Họ là một đoàn quân và đó là một cuộc thập tự chinh. Nhưng không có ai trong số họ nghĩ tới điều này bằng những từ ngữ đó, ngoại trừ Steven Mallory. Steven Mallory là người đã làm những đài phun nước và những công trình điêu khắc của Thung lũng Monadnock. Nhưng anh đến sống ở công trường một thời gian dài trước khi công việc cần tới anh. Chiến trường là một khái niệm tội lỗi, Steven Mallory nghĩ. Không có vinh quang nào trong chiến tranh và không có cái gì cao đẹp trong những cuộc thập tự chinh của con người. Nhưng đây là một chiến trường, đây là một đoàn quân và một cuộc chiến tranh – thế mà nó lại là một kinh nghiệm lớn lao nhất trong đời của tất cả những người tham gia vào nó. Tại sao ư? Đâu là nguồn cơn của sự khác biệt và quy luật để lý giải nó? Anh đã không nói ra điều đó với bất kỳ ai. Nhưng khi nhìn gương mặt của Mike khi anh đến đây cùng với đám thợ điện, anh đã nhận ra Mike cũng có chung một suy nghĩ với mình. Mike không nói gì, nhưng anh ta nháy mắt với Mallory với sự thấu hiểu hân hoan. “Tôi đã bảo cậu đừng lo lắng mà,” Mike nói với anh không hề rào đón, “ở phiên tòa ấy. Anh ấy không thể thua cuộc, mỏ đá hay không mỏ đá, tòa án hay không tòa án cũng thế. Bọn họ đều không thể đánh bại anh ấy, Steve ạ, đơn giản là họ không thể, cả cái thế giới khốn kiếp này cũng không thể.” Nhưng mà họ đã thật sự quên bẵng mất thế giới này, Mallory nghĩ. Đây là trái đất mới, trái đất của riêng họ. Những ngọn đồi vươn lên bầu trời xung quanh họ giống như một bức tường bảo vệ. Và họ còn có một sự bảo vệ khác, đó là người kiến trúc sư đang đi lại giữa họ, xuyên qua tuyết hay những thảm cỏ dưới sườn đồi, người bước lên những tảng đá mòn và những đống ván xếp chồng chất, đi về phía những bàn vẽ, những giàn giáo, lên trên những đỉnh trên cùng của những bức tường đang ngày một vươn cao – người đã biến tất cả những điều này trở thành sự thật – những suy nghĩ trong đầu anh ấy – và không phải là nội dung hay kết quả của những suy nghĩ ấy, không phải tầm nhìn đã tạo nên Thung lũng Monadnock, cũng không phải cái ý chí mà đã làm cho công việc này trở thành hiện thực, mà là phương pháp tư duy của anh, nguyên tắc vận động của nó, cái phương pháp và nguyên tắc chẳng giống bất kỳ ai thuộc về cái thế giới ở phía ngoài những ngọn đồi. Cái đó đã đứng sừng sững bảo vệ cả cái thung lũng này và cả những chiến binh trong đó. Rồi họ nhìn ông Bradley đến thăm công trường; ông mỉm cười dịu dàng rồi lại bỏ đi. Lúc ấy, Mallory cảm thấy tức giận một cách vô lý, và lo lắng. Một buổi tối, họ cùng nhau quây quần bên đống lửa được đốt bởi những cành cây khô, ở ngay sườn đồi phía trên nơi dựng lán trại. Khi ấy, Mallory nói: “Howard, lại là Đền Stoddard nữa.”  “Phải” Roard nói. “Tôi cũng nghĩ như thế. Tôi chỉ không biết rõ theo kiểu nào và mục đích của họ là gì.” Anh lật người, nằm úp bụng xuống và nhìn xuống những thảm cỏ nằm rải rác trong bóng tối ở phía dưới. Chúng phản chiếu ánh sáng từ đâu đó, trông giống như những thảm ánh sáng bằng lân tinh, tự phát sáng trên mặt đất. Anh nói: “Nhưng mà điều đó cũng chẳng sao, phải không Steve? Cho dù họ làm gì với nó và dù ai có đến sống ở đây đi chăng nữa. Chỉ cần biết rằng chúng ta đã làm ra nó. Anh có bỏ lỡ cơ hội này không, nếu sau này họ bắt anh phải trả giá?” “Không,” Mallory nói. * * * Roark đã từng muốn thuê một trong số những căn nhà này cho riêng anh và sẽ dành một mùa hè ở đây, mùa hè đầu tiên mà Thung lũng Monadnock được sinh ra. Nhưng trước khi khu nghỉ mát mở cửa, anh nhận được một bức điện tín từ New York. “Tôi đã nói với cậu là tôi sẽ làm được, đúng không nào? Tôi phải mất năm năm để rũ bỏ được hết đám bạn bè anh em. Nhưng Aquitania bây giờ là của tôi – và của cậu. Đến mà hoàn thành nó đi. Kent Lansing.” Vậy là anh quay về New York – để nhìn thấy những đống gạch vụn và bụi xi măng được dọn sạch khỏi Bản giao hưởng dang dở, nhìn thấy những chiếc cần cẩu đang chuyển những chiếc rầm bên trên Công viên Trung tâm, nhìn thấy những khoảng trống của các khung cửa sổ đã được lấp đầy, những sân thượng rộng rãi trãi rộng bên trên những nóc nhà của thành phố, để thấy khách sạn Aquitania hoàn thành và mỗi buổi tối lại bừng sáng cả một góc chân trời phía công viên. Anh đã rất bận rộn trong suốt hai năm vừa qua. Thung lũng Monadnock không phải là công trình duy nhất của anh. Anh đã nhận được các cú điện thoại yêu cầu từ các bang khác nhau, từ những vùng mà anh không hề chờ đợi trên khắp đất nước: nhà riêng, tòa nhà văn phòng nhỏ, cửa hàng cỡ vừa. Anh đã xây dựng chúng – trong lúc tranh thủ ngủ vài tiếng trên tàu hỏa hay trên máy bay từ Thung lũng Monadnock tới những thị trấn nhỏ xa xôi. Lý do của mọi công việc anh nhận được đều giống nhau: “Tôi đã ở New York và tôi thích Ngôi nhà Enright.” “Tôi đã nhìn thấy tòa nhà Cord.” “Tôi đã nhìn thấy một bức ảnh của ngôi đền mà họ phá đi.” Đó là một mạch nước ngầm tỏa đi khắp nơi, bất chợt biến thành các dòng suối trào lên mặt đất một cách ngẫu nhiên, tại những nơi không dự đoán trước được. Đó chỉ là những công trình nhỏ và không nhiều tiền – nhưng chúng đã làm anh luôn có việc để làm. Mùa hè năm đó, Thung lũng Monadnock hoàn thành; anh không có thời gian lo lắng về số phận tương lai của nó. Nhưng Steven Mallory thì lo lắng về điều đó. “Tại sao họ không quảng cáo cho khu nghỉ này hả Howard? Sao tự nhiên lại yên lặng như vậy nhỉ? Anh có nhận thấy thế không? Trước khi khởi công, người ta đã nói rất nhiều về cái dự án vĩ đại này của họ, và cũng có rất nhiều bài viết nhỏ trên báo chí. Nhưng khi chúng ta bắt tay vào thì người ta càng ngày càng nhắc đến nó ít hơn. Còn bây giờ thì sao? Ông Bradley và công ty trở nên như câm điếc. Đúng vào lúc mà người ta nghĩ là họ phải tổ chức một buổi chiêu đãi báo chí? Tại sao? “Tôi không biết,” Roark đáp… “Tôi là một kiến trúc sư, chứ không phải là một nhà kinh doanh bất động sản. Tại sao cậu phải lo lắng? Chúng ta đã làm việc của mình, hãy để họ làm việc theo cách của họ.” “Cách của họ thật là đáng ngờ. Anh đã nhìn thấy mẫu quảng cáo hiếm hoi của họ chưa? Họ nói tất cả những gì anh đã nói với họ, về sự nghỉ ngơi, sự yên bình và tính riêng tư – nhưng cái cách mà họ nói thì…! Anh có biết những quảng cáo đó sẽ có tác động thế nào không? Nghe y như là ‘Hãy đến Thung lũng Monadnock để buồn đến chết.’ Nghe đúng như là họ đang cố gắng để mọi người tránh xa khu nghỉ này.” “Tôi không đọc quảng cáo, Steve.” Nhưng chỉ trong vòng một tháng sau khi hoàn thành, tất cả các ngôi nhà ở Thung lũng Monadnock đã được thuê. Những người đến nghỉ ở đây thuộc nhiều thành phần khác nhau: những ông bà thượng lưu có đủ tiền cho các khu nghỉ dưỡng xa xỉ hơn, các nhà văn trẻ và các nghệ sĩ không tên tuổi, các kỹ sư, các nhà báo và cả những người công nhân. Một cách bất ngờ và tự nhiên, người ta bàn tán về Thung lũng Monadnock. Nhu cầu về loại khu nghỉ dưỡng như vậy là có thật, chỉ có điều không một ai đã thử đáp ứng nhu cầu đó. Khu nghỉ này đã trở thành tin tức thời sự, nhưng đó là những tin truyền miệng, báo chí chưa phát hiện ra nó. Ông Bradley không có tờ báo riêng. Ông Bradley và công ty của ông ta đã biến mất khỏi dư luận. Một tờ tạp chí đã tự nguyện đăng bốn trang ảnh của Thung lũng Monadnock và cử một nhân viên tới phỏng vấn Howard Roark. Cho đến cuối mùa hè thì những ngôi nhà đã được đặt thuê trước cho cả năm sau đó. Vào một buổi sáng sớm của tháng Mười, cửa phòng tiếp tân của Roard bị mở tung ra và Steven Mallory vội vã chạy thẳng vào văn phòng của Roark. Cô thư ký cố gắng chặn anh ta lại vì Roark đang làm việc và không có phép bất kỳ ai làm phiền. Nhưng Mallory đẩy cô sang một bên, chạy ào vào văn phòng và đóng sập cửa lại. Cô thấy anh cầm một tờ báo trên tay. Roark đang ngồi ở bàn vẽ. Anh ngẩng đầu lên nhìn Mallory và buông rơi bút chì. Anh biết gương mặt Mallory hẳn đã trông như thế này khi anh ta bắn Ellsworth Toohey. “Thế nào, Howard? Anh có muốn biết tại sao anh nhận được công trình Thung lũng Monadnock không?” Mallory ném tờ báo xuống bàn. Roark nhìn thấy đầu đề của một câu chuyện ở trang thứ ba: “Caleb Bradley đã bị bắt.” “Tất cả đấy,” Mallory nói. “Nhưng mà đừng đọc. Nó sẽ làm anh buồn nôn.” “Được rồi, Steve, có chuyện gì vậy?” “Họ đã bán hai trăm phần trăm của nó.” “Ai bán? Bán cái gì?” “Bradley và hội của lão ấy. Hai trăm phần trăm của Thung lũng Monadnock.” Mallory cố gắng nói với một sự chính xác hằn học và khó nhọc. “Ngay từ đầu họ đã nghĩ rằng khu nghỉ này chẳng có giá trị gì cả. Họ gần như không có mảnh đất này – họ nghĩ nó không phải là nơi để xây nhà nghỉ mát – xa đường sá, không xe buýt, không rạp hát xung quanh – họ nghĩ chưa đến lúc và công chúng sẽ không ủng hộ. Họ đã quảng cáo ầm ĩ và bán cổ phần cho rất nhiều bọn giàu có – đó là một vụ lừa lớn. Họ bán hai trăm phần trăm của khu nghỉ này. Họ đã thu được gấp đôi số tiền bỏ ra để xây dựng nó. Họ đã tin chắc là dự án sẽ thất bại. Họ muốn nó sẽ thất bại. Họ nghĩ rằng sẽ chẳng có lợi nhuận nào để mà chia. Họ đã có một kế hoạch tuyệt vời, sẵn sàng để thoát khỏi vụ này khi khu nghỉ bị phá sản. Họ đã chuẩn bị sẵn sàng ọi thứ – trừ việc nhận ra rằng dự án này trở nên thành công như bây giờ. Và họ không thể tiếp tục được nữa vì bây giờ họ phải trả cho cổ đông gấp đôi số tiền họ thu được từ khu nghỉ mỗi năm. Chỗ này kiếm được rất nhiều tiền. họ nghĩ rằng họ đã sắp xếp để nó chắc chắn sẽ thất bại. Howard, anh không hiểu à? Họ đã chọn anh bởi vì anh là kiến trúc sư tồi nhất họ có thể tìm ra!” Roark ngả đầu ra sau và cười. “Chúa ơi, Howard! Chẳng có gì buồn cười cả!” “Ngồi xuống, Steve. Đừng có run người lên như thế. Trông cậu cứ như là vừa mới nhìn thấy cả một cánh đồng xác người ấy.” “Tôi đã nhìn thấy cánh đồng ấy. Tôi còn nhìn thấy cái khủng khiếp hơn. Tôi đã biết được gốc rễ của vấn đề. Tôi đã biết cái gì đẻ ra cái cánh đồng xác ấy. Cái gì làm cho bọn khốn kiếp ấy kinh sợ nhỉ? Chiến tranh, bọn giết người, hỏa hoạn, hay động đất? Quỷ tha ma bắt chúng đi! Cái câu chuyện này mới là điều đáng sợ. Đó mới là thứ mà con người phải khiếp sợ, phải đấu tranh, phải gào thét, và coi nó là điều đáng hổ thẹn nhất mà họ từng làm. Howard, tôi đã nghĩ đến những cách người ta giải thích cái xấu và những phương thuốc mà người ta chế ra hàng thế kỷ nay để chữa nó. Chẳng có phương thuốc nào thành công cả. Chẳng có cách nào giải thích hay cứu chữa được cái xấu. Nhưng nguồn gốc của cái xấu – con quỷ mặt xanh ấy – thì ở ngay kia. Howard, nó ở ngay trong câu chuyện này. Trong đó và trong tâm hồn của những kẻ khốn kiếp sẽ đọc câu chuyện này và nói: ‘Ôi dào, thiên tài luôn phải vật lộn, điều đó tốt cho họ’ và rồi bọn chúng đi tìm những thằng ngốc để học cách làm việc. Đấy chính là hành động của con quỷ mặt xanh kia. Howard, hãy nghĩ về Monadnock. Hãy thử nhắm mắt lại và nhìn nó. Và hãy nghĩ đến việc chính những kẻ đầu tư cho công trình đó trong lúc tin rằng nó là công trình tệ nhất mà họ có thể xây dựng! Howard, có cái gì đó không ổn, rất không ổn trong thế giới này nếu như anh được giao xây dựng công trình vĩ đại nhất của đời mình như một trò đùa bẩn thỉu!” “Đến khi nào thì cậu mới thôi nghĩ về việc đó? Về thế giới và tôi? Khi nào cậu sẽ học cách quên nó đi? Khi nào Dominique sẽ…” Anh ngừng lại. Trong suốt mấy năm nay, họ đã không nhắc đến cái tên ấy trước mặt nhau. Anh nhìn thấy mắt Mallory – chăm chú và sốc. Mallory nhận ra rằng những lời nói của anh đã làm tổn thương Roark, đến mức Roark bật ra sự thú nhận này. Nhưng Roark quay về phía anh và nói một cách điềm tĩnh: “Dominique từng nghĩ giống như cậu.” Mallory chưa bao giờ nói về những điều mà anh đoán ra về quá khứ của Roark. Sự im lặng của họ luôn ngụ ý rằng Mallory hiểu, rằng Roark biết điều đó và rằng đây ko phải là chuyện để bàn luận. Nhưng lúc này, Mallory hỏi: “Anh vẫn đang chờ cô ấy quay lại phải không? Bà Gail Wynand – quỷ tha ma bắt cô ta!” Roark nói mà không hề cao giọng: “Im đi, Steve.” Mallory thì thào: “Tôi xin lỗi.” Roark đi về phía bàn của mình và nói – giọng anh trở lại bình thường: “Về nhà đi Steve, và quên Bradley đi. Bọn họ chắc đang kiện tụng lẫn nhau nhưng chúng ta sẽ không bị lôi vào chuyện đó và chúng sẽ không thể phá hủy Monadnock. Quên nó đi và đi đi, tôi còn phải làm việc.” Anh dùng khuỷu tay gạt tờ báo ra khỏi bàn và cúi người xuống các tấm giấy vẽ. * * * Việc khám phá ra các biện pháp huy động vốn đằng sau dự án Thung lũng Monadnock đã gây nên một vụ xì-căng-đan. Người ta đã mở một phiên tòa xét xử, một vài quý ông đã bị phạt tù và Monadnock được chuyển cho các cổ đông quản lý. Roark không liên quan đến vụ việc. Anh rất bận rộn và quên mất việc theo dõi diễn biến của phiên tòa trên các báo. Ông Bradley nhận lỗi với các cộng sự của mình rằng ông ta thực lòng không hề nghĩ rằng một khu nghỉ được xây dựng với một kế hoạch điên khùng, cách biệt với cộng đồng như vậy lại có thể trở nên thành công. “Tôi đã làm tất cả những gì tôi có thể. Tôi đã chọn kẻ ngớ ngẩn nhất tôi có thể tìm thấy.” Sau đó Austen Heller viết một bài báo về Howard Roark và Thung lũng Monadnock. Ông nói về tất cả các công trình mà Roark đã thiết kế và ông nói lại bằng lời những ý tưởng của Roark trong từng công trình. Chỉ có điều, những lời của Austen Heller không còn hiền hòa như thường lệ - chúng là những tiếng kêu lớn đầy sự ngưỡng mộ và giận dữ. “Và chúng ta đang bị nguyền rủa nếu như sự vĩ đại phải đến với chúng ta qua sự lừa dối!” Bài báo này đã khơi mào ột cuộc tranh luận gay gắt trong giới nghệ thuật. “Howard” – Mallory nói với anh vào một ngày sau đó vài tháng – “Anh nổi tiếng rồi đấy.” “Phải” Roark nói, “Tôi đoán thế.” “Ba phần tư trong số những người đó chẳng biết chút gì về cuộc tranh luận này, nhưng họ nghe số một phần tư kia tranh cãi về anh, và bây giờ họ cảm thấy rằng họ cần phải phát âm tên anh với một sự kính trọng. Trong số một phần tư đang tranh luận, bốn phần mười là những kẻ ghét anh, ba phần mười là những kẻ thấy rằng họ phải thể hiện quan điểm tại bất kỳ cuộc tranh luận nào, hai phần mười là những kẻ luôn giữ ình được an toàn và đưa tin tức về bất kỳ ‘phát hiện’ nào, và một phần mười là những người hiểu biết. Nhưng tất cả bọn họ đều bất ngờ nhận ra rằng có một gã Howard Roark và rằng anh ta là một kiến trúc sư. Bản tin của Hiệp hội Kiến trúc sư báo rằng anh vĩ đại nhưng phóng túng còn bảo tàng Tương Lai đã treo các bức ảnh của Monadnock, của nhà Enright, nhà Cord và Aquitania – treo trong các khung kính đẹp hẳn hoi – ngay cạnh phòng trưng bày về Gordon L. Prescott. Kể cả thế – tôi vẫn vui mừng.” Vào một buổi tối, Kent Lansing nói: “Heller đã làm một việc tuyệt vời. Howard, cậu có nhớ những gì mà tôi đã có lần nói với cậu về thứ tâm lý học pretzel không? Đừng xem thường những người trung gian. Họ rất cần thiết. Một ai đó phải nói cho họ biết điều này. Phải cần đến hai người để làm nên một sự nghiệp vĩ đại: một người đàn ông vĩ đại và một người đàn ông – người này còn hiếm hơn – đủ vĩ đại để nhận biết sự vĩ đại của người kia và nói về nó.” Ellsworth Toohey viết: “Điều lố bịch trong tất cả những ồn ào lố bịch này là ở chỗ ngài Caleb Bradley là nạn nhân của sự bất công nghiêm trọng. Các vấn đề đạo đức của ông ta bị đưa ra mổ xẻ phê bình trong khi khả năng thẩm mỹ của ông ấy lại bị tảng lờ. Những đánh giá về tài năng kiến trúc của ông ấy hợp lý hơn so với ông Austen Heller, một kẻ phản động lỗi thời bỗng nhiên trở thành nhà phê bình nghệ thuật. Ông Caleb Bradley đã bị xử giảo chỉ vì những người thuê nhà của ông ta có thị hiếu rất tồi. Theo ý kiến của người viết bài này, án tù của ông ta cần phải được giảm nhẹ để ghi nhận khả năng đánh giá nghệ thuật đúng đắn của ông. Thung lũng Monadnock là một sự gian lận – nhưng không chỉ là gian lận tài chính.” Giới thượng lưu – nguồn cung cấp đều đặn nhất các hợp đồng kiến trúc – không phản ứng nhiều về danh tiếng của Roark. Những người trước kia đã nói: “Roark ư? Tôi chưa bao giờ nghe tới anh ta” thì nay nói rằng: “Roark ư? Anh ta quá rùm beng.” Nhưng có những người bị ấn tượng bởi một điều đơn giản là Roark đã xây dựng một nơi hái ra tiền cho những người chủ sở hữu vốn không hề muốn nó sinh ra tiền. Điều này thuyết phục hơn cả những tranh cãi về nghệ thuật đầy trừu tượng. Và còn có một phần mười những người hiểu biết kia nữa. Năm kế tiếp công trình Thung lũng Monadnock, Roark xây dựng hai ngôi nhà riêng ở Connecticut, một rạp chiếu phim ở Chicago, và một khách sạn ở Philadelphia. Vào mùa xuân năm 1936, một thành phố ở phía tây lên xong kế hoạch xây dựng một hội chợ thế giới sẽ được tổ chức vào năm sau. Đó là một cuộc triển lãm quốc tế đã được đặt tên Hành trình của Những thế kỷ. Một ủy ban gồm những người nổi tiếng được giao trách nhiệm thực hiện dự án này và phải tiến hành lựa chọn một hội đồng các kiến trúc sư giỏi nhất đất nước để thiết kế hội chợ. Ủy ban này muốn thể hiện sự cách tân vượt bậc. Howard Roark là một trong số tám kiến trúc sư được chọn. Sau khi nhận được giấy mời, Roark trình diện trước ủy ban và giải thích rằng anh sẽ rất vui mừng nếu được thiết kế hội chợ này – và phải một mình. “Chắc anh đang nói đùa, anh Roark” – ngài chủ tịch nói. “hơn nữa, với công trình có tầm vóc lớn thế này, chúng tôi muốn những gì tốt nhất có thể có. Ý tôi là hai người bao giờ cũng tốt hơn một, anh biết đấy, và với tám người… đấy, anh có thể tự đánh giá – toàn những tài năng hàng đầu của đất nước, những tên tuổi lớn nhất – anh biết đấy, tham khảo lẫn nhau, hợp tác với nhau, hoàn thiện lẫn nhau – anh cũng biết cái gì làm nên những thành quả vĩ đại đấy.” “Tôi biết điều đó.” “Thế thì anh nhận ra là…” “Nếu các ngài muốn tôi thực hiện, các ngài sẽ phải để tôi làm tất cả, chỉ một mình tôi. Tôi không làm việc với các hội đồng.” “Anh muốn từ chối cơ hội thế này sao, một kỳ tích trong lịch sử, một cơ hội vang danh toàn thế giới – về cơ bản có thể nói là một cơ hội để trở thành bất tử…” Trong giới kiến trúc, có rất nhiều nhận xét giận dữ về việc Roark từ chối công trình. Người ta nói: “Tên vô lại cao ngạo!” Sự phẫn nộ này gay gắt và sống sượng quá mức có thể đem bàn trong các cuộc chuyện phiếm của giới kiến trúc; mỗi người tự coi nó như một sự lăng mạ với cá nhân; mỗi người đều tự cho rằng mình đủ khả năng để sửa chữa, khuyên bảo và hoàn thiện công việc của bất kỳ người nào. “Việc này là một minh họa hoàn hảo cho bản chất bài xích xã hội trong cái chủ nghĩa duy ngã độc tôn[123] của ông Howard Roard; nó minh họa cho sự tự phụ của cái chủ nghĩa cá nhân phóng túng mà ông ta luôn là hiện thân.” Ellsworth Toohey viết. Trong số tám người được chọn để thiết kế Hành trình của Những thế kỷ có Peter Keating, Gordon L. Prescott, Ralston Ho be. “Tôi sẽ không làm việc với Howard Roark,” Peter Keating nói khi nhìn thấy danh sách hội đồng, “các ngài sẽ phải chọn, hoặc anh ta hoặc tôi.” Anh được thông báo rằng ông Roark đã từ chối đề nghị làm việc. Keating được giao quyền lãnh đạo hội đồng kiến trúc. Những câu chuyện đăng tải về tiến độ của công trình hội chợ này đề cập tới họ bằng cụm từ “Peter Keating và các cộng sự.” Trong vài năm gần đây, Keating bắt đầu hình thành một thái độ hung hăng và bướng bỉnh. Anh ta quát lên khi ra lệnh và mất kiên nhẫn trước những khó khăn nhỏ nhất. Khi mất kiên nhẫn, anh gào thét với những người xung quanh. Anh có cả một kho những từ ngữ chua ngoa, quỷ quyệt, và hiểm độc để chửi rủa người khác; mặt mũi anh ta luôn sưng xỉa. Mùa thu năm 1936, Roark chuyển văn phòng tới tầng trên cùng của tòa nhà Cord. Anh đã từng nghĩ khi anh thiết kế tòa nhà này rằng một ngày nào đó văn phòng của anh sẽ ở đó. Khi nhìn thấy dòng chữ “Howard Roark, Kiến trúc sư” khắc trên cánh cửa mới, anh dừng lại trong giây lát, rồi anh bước vào văn phòng. Phòng của riêng anh nằm ở cuối một dãy phòng dài và có ba mặt bao quanh bằng kính, cao bên trên thành phố. Anh dừng lại ở giữa phòng. Từ những khung cửa sổ rộng, anh có thể nhìn thấy nhà bách hóa Fargo, nhà Enright, khách sạn Aquitania. Anh bước tới những cửa sổ hướng về phía nam và đứng đó một lúc lâu. Ở chõm cuối của bán đảo Manhattan, tít tận phía xa, anh có thể nhìn thấy tòa nhà Dana mà Henry Cameron đã xây dựng. Vào một chiều tháng Mười một, anh quay về văn phòng sau khi đi thăm công trình xây dựng nhà ở Long Island. Roark đi vào phòng lễ tân, rũ chiếc áo mưa ướt sũng, và anh nhìn thấy một sự kinh động bị kiềm chế trên nét mặt cô thư ký. Cô ta đang sốt ruột chờ anh về. “Ông Roark, đây có lẽ là một hợp đồng rất lớn,” cô nói. “Tôi đã xếp lịch hẹn cho ông vào lúc ba giờ chiều mai. Tại văn phòng của ông ta.” “Văn phòng của ai?” “Ông ta gọi điện cách đây nửa giờ. Ngài Gail Wynand.”