Keating lắc đầu chậm chạp. “Được rồi. Anh đang bắt đầu hiểu rồi đấy. Bởi vậy mà dù chúng ta có làm cái gì đi nữa thì cũng đừng nói về những người nghèo trong các khu ổ chuột. Họ không liên quan gì cả, mặc dù cũng chẳng sao nếu như ai đó dùng lý lẽ này để giải thích cho những kẻ ngốc nghếch khác. Anh thấy đó, tôi không bao giờ quan tâm tới khách hàng của tôi; tôi chỉ quan tâm đến các yêu cầu kiến trúc của họ. Tôi coi những yêu cầu ấy như một phần của chủ đề và vấn đề của công trình, như là vật liệu xây dựng cho công trình của tôi… như là gạch đá hay sắt thép vậy. Gạch đá và sắt thép không phải là động cơ của tôi. Khách hàng cũng không phải. Cả hai chỉ là phương tiện của công việc của tôi mà thôi. Peter, trước khi anh có thể làm được một cái gì đấy cho người khác, anh phải là một người có khả năng làm những thứ đó. Nhưng để làm ra chúng, anh phải yêu quý việc làm đó, chứ không phải là những hệ quả khác. Công việc, chứ không phải con người. Hành động của chính anh, chứ không phải bất kỳ đối tượng nào của lòng từ thiện. Tôi sẽ lấy làm vui mừng nếu một ai đó có nhu cầu và tìm thấy một cuộc sống tốt hơn trong căn nhà tôi thiết kế. Nhưng đó không phải là động cơ của công việc của tôi. Không phải là lý do. Không phải là phần thưởng dành cho tôi.” Anh đi tới một cửa sổ và đứng nhìn ra ánh sang của thành phố đang run rẩy trên mặt sông đêm. “Hôm qua anh nói: Có kiến trúc sư nào mà không quan tâm tới chuyện cung cấp nhà ở? Tôi căm ghét cái ý tưởng đáng nguyền rủa ấy. Tôi nghĩ việc cung cấp những căn nhà tươm tất cho những người có thu nhập mười lăm đô la một tuần là một việc đáng làm. Nhưng không phải với sự trả giá của những người khác. Không phải là bằng việc tăng thuế, tăng tiền thuê nhà của những người khác và làm ột người có thu nhập bốn mươi đô la một tuần phải sống trong một cái nhà ổ chuột. Đó là thực tế đang diễn ra ở New York. Không một ai, ngoại trừ những người rất giàu và những người nghèo được chính phủ trợ giúp, có đủ tiền để sống trong một căn hộ hiện đại. Anh đã bao giờ nhìn thấy nhà của những cặp vợ chồng phải tự làm lụng và tự trả phí sinh hoạt chưa – những ngôi nhà cũ kỹ bằng đá cát-kết nâu được sửa lại ấy? Anh đã bao giờ nhìn thấy những căn bếp và hệ thống ống nước của họ chưa? Họ buộc phải sống như vậy vì họ không đủ nghèo để có thể xin được phép sống ở các chung cư chính phủ xây cho người nghèo. Nhưng họ chính là những người nai lưng ra làm việc để chính phủ có thể trả tiền cho cái dự án chết tiệt này. Họ nộp thuế. Và các loại thuế làm tăng giá thuê nhà của chính họ. Và họ phải chuyển từ một căn nhà xây bằng đá cát-kết nâu được sửa sang lại, tới một căn nhà chưa được sửa sang, và rồi từ đó tới một căn hộ dọc đường tàu. Tôi không muốn trừng phạt một người chỉ vì anh ta chỉ kiếm được 15 đô la một tuần. Nhưng tôi không thể hiểu tại sao một người kiếm ra 40 đô la một tuần lại bị trừng phạt – và bị trừng phạt để mang lại lợi ích cho những người kém cỏi hơn anh ta. Chắc chắn là có nhiều lý thuyết về đề tài này, và rất nhiều tranh luận nữa. Nhưng hãy nhìn vào kết quả xem. Các kiến trúc sư đều lao vào các dự án nhà cửa của chính phủ. Anh đã từng gặp một kiến trúc sư nào mà không khẩn thiết yêu cầu các thành phố phải được quy hoạch chưa? Tôi muốn hỏi anh ta làm sao anh ta có thể đảo bảo rằng quy hoạch được lựa chọn sẽ là của chính anh ta? Và nếu quy hoạch của anh ta, anh ta lấy quyền gì để bắt người khác chấp nhận nó? Và nếu nó không phải là của anh ta thì điều gì đã xảy ra với các công trình của anh ta vậy? Tôi cho rằng anh ta sẽ bảo anh ta không thích cả hai trường hợp. Anh ta muốn một hội đồng, một hội thảo, một sự hợp tác, một sự hỗ trợ. Và kết quả sẽ là Hành trình của Những thế kỷ. Peter, từng người riêng lẻ trong số các anh đều làm việc tốt hơn cái công trình mà tám người tập trung lại và làm ra. Lúc nào đó, hãy tự hỏi chính anh tại sao như vậy.” “Tôi nghĩ tôi biết điều đó... Nhưng dự án Cortlandt…” “Đúng vậy. Dự án Cortlandt. Ồ, tôi đã nói với anh tất cả những điều mà tôi không tin, để anh hiểu được tôi muốn và việc tôi có quyền gì để mong muốn điều đó. Tôi không tin vào các dự án nhà cửa của chính phủ. Tôi không muốn nghe bất cứ điều gì về những mục đích cao quý của chúng. Tôi không nghĩ những mục đích đó là cao quý. Nhưng điều đó cũng chẳng có ảnh hưởng gì. Đó không phải là mối bận tâm hàng đầu của tôi. Không phải là những người sẽ sống trong ngôi nhà này hay chủ đầu tư của công trình. Chỉ là chính bản thân ngôi nhà. Nếu phải xây dựng ngôi nhà ấy, thì phải xây nó một cách phù hợp.” “Cậu… muốn xây nó à?” “Trong những năm nghiên cứu về vấn đề này, tôi chưa bao giờ hy vọng nhìn thấy kết quả của nó được đem ứng dụng thực tế. Tôi tự bắt mình không được hy vọng. Tôi biết tôi không thể trông đợi một cơ hội để trình bày những gì tôi có thể làm trên quy mô lớn. Dự án cung cấp nhà ở của chính phủ của anh, cùng với những thứ khác, đã làm cho công việc xây dựng trở nên đắt đỏ đến mức các chủ sở hữu tư nhân không thể đủ tiền cho những dự án đó, cũng như bất kỳ một dự án xây dựng nhà rẻ tiền nào. Và tôi thì không bao giờ được nhận bất kỳ công việc nào từ bất kỳ chính phủ nào. Chính anh cũng biết quá rõ chuyện này. Anh nói rằng tôi không thể vượt qua Toohey. Ông ta không phải là người duy nhất. Tôi chưa bao giờ nhận được một công trình nào bởi bất kỳ nhóm, ban bệ, hội đồng, công cộng hay tư nhân, trừ khi là có ai đó đấu tranh cho tôi, giống như Kent Lansing. Có một lý do ở đây, nhưng chúng ta không phải thảo luận về nó bây giờ. Tôi chỉ muốn anh biết rằng tôi nhận ra tôi cần đến anh theo cách nào; để chúng ta có thể có một cuộc trao đổi công bằng.” “Cậu cần tôi ư?” “Peter, tôi thích công trình này. Tôi muốn nhìn thấy nó được mọc lên. Tôi mốn nó trở thành hiện thực, muốn làm cho nó sống, vận hành, được xây dựng lên. Nhưng mọi sinh vật sống đều phải có tính thống nhất trong nó. Anh biết điều đó có nghĩa là gì chứ? Là vẹn toàn, không pha trộn, hoàn thiện, không sứt mẻ. Anh có biết cái gì tạo nên nguyên tắc thống nhất không? Một suy nghĩ. Một suy nghĩ đơn lẻ tạo nên điều này và mọi phần của nó. Cái suy nghĩ mà không ai có thể thay đổi hoặc chạm vào. Tôi muốn thiết kế dự án Cortlandt. Tôi muốn nhìn thấy nó được xây lên. Tôi muốn thấy nó được xây lên đúng như tôi thiết kế nó.” “Howard… tôi sẽ không nói rằng ‘Điều đó chẳng là gì’.” “Anh hiểu rồi chứ?” “Tôi hiểu.” “Tôi muốn nhận tiền công cho công việc mình đã làm. Nhưng lần này thì tôi có thể bỏ qua chuyện đó. Tôi muốn mọi người biết công trình của tôi là do tôi làm ra. Nhưng tôi có thể cho qua. Tôi muốn những người thuê nhà được hạnh phúc bởi công việc của tôi. Nhưng điều đó không có quá nhiều ý nghĩa. Cái duy nhất có nghĩa, mục đích của tôi, phần thưởng của tôi, sự bắt đầu và kết thúc của tôi là tự bản thân công việc. Công việc của tôi, làm theo cách của tôi. Peter, chẳng có gì trên thế giới này mà anh có thể cho tôi, ngoại trừ điều này. Làm cho tôi điều này và anh có thể có bất kỳ cái gì tôi có thể cho anh. Công việc của tôi phải làm được là làm theo cách của tôi. Đấy là động lực riêng, cá nhân, ích kỷ và đầy cái tôi. Đó là cách duy nhất mà tôi làm việc. Đấy là tất cả con người tôi.” “Được rồi, Howard. Tôi hiểu. Với toàn bộ trí óc của mình.” “Vậy thì đây là lời đề nghị của tôi: Tôi sẽ thiết kế dự án Cortlandt. Anh sẽ đề tên anh vào đó. Anh sẽ giữ lại mọi thù lao. Nhưng anh sẽ phải đảm bảo rằng nó sẽ được xây dựng chính xác như tôi thiết kế.” Keating nhìn anh một cách thận trọng và yên lặng trong chốc lát. “Được rồi, Howard.” Anh nói thêm: “Tôi đã chờ đợi, để cho cậu biết rằng tôi biết chính xác những đòi hỏi của cậu và những gì tôi đang hứa.” “Anh biết là việc đó sẽ không dễ dàng chứ?” “Tôi biết nó sẽ vô cùng khó khăn.” “Sẽ khó khăn. Bởi vì nó là một dự án lớn. Nhưng nhất là vì đó là dự án chính phủ. Sẽ có nhiều người tham gia vào, mỗi người có một quyền hạn riêng, mỗi người lại muốn làm nó theo cách này hay cách khác. Anh sẽ có một cuộc chiến vất vả. Anh sẽ phải có được sự can đảm giống như niềm tin của tôi.” “Tôi sẽ cố gắng xứng đáng với nó, Howard.” “Anh sẽ không có khả năng làm điều đó, trừ khi anh hiểu rằng tôi đang trao cho anh một sự tin tưởng còn thiêng liêng hơn… và cao quý hơn, nếu như anh thích từ này – hơn bất kỳ mục tiêu nhân đạo nào anh có thể gọi tên. Trừ khi anh hiểu rằng đây không phải là một sự ban ơn, rằng tôi không làm việc này cho anh hay là cho những người chủ nhà trong tương lai, mà là cho chính bản thân tôi, và anh không có quyền gì với nó ngoại trừ việc tuân theo những điều kiện này.” “Được rồi Howard.” “Anh sẽ phải tự tìm cách để làm phần của anh. Anh sẽ phải tự tìm cách dàn xếp được một thỏa thuận cứng rắn với các ông chủ của anh, và rồi đấu tranh với các quan chức hành chính cứ năm phút lại xuất hiện một lần trong suốt cả năm hoặc lâu hơn thế nữa. Tôi sẽ không có sự đảm bảo nào ngoại trừ lời hứa của anh. Anh muốn hứa với tôi điều đó chứ?” “Tôi hứa với cậu.” Roark lấy trong túi áo ra hai tờ giấy và đưa cho Keating. “Hãy ký đi.” “Cái gì thế này?” “Một hợp đồng ghi rõ các điều khoản thỏa thuận giữa hai chúng ta. Mỗi người giữ một bản sao. Có thể là nó không có bất cứ một giá trị pháp lý nào. Nhưng tôi có thể giữ nó để khống chế anh. Tôi sẽ không kiện anh nhưng tôi có thể công bố hợp đồng này. Nếu uy tín là thứ anh cần tới, anh sẽ không cho phép thỏa thuận này bị lộ ra ngoài. Nếu anh mất can đảm vào bất cứ lúc nào, hãy nhớ rằng anh sẽ mất tất cả bởi sự đầu hàng đó. Nhưng nếu anh giữ lời hứa của anh… tôi sẽ giữ lời hứa của tôi… điều đó được ghi trong bản hợp đồng… rằng tôi sẽ không bao giờ tiết lộ điều này cho bất kỳ ai. Dự án Cortlandt sẽ là của anh. Vào ngày nó hoàn thành, tôi sẽ gửi trả lại anh tờ giấy này và anh có thể đốt nó nếu anh muốn.” “Được rồi, Howard.” Keating ký, đưa bút lại cho Roark và Roark ký. Keating ngồi nhìn anh một lúc, rồi nói một cách chậm rãi, như thể cố gắng phân tách một vài suy nghĩ lờ mờ trong đầu óc anh: “Mọi người sẽ bảo anh là đồ ngốc… Mọi người sẽ bảo tôi được tất cả…” “Anh sẽ nhận được tất cả những gì mà xã hội có thể ban phát ột người. Anh sẽ được tất cả tiền bạc. Anh sẽ được bất kỳ danh tiếng hay huân chương huy chương nào mà người ta muốn trao cho anh. Anh sẽ nhận lấy sự biết ơn mà những người thuê nhà có thế có. Còn tôi, tôi sẽ lấy được cái mà không một ai có thể ban phát ột người, ngoại trừ chính anh ta. Tôi sẽ là người xây dựng Cortlandt.” “Cậu nhận được nhiều hơn tôi, Howard.” “Peter!” Giọng Roark mang âm hưởng chiến thắng. “Anh hiểu điều đó?” “Đúng vậy…” Roark tựa nhẹ vào bàn và cười nhẹ. Đó là âm thanh hạnh phúc nhất mà Keating đã từng nghe. “Lần này sẽ thành công, Peter. Nó sẽ thành công. Sẽ ổn thôi. Anh vừa làm một việc thật tuyệt vời. Anh đã không phá hỏng mọi việc bằng cách cảm ơn tôi.” Keating gật đầu trong im lặng. “Giờ thì thư giãn đi, Peter. Anh có muốn uống gì không? Chúng ta sẽ không thảo luận chi tiết nào tối nay. Cứ ngồi đó và kệ tôi. Đừng có sợ tôi nữa. Hãy quên tất cả những gì anh đã nói ngày hôm qua đi. Việc này xí xóa những chuyện đó. Chúng ta đang bắt đầu từ đầu. Giờ đây chúng ta là hai đối tác. Anh có phần việc mà anh phải làm. Đó là phần đóng góp chính đáng. Tiện thể, đây chính là ý tưởng của tôi về sự hợp tác. Anh sẽ lo phần quan hệ với mọi người. Tôi sẽ lo phần xây dựng. Mỗi chúng ta sẽ làm công việc mà mình biết rõ nhất – và làm trung thực hết mức có thể.” Anh đi đến chỗ Keating và chìa tay ra. Keating ngồi yên tại chỗ, không ngẩng đầu lên, chỉ nắm lấy bàn tay đó. Những ngón tay của anh nắm chặt lấy bàn tay của Roark một lúc. Khi Roark mang cho anh cốc nước, Keating nuốt ba ngụm dài và ngồi nhìn căn phòng. Những ngón tay bám chặt quanh thành cốc, cánh tay anh không cử động, nhưng thỉnh thoảng các viên đá lại kêu leng keng trong nước, mà không chuyển động một cách rõ ràng. Mắt anh di chuyển quanh phòng một cách nặng nhọc, rồi nhìn sang thân hình của Roark. Anh nghĩ, cậu ấy không chủ định làm thế, cậu ấy không làm thế để làm mình đau, cậu ấy không đừng được và cậu ấy thậm chí không biết về nó – cả cơ thể cậu ấy là như thế, cái dáng người của một sinh vật hoan hỉ vì được sống. Và anh nhận ra rằng anh chưa bao giờ thực sự tin rằng có bất kỳ sinh vật sống nào có thể hoan hỉ vì được tồn tại. “Cậu thật là… trẻ, Howard ạ… Cậu thật trẻ… Một lần tôi đã chỉ trích cậu là cậu quá già và quá nghiêm túc… Cậu có nhớ khi cậu làm việc cho tôi ở hãng Francon không?” “Quên chuyện đó đi Peter. Chúng ta đã nói chuyện được với nhau mà không cần nhớ lại.” “Đó là bởi vì cậu tốt bụng. Chờ đã, đừng có nhăn mặt. Hãy để tôi nói. Tôi phải nói vài điều. Tôi biết, đây là điều cậu đã không muốn đề cập đến. Chúa ơi, tôi đã không muốn cậu đề cập tới chuyện đó. Tối hôm đó, tôi đã phải gồng mình lại, với những thứ cậu có thể ném vào tôi. Nhưng cậu đã không làm vậy. Nếu bây giờ mọi thứ đảo ngược và tôi là cậu và nếu đây là nhà của tôi, cậu có thể hình dung tôi sẽ làm hay nói gì không? Cậu không đủ tự phụ.” “Ồ không. Tôi quá tự phụ. Nếu anh muốn gọi như vậy. Tôi không bao giờ làm phép so sánh. Tôi không bao giờ nghĩ về bản thân mình trong mối tương quan với bất kỳ ai. Tôi từ chối việc đong đếm bản thân như một phần của một cái gì đó. Tôi là một kẻ tuyệt đối ích kỷ[139].” “Đúng thế. Cậu đúng là kẻ tuyệt đối ích kỷ. Nhưng những kẻ ích kỷ thì không bao giờ tốt bụng. Cậu thì tốt bụng. Cậu là người ích kỷ nhất và tốt bụng nhất mà tôi biết. Và điều đó thật phi lý.” “Có thể những khái niệm đó phi lý. Có lẽ chúng không mang cái nghĩa mà người ta đã rao giảng về chúng. Nhưng bây giờ hãy bỏ qua đã. Nếu anh cứ phải nói điều gì đó, hãy nói về những việc chúng ta sẽ làm.” Anh cúi người ra ngoài cửa sổ đang mở. “Khu chung cư sẽ mọc lên ở đằng kia, ở khoảng tối đó, đó là công trường của dự án Cortlandt. Khi công trình hoàn thành, tôi sẽ có thể nhìn ngắm nó từ cửa sổ phòng tôi. Lúc đó, nó sẽ là một phần của thành phố. Peter, đã bao giờ tôi nói với anh tôi yêu thành phố này thế nào chưa?” Keating uống nốt chỗ nước còn lại trong cốc. “Tôi nghĩ là tôi nên đi bây giờ Howard. Tối nay tôi không… khỏe.” “Vài ngày nữa tôi sẽ gọi cho anh. Chúng ta nên gặp nhau ở đây. Đừng tới văn phòng tôi. Anh không muốn bị bắt gặp ở đó… ai đó sẽ đoán ra. Tiện đây, sau này, khi tôi làm xong bản phác thảo, anh sẽ phải tự mình sao chép lại bằng phong cách của chính anh. Ai đó có thể sẽ nhận ra nét vẽ của tôi.” “Đúng thế… Được thôi…” Keating đứng dậy, nhìn chiếc ca-táp của anh một lúc, rồi nhặt nó lên. Anh lẩm bẩm vài từ mơ hồ, cầm lấy mũ, đi tới cửa, rồi dừng lại và nhìn xuống ca-táp. “Howard… tôi có mang vài thứ mà tôi muốn cho cậu xem.” Anh bước trở vào phòng và đặt chiếc ca-táp lên trên bàn. “Tôi chưa cho ai xem nó cả.” Ngón tay anh lóng ngóng khi mở những chiếc đai. “Cả mẹ tôi lẫn Ellsworth Toohey… Tôi muốn cậu nói cho tôi nghe xem liệu có bất kỳ…” Anh đưa cho Roark sáu bức vẽ. Roark ngắm những bức vẽ, từng chiếc một. Anh ngắm lâu hơn cần thiết. Khi anh có đủ tự tin để rời mắt khỏi những bức vẽ, anh im lặng lắc đầu trả lời cho câu nói mà Keating đã không thốt ra. “Quá muộn rồi, Peter” anh nói dịu dàng. Keating gật đầu. “Tôi đoán là… tôi đã biết điều đó.” Khi Keating đi khỏi, Roark tựa lưng vào cửa, nhắm mắt. Anh cảm thấy nôn nao vì cảm giác thương hại. Trước đây, anh chưa bao giờ có cảm giác như thế này – ngay cả khi Henry Cameron đổ sụp xuống ngay dưới chân anh trong văn phòng hay khi anh nhìn thấy Steven Mallory thổn thức trên giường trước mắt anh. Những khoảnh khắc ấy đều sạch sẽ. Nhưng cái này chính là sự thương hại – cái ý thức rõ ràng về một con người không có chút giá trị hay hy vọng nào cả, cái cảm giác về sự kết thúc, về cái không thể chuộc lại. Có sự hổ thẹn trong cảm giác này – sự hổ thẹn của bản thân anh khi anh phải tuyên bố bản án với một người, khi anh phải biết tới cái xúc cảm không hề có bóng dáng của sự tôn trọng này. Đây chính là sự thương hại – anh nghĩ – và anh ngẩng đầu lên trong sự phân vân. Anh nghĩ rằng chắc chắn phải có điều gì đó sai trái kinh khủng trong một thế giới mà cái cảm xúc kinh khủng này được coi là một thứ đức hạnh.