc sống của Clodagh thậm chí còn trở nên đẹp đẽ hơn được nữa. “Hiện tại thì anh không thể nào nghỉ được,” Dylan nói. “Hừm, nếu vậy thì ra ngoài ăn một bữa tối lãng mạn vậy.” “Clodagh lại lo lắng về những người trông trẻ.” “Tại sao, có vấn đề gì với họ?” Dylan bật cười, tỏ ra hơi ngượng nghịu. “Cô ấy sợ họ có thể là những kẻ lạm dụng trẻ em. Hoặc họ có thể lại đánh bọn trẻ. Nói thật là nhiều lúc anh cũng lo lắng.” “Chúa ơi, người ta liên tục tạo ra những điều mới cho mọi người lo lắng. Vậy hãy tìm ai đó anh cò thể tin cậy được. Mẹ anh thì sao?” “Ôi không!” Dylan xị mặt xuống trông rất thiểu não. “Đó sẽ không phải là ý tưởng hay Lắm đâu.” Ashling gật đầu. Đúng thế thật. Lúc duy nhất bà Kelly trẻ và bà Kelly không-còn-trẻ-lắm nhìn mặt nhau là khi họ đối đầu trong một cuộc tranh cãi - thường là về cách tốt nhất để chăm sóc Dylan và những đứa con của Dylan. “Còn mẹ Clodagh thì đi lại khó khăn vì viêm khớp,” Dylan nói. “Bà sẽ không thể quản lý bọn trẻ được.” “Em có thể trông bọn trẻ nếu anh muốn,” Ashling đề nghị. “Trong một buổi tối cuối tuần ư? Một thứ trẻ trung hoang dã như em đây?” Sau một lát lưỡng lự, cô nói. “Vâng...Vâng,” cô nhắc lại, quả quyết hơn và hơi có vẻ thách thức, “sao lại không?” Nếu cô thực sự không có nhà, thì cơ hội Marcus Valentine gọi điện sẽ cao hơn. “Thế thì tuyệt quá.” Dylan hoạt bát hẳn lên. “Cám ơn Ashling, em thật là đáng yêu. Anh sẽ đặt một bàn cho tối thứ Bảy. Để xem anh có thể kiếm một bàn ở L’Oeuf không.” Nhưng tất nhiên rồi, Ashling thích thú nghĩ, dù thầm tâm không muốn. Còn ở đâu được L’Oeuf là ông lớn trong số các nhà hàng ở Dublin. Nó có điểm ưu việt độc đáo là lúc nào cũng thời thượng - cho dù không phục vụ các món châu Á tả phí lù hoặc ẩm thực Irelan Hiện đại. Sành điệu quanh năm, thức ăn ở đầy sẽ làm bạn chảy nước mắt. Cả giá tiền cũng vậy. “Mẹ em ấy, bây giờ bà đã đỡ hơn rồi phải không?” Dylan tìm cách bù đắp lại việc đã gợi chuyện này ra từ đầu... “Đỡ hơn” là một khái niệm tương đối và dù sao đi nữa, đó không phải lúc nào cũng là điều quan trọng, nhưng để anh vừa lòng, Ashling gật đầu và nói, “Vâng, bây giờ bà đỡ hơn rồi.” “Em là một cô gái tuyệt vời, Ashling.” Dylan tạm biệt cô. Mình ư, Ashling khô khốc nghĩ, thật vậy sao?