Lisle thấy nàng rũ xuống trong vòng tay của nàng. Hoảng hốt, chàng nhìn xuống nàng. Nàng chớp mắt và nhìn lên chàng, đôi mắt xanh mở to ngơ ngác. Tim chàng chao đảo với cảm giác thở phào nhẹ nhõm. “Anh tưởng em ngất vì khoái cảm,” chàng nói nhanh. “Vâng,” nàng mơ màng đáp. “Chúa ơi.” Nàng đã nói Em yêu anh. Chàng cầm bàn tay nàng, bàn tay đeo chiếc nhẫn duy nhất. “Cái gì đây?” chàng hỏi. “Đó là một cái nhẫn,” nàng nói. “Viên đá,” chàng nói. “Đó là viên đá có hình bọ hung,” nàng nói. “Anh đã gửi cho em. Có lẽ anh không nhớ.” Chàng nhớ chứ. Viên đá có hình bọ hung chàng đã gửi kèm một lá thư, từ bao nhiêu năm trước. “Em làm nó thành một cái nhẫn,” nàng nói. “Khi nào?” “Ngay khi em quyết định không gắn nó vào vòng cổ hoặc lắc tay,” nàng nói. “Một cái nhẫn thì em có thể đeo mãi mãi, em đã nghĩ thế.” Chàng mải mê nhìn cái nhẫn. Mãi mãi. Mãi mãi phút giây này. Hàng tá hôn ước và chuyện tình bị phá bỏ, kết thúc bằng việc lưu đày. Không biết bao nhiêu lá thư nàng đã viết bắt đầu bằng Em lại bị TỐNG CỔ ra khỏi nhà hoặc Họ lại vừa đuổi em Về Quê cho tới khi Cơn Giận của mọi người lắng xuống. Olivia, khinh suất và liều lĩnh, luôn sống bằng những quy tắc của riêng mình. Nhưng qua tất cả những năm tháng ấy, nàng vẫn chân thật, theo cách của nàng, đối với chàng. “Em có đeo nó hôm sinh nhật Bà Cố không?” chàng hỏi. “Tất nhiên là có chứ,” nàng nói. “Em luôn đeo nó. Nó khiến em cảm thấy anh luôn... trong tay em.” Nàng cười khúc khích. “Tuyệt,” chàng nói. “Một sự chơi chữ rất tuyệt trong một thời điểm như thế này. Em ở kia, hoàn toàn trần trụi...” “Vâng, rất tuyệt diệu. Trước đây em chưa khi nào ngồi trần truồng bên khung cửa sổ thế này. Thật là một trải nghiệm vô cùng mới mẻ, về mọi phương diện. Anh rất sáng tạo.” Chỉ có nàng mới ngồi đó cười, không mảnh che thân bên khung cửa sổ của một căn phòng lạnh ngắt trong một tòa lâu đài buốt giá. Đó là một hình ảnh sẽ theo chàng trở lại... Ai Cập. Tuy nhiên, đó là một hình ảnh mà chàng không muốn chia sẻ với cả thế gian. May thay, tất cả cửa sổ của lâu đài này đều thụt vào rất kín đáo. Ô cửa sổ này tuy sâu nhưng nhỏ. Nếu không đám công nhân ở dưới sân hẳn đã được chiêm ngưỡng toàn bộ cảnh này. Mà có lẽ nàng cũng chẳng bận tâm chuyện đó. “Ồ, phải, nó dường như là việc đúng đắn phải làm vào lúc này,” chàng nói. “Việc duy nhất đúng, chính xác là thế. Đó là vấn đề, em thấy đấy, một khi người ta bắt đầu những chuyện thế này.” Vừa nói chàng vừa bới tìm trong đống quần áo dưới sàn tấm khăn choàng rồi quàng quanh người nàng. Chàng bỏ áo sơ mi vào quần và cài cúc. Chàng nhặt quần áo của nàng lên, cố cưỡng lại khao khát được vùi mặt mình vào đó. Chàng tròng cái áo lót qua đầu nàng. “Gắng đừng để sưng phổi nhé,” chàng nói. “Thế cũng đáng mà,” nàng nói. “Anh định mặc quần áo cho em à?” “Anh cởi ra,” chàng nói. “Nên anh có thể mặc vào.” Chàng tiếp tục với cái áo nịt. “Em quay lưng lại được không. Nhìn tận mắt sẽ dễ xử lý những thứ như thế này hơn.” “Ngay cả Bailey cũng không thể cởi nó mà không bắt em quay người lại,” nàng nói. “Anh thật tài tình khi có thể tháo hết những cái móc và dải rút ấy.” “Anh đã nghiên cứu cấu trúc trang phục của em,” chàng nói. “Trang phục của em thay đổi quá nhiều kể từ lần cuối anh về đây. Mỗi lần anh về là mỗi lần thấy trang phục của phụ nữ phức tạp thêm.” “Và anh cần phải xử lý chuyện đó,” nàng nói, “cũng y như cần xử lý những dòng chữ tượng hình khó hiểu vậy.” “Nó không chỉ đơn thuần đòi hỏi lý trí,” chàng nói. Chàng nhặt tất và nịt tất lên. “Để em làm cho,” nàng nói. “Anh cởi nó ra,” chàng nói. “Anh sẽ lồng nó vào.” Trước đây chàng chưa bao giờ chú ý kỹ lưỡng tới trang phục của phụ nữ, và thật tình nó đòi hỏi rất nhiều sự tập trung, hết lớp này tới lớp khác với bao nhiêu kỹ thuật mặc vào tháo ra hết sức phức tạp. Nhưng trang phục của nàng mê hoặc chàng. Chàng đã nghiên cứu nó mà không hề hay biết. Chàng kéo một chiếc tất vào bàn chân mảnh mai của nàng, qua cái mắt cá cong cong duyên dáng, lên bắp chân tròn xinh rồi vượt qua đầu gối. Một cái gì đó đè nặng trái tim chàng, chao đảo, náo loạn. Chàng cài nịt tất. Chàng tiến hành một nghi thức tương tự với chân bên kia. Đây có lẽ là một hình thức tra tấn nàng, nhưng chàng cũng chẳng cảm thấy nhẹ nhõm khi cởi ra rồi mặc quần áo vào cho nàng, cứ như thể nàng thuộc về chàng. “Anh làm việc với váy áo của em rất tỉ mỉ,” nàng nói. “Ta có biệt tài với những việc tỉ mỉ.” “Và anh còn có khả năng suy nghĩ hiệu quả để giải mã bí mật của Tờ giấy Bí ẩn,” nàng nói. Chàng ngừng tay lại khi đang kéo quần chẽn lên cho nàng. Chàng đã quên bẵng mất tờ giấy. Nhưng nó chỉ là một mẩu giấy, một câu đố trí tuệ. Nhưng mà - nàng - cái cách nàng nhìn, mùi hương của nàng và màu mắt, đôi má thắm hồng và những nốt tàn nhang trông như mảnh bụi vàng lấp lánh trên da. Nếu là một người Ai Cập cổ đại, chàng sẽ khắc họa hình nàng lên những bức tường trong hầm mộ của mình, như thế chàng có thể ngắm dung nhan nàng mãi mãi trong đời. Nàng đã đặt viên đá hình bọ hung vào một chiếc nhẫn và luôn đeo nó. Chàng nhấc bổng nàng ra khỏi bàn và giúp nàng mặc quần chẽn. Chàng thắt các dải rút, mặc váy lót rồi váy ngoài cho nàng, thắt nơ, cài móc và cài cúc tất cả những gì chàng đã tháo ra. “Rồi,” chàng nói. Xong, xong hết rồi, mọi thứ lại trở về đúng chỗ của nó - chỉ trừ mái tóc nàng, rủ xuống, bám vào bông tai, lòa xòa quanh cổ. Nàng bước lại gần và đặt tay lên ngực chàng. Nàng trượt tay xuống, rồi xuống tiếp. “Lisle,” nàng nói. “Nỗi sung sướng ấy thật không chịu nổi.” “Ta nghĩ,” chàng nói. Nhưng chàng đâu có nghĩ được gì. Bàn tay của nàng ôm lấy dương v*t chàng, nó đang cương phồng lên đầy háo hức. Đôi mắt nàng, mùi hương, giọng nói, tiếng cười. Chàng không đợi nghe điều lý trí phải lên tiếng. Chàng ấn nàng vào tường và tốc váy nàng lên, tìm khe hở của quần lót. Lần này chàng không cởi gì hết. Sau đó Olivia kéo cái tất đã tự ý tuốt xuống trong cuộc mây mưa dữ dội ấy, rồi cài nịt tất lại. Từ khóe mắt, nàng quan sát Lisle cài khuy quần. “Chúng ta phải ra khỏi đây,” chàng nói. “Đúng thế,” nàng đáp. “Chuyện này ra ngoài tầm kiểm soát rồi.” Nàng thiếu kinh nghiệm trong Chuyện Ái Tình, nhưng có thể ước đoán tỷ lệ. Càng làm chuyện này thường xuyên, khả năng nàng dính bầu càng cao. Và nếu chàng có con với nàng... Nàng nhìn chàng, cao ráo, mạnh mẽ, hạnh phúc và vô cùng lịch lãm. Nếu có thai, nàng sẽ rất ân hận. Nàng sẽ tìm mọi cách để giải quyết chuyện này. Nàng rất giỏi khoản ấy, rất giỏi tìm cách. Chàng kéo cái ghế ra từ dưới tay cầm của cánh cửa nhìn ra phía Bắc. Nàng nhìn ra cửa sổ. “Chúng ta sẽ không có nhiều ánh sáng mặt trời để khảo sát tầng lửng. Mặt trời xuống núi rồi.” Chàng ngừng mở chốt cửa sang tháp Nam và nhìn theo ánh mắt nàng. “Chúng ta đã ở trong này bao lâu?” “Khá lâu đấy,” nàng nói. “Bao nhiêu những tháo dây, cởi cúc và cởi móc, rồi lại tất cả những thắt dây, cài cúc và cài móc. Rồi lần thứ hai. Lần sau trực tiếp hơn nhưng em nghĩ chúng ta đã làm nó lâu hơn...” “Đúng thế.” Chàng mở cửa. “Đến lúc vào việc rồi.” Chàng khoát tay xua đi. Phải, đã đến lúc ra khỏi đây. Nàng bắt đầu tự hỏi bản thân. Những câu hỏi khó chịu: Mình sẽ làm gì khi anh lại ra đi? Có quá tệ không nếu xếp thứ hai - hoặc thứ ba hoặc thứ tư? Nó có tệ hơn không được là gì cả, sống ở những lục địa khác nhau, chờ đợi lá thư kể với mình rằng anh đã tìm được người khác ở đó, và cưới cô ấy, và sẽ không bao giờ trở lại hay không? Có tệ quá không - có phải là ngày tận thế không nếu mình đồng ý làm cái việc mà mọi người trên đời đều tin là Việc Đúng Đắn? Như thế sẽ rất tàn nhẫn với chàng, nàng tự nhủ. Nàng bước vội qua cánh cửa và bắt đầu bước xuống cầu thang. Một lát sau, nàng nghe thấy tiếng bước chân của chàng phía sau nàng. “Không biết bữa trà dọn chưa nhỉ,” chàng nói. “Ta đói quá.” Nàng nhận ra mình cũng đói ngấu. Từ bữa sáng ăn muộn tới giờ, nàng chưa có gì vào bụng. “Chúng ta sẽ bảo họ dọn bữa trà ở tầng lửng,” nàng nói. “Em không muốn bỏ phí ánh sáng mặt trời.” “Giờ chúng ta không thể khảo sát căn phòng ấy được, công nhân đang làm việc ở đó,” chàng nói. “Nếu họ thấy chúng ta lần mò khắp những phiến đá và phe phẩy mẩu giấy cổ trong tay, họ sẽ thắc mắc không biết chúng ta đang tìm kiếm gì, và chẳng bao lâu họ sẽ ráp nối được mọi chuyện và tìm ra nguồn cơn. Khi ấy sẽ không chỉ có mấy gã đầu đất truy tìm kho báu nữa đâu.” Nàng đã không nghĩ được thế. Làm sao nàng nghĩ được gì chứ? “Anh nói đúng,” nàng nói. “Cả làng này sẽ nghe chuyện đó - rồi tới làng khác, và làng khác nữa.” “Chẳng mấy chốc chuyện sẽ lan khắp Edinburgh,” chàng nói. “Ta không muốn làm vấn đề phức tạp thêm.” “Chúng ta sẽ phải chờ tới nửa đêm để làm việc đó.” “Ôi trời, cái gì diễn ra trong não em thế?” chàng hỏi. Nàng quay đầu lại ngước nhìn chàng. “Nửa đêm ư?” “Khi ấy mọi người đã ngủ cả,” nàng giải thích. “Như thế sẽ không Khuấy Động Nghi Ngờ.” “Được rồi,” chàng nói. “Đây là việc chúng ta sẽ làm, cô nàng ngốc nghếch ạ. Chúng ta sẽ nghỉ ngơi một lát và dùng trà. Khi chúng ta uống trà xong, công nhân đã về và chúng ta có thể đi xuống xem tiến độ công việc của họ. Chúng ta sẽ tranh luận về chuyện đó. Việc này sẽ cho chúng ta vài giờ đồng hồ. Em hiểu chứ?” Nàng quay người, bước tiếp xuống cầu thang. “Dĩ nhiên em hiểu. Và em không phải cô nàng ngốc nghếch.” Hai giờ sau khi công nhân về hết, Olivia cau mày nhìn những bức tường của tầng lửng trên tầng hầm. “Hoặc là chúng ta phải dùng cuốc xử lý nó, hoặc là chúng ta phải làm việc này vào ban ngày,” nàng nói. “Cả hai chiều đều là bốn mét. Mọi bức tường đều trống không. Em không hiểu sao anh có thể làm việc trong những hầm mộ không có cửa sổ. Em không xác định được dấu vết trên đá là các biểu tượng hay chúng chỉ là những dấu vết ngẫu nhiên.” “Những bức tường trong hầm mộ thường chạm khắc và vẽ rất tỉ mỉ,” Lisle nói. “Chỉ cần có nến hoặc đuốc là người ta có thể thấy khá rõ.” Chàng lướt bàn tay trên một phiến đá. “Trông có vẻ như ai đó đã dùng cuốc xử lý lớp vữa chỗ này thật đấy, sau đó nó được trát lại. Nhưng đúng là chỗ này đã qua một lần khôi phục.” Olivia có thể thấy điều chàng nói là đúng, dù chỗ đó chỉ hơi khác một chút so với lớp vữa chung trên tường. “Nếu có ai đó đã tìm kiếm, rõ ràng họ cũng không có ý tưởng nào hay ho hơn chúng ta về việc phải tìm kiếm ở đâu.” “Anh không định bắt đầu đào xới những mảng tường một cách ngẫu nhiên đâu,” chàng nói. “Căn phòng này đã được khôi phục khá tốt rồi.” Chàng nhìn nàng. “Em sẽ phải kìm nén sự nôn nóng của mình lại thôi. Chúng ta cần suy nghĩ chuyện này thật thấu đáo và lên một kế hoạch.” Olivia nhìn ra xung quanh. Lisle nói rằng, thời xưa căn phòng này hẳn phải có một khu bảo vệ. Nó có một lò sưởi, một tủ ly, và một buồng ngủ nằm trong góc của một hộc tường nhìn ra hướng Nam. Hiện nay nó trống không, nhưng mấy ngày vừa qua nó đã được sửa sang và lau chùi sạch sẽ. Nàng thấy nản chí và mất kiên nhẫn, nhưng không sẵn lòng phá hoại toàn bộ công sức mà những người lao động đã đổ vào nó. “Chủ nhật,” chàng nói. “Công nhân sẽ không ở đây, và hầu hết người hầu sẽ nghỉ nửa ngày. Chúng ta có thể xem xét thật tỉ mỉ từng li từng tí nơi này mà không bị làm phiền hoặc gây nên lời đồn đại. Và chúng ta sẽ có ánh sáng ban ngày. Hoặc cái gì đó tương tự thế. Có lẽ vậy.” “Em hy vọng khi ấy chúng ta sẽ biết thêm chút gì đó,” nàng nói. “Hai quý bà sẽ trở lại vào bữa tối. Em đang mong ngóng họ chí ít cũng mang lại một chút ánh sáng cho bí ẩn này. Và vẫn còn rất nhiều giấy tờ của ông chú anh cần xem xét. Em mới bắt đầu với chúng thôi.” Nàng khoát tay vào bức tường khiêu khích trí tò mò. “Chủ nhật, đợi đấy nhé, kẻ bí hiểm khó ưa kia.” “Nếu trời không mưa,” Lisle nói thêm. Tối muộn hôm đó ‘“Các bức tường có tai và mắt. Nhưng từ đó, chúng nhìn xuống phía dưới,’” Lisle nhắc lại. “Thật sao?” Hai quý bà gật đầu. Họ từ Edinburgh trở về khá muộn vì phải ăn tối với bạn bè ở đó. Qua ánh nến trên bàn ăn khuya, các quý bà thuật lại những chuyện họ thu thập được từ nhiều cuộc trò chuyện với những người từng phục vụ Frederick Dalmay. Hai câu trên là tất cả những gì họ mang về. “Xin lỗi, các cháu yêu,” Quý bà Withcote nói. “Chỉ là những lời nói lắp bắp.” “Và không có bí mật nào cả,” Quý bà Cooper nói. “Cả thế gian này đều biết Frederick Dalmay nói gì trên giường lúc hấp hối. Mọi người nghĩ đó là một câu đùa của ông ấy thôi.” “Lời ông ấy nói mỗi lúc càng thêm tối nghĩa vào giai đoạn mấy tháng cuối đời,” Quý bà Withcote nói. Cả thế gian này đều biết chuyện tình của ông với một góa phụ trong làng kéo dài suốt nhiều năm. Cả thế gian cũng biết tất tần tật những chuyện tình khác của ông. Ông chú của Lisle rất thích đàn bà và họ cũng mê ông như điếu đổ. Rõ ràng, ông muốn sưu tầm mọi thứ không kém gì ông thích những câu đùa và phụ nữ. Cứ hễ tìm thấy một cuốn sách, bài báo hay lá thư nào viết về lâu đài Gorewood, ông lại sướng run lên. Ông không phân loại - ít ra là không theo một cách rõ ràng nào đó - các tài liệu đặc biệt liên quan đến kho báu hoang đường. Nhưng Lisle nói, “Các bức tường.” Chàng nhìn Olivia, nàng đang đẩy qua đẩy lại một miếng bánh ngọt trên đĩa. Nàng đã làm thế với hầu hết mọi thứ đồ ăn của nàng: sắp đặt kiểu này rồi sắp đặt kiểu kia, thỉnh thoảng nhớ ra phải ăn một chút. Đêm thứ Sáu ngày 28 tháng Mười Anh em nhà Rankin quan sát Mary Millar và một số người khác dìu ông anh say xỉn của cô ra khỏi quán rượu. “Một gã hữu ích, hắn đấy,” Roy nói. “Lần đầu tiên trong đời,” Jock họa theo. Mary Millar đã được thuê làm hầu gái tại lâu đài Gorewood. Anh trai cô, Glaud, là thợ sửa giày. Anh em nhà Rankin bảo với Mary là chúng e rằng những ngón tay của Glaud có thể đột nhiên bị gãy. Chúng e chuyện đó sẽ xảy ra nếu Mary không tỏ ra thân thiện và nói chuyện với chúng nhiều hơn - ví như, về tất cả những gì đang diễn ra trong lâu đài. Chúng cũng e rằng nhiều chuyện sẽ xảy ra nếu cô hé răng với người khác. Ai mua rượu cho Glaud thì đều là bạn của gã. Chẳng mấy chốc, anh em nhà Rankin là những người bạn tốt của gã. Hằng đêm, khi Mary tới dìu gã về, gã đang ngồi trong góc phòng với hai người bạn tốt của gã, cách xa những người khác. Cô cũng tới ngồi xuống, nói chuyện với bọn chúng, nhanh và rất khẽ. Đêm nay cô kể cho chúng nghe chuyện hai quý bà tới Edinburgh. “Chúng biết những lời lão già ấy nói,” Jock lên tiếng. “Nhưng chúng lại không đào bới.” “Tường có mắt và tai nhưng nhìn xuống phía dưới,’” Roy nói. “Cái gì ở dưới tường nếu không phải là mặt đất cơ chứ?” Jock nhìn quanh hắn, nhưng chẳng có ai ở gần đủ để nghe lỏm. Ngay cả khi quán rượu đông nghịt, mọi người vẫn thường trừ một khoảng không gian nhỏ quanh bọn chúng. Hắn tì cằm trên cái cốc vại và nói, “Chúng ta đã tìm thấy một số thứ lẫn trong đất. Bên cạnh tường.” Roy ngẫm nghĩ hồi lâu. Jock nhìn chằm chằm vào cốc vại. “Chúng không đào bới, lạ thật,” hắn nói. “Mà chúng ta thì không thể.” Roy vẫn nghĩ tiếp. “Tao sẽ phát điên mất thôi, chắc chắn là thế,” Jock nói. “Tất cả khoảng thời gian này...” “Có thể nó không mang nghĩa đen của từ ngữ thì sao,” Roy cắt lời. Chuyện này thì quá phức tạp với Jock. Hắn lắc đầu, cầm vại bia lên nốc cạn. “Có thể bọn chúng hiểu được nghĩa hàm ẩn của nó,” Roy nói. “Có vẻ có lý đấy. Lão già ấy có trình độ. Con trai của lão chủ thái ấp cũng có trình độ. Có thể câu nói của ông ta giống như trong tiếng Hy Lạp. Nhằm phát biểu một điều gì đấy khác. Và tờ giấy ấy giải thích nó. Chúng ta không tìm được tờ giấy ấy. Chúng ta chẳng làm được gì cả. Có lẽ chúng ta nên để bọn chúng xử lý nó, để chúng làm công việc đó.” “Và tìm ra nó?” Jock kêu lên. “Chỉ thế thôi? Từ bỏ?” “Sao không để họ làm mọi việc và tìm ra nó?” Roy nói. “Tìm kiếm là một chuyện. Giữ lại là chuyện khác.” “Mày bị điên rồi sao Roy?” gã em lên tiếng. “Mày nghĩ chúng ta có thể cướp nó ra khỏi tay chúng? Một nhà đầy người hầu và gã Herrick hung tợn đó quản lý chúng? Song sắt trước cửa. Bẫy trong tầng hầm.” “Chúng ta có Mary,” Roy nói. “Cô ta sẽ làm những gì chúng ta bảo.” Chủ nhật ngày 30 tháng Mười “Khốn kiếp, khốn kiếp!” Olivia thét lên. “Khốn kiếp, lũ đá cứng đầu! Bọn mi đâu phải tượng Nhân sư chứ, lũ bướng bỉnh này! Bọn mi đang giấu cái gì trong đó và cả hai chúng ta đều biết.” Nàng hung hăng bổ cái vồ vào tường tầng lửng. “Đừng...” “Ối!” Cái vồ rơi đánh xoảng xuống sàn. “Đừng bổ mạnh quá,” Lisle lầm bầm. Chàng bỏ búa xuống rồi đi lại chỗ nàng. Nàng đang xoa cánh tay. Chàng gỡ bàn tay ra rồi xoa bóp cho nàng. “Em nên gõ nhè nhẹ thôi,” chàng nói. “Em không quen làm việc này,” nàng nói. “Em không biết mình đang gõ vào cái gì nữa. Em không biết mình đang lắng nghe cái gì. Anh không thể chỉ làm cái việc mà Belzoni thực sự... đã làm sao?” Chàng ngừng xoa bóp. “Belzoni đã làm gì?” “Anh biết mà. Anh đã có lần giải thích chuyện đó cho em. Cách ông ấy nhìn một công trình mà phát hiện được được những chỗ có vẻ khác biệt so với cát hoặc tìm ra mảnh vỡ xung quanh nó. Nhờ khả năng ấy ông đã phát hiện ra lối vào Kim tự tháp thứ hai. Sách của ông ấy đã viết như thế.” Nàng chỉ vào tường. “Anh không thể chỉ nhìn thôi sao?” “Anh nhìn rồi,” Lisle nói. “Nhưng chuyện này không giống vậy chút nào đâu. Nó không bị cát và những mảnh vụn che khuất. Ta cũng không biết chắc mình đang tìm gì.” Chàng nhận ra mình không xoa bóp nữa nhưng vẫn cầm tay nàng. Chàng thả nó ra, nhẹ nhàng và thận trọng, rồi lùi lại một bước. Năm ngày rồi. Đó là một khoảng thời gian dài. Họ luôn bận rộn, xem xét mọi sách vở và ghi chép của Frederick. Nhưng không phải sau những cánh cửa đóng kín. Họ mang sách báo giấy tờ xuống làm việc trong đại sảnh, chàng bên này bàn, nàng bên kia. Họ không nói chuyện về việc đó nữa. Họ không cần phải làm thế. Mọi việc đã vượt ra khỏi tầm kiểm soát, và ngay cả nàng cũng thừa nhận điều đó. Ngay cả nàng cũng biết họ đã đứng trên miệng vực, và ngay cả nàng, vốn rất khinh suất, cũng đã lùi bước. Chúng ta sẽ phá hoại cuộc sống của nhau... Em sẽ không chịu xếp thứ hai trong trái tim đàn ông. “Manh mối của chúng ta đâu rồi?” chàng nói. “Đâu đó trên sàn nhà ấy,” nàng nói. “Em đã làm rơi nó. Em ước mình chưa bao giờ nhìn thấy nó.” “Nhắc nhở anh không bao giờ đưa em tới hố khai quật nhé,” chàng nói. “Cứ như thể anh sẽ đưa em đi không bằng,” nàng nói. “Có chứ,” chàng nói. “Nhưng em sẽ chết vì buồn chán. Hoặc giết ai đó. Kiên nhẫn không hề phù hợp với em.” Nàng xoay tròn người khiến cái váy tung bay rồi thả mình xuống một cái ghế dài mà công nhân đã để lại. Chàng tìm thấy mảnh giấy cổ mà nàng bỏ qua một bên. Chàng tập trung vào nó. Những dấu hiệu này không phù hợp với những dấu hiệu trên tường. Bức tường có những chữ in hoa và những dấu vết thợ xây để lại - ai cũng để lại một dấu hiệu nào đó, đúng cái cách mà du khách đã làm với Giường Khổng Lồ ở Ware. “Anh thật sự đã nghĩ về chuyện đó,” nàng nói. “Về việc em ở bên anh, bên một hố khai quật.” Chàng đã nghĩ về chuyện đó, nhiều hơn chàng tưởng. Khi lần đầu tiên nhìn thấy Kim tự tháp lớn và tượng Nhân sư, chàng đã nghĩ về nàng, băn khoăn không biết vẻ mặt của nàng sẽ ra sao và nàng sẽ nói gì khi lần đầu nhìn thấy những thứ này. Khi bước vào một hầm mộ thì chàng... “Đôi khi anh nghĩ sẽ thế nào nhỉ nếu quay lại được nhìn thấy em và nói, ‘Nhìn này. Nhìn này, Olivia.’ Phải, nhiều lúc anh đã nghĩ thế.” “Ồ,” nàng khẽ kêu lên. “Như thế chắc vui lắm, phút đầu khám phá ra một điều gì đó,” chàng nói. “Em sẽ thích cảm giác ấy. Nhưng trước và sau khoảnh khắc ấy là hàng giờ, hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng chán ngắt với công việc đều đều buồn tẻ.” “Trong khoảng thời gian ấy thì anh quên mất có em tồn tại nhỉ.” “Em có thể mang cho anh một tách trà,” chàng nói. “Như vậy sẽ gợi cho anh nhớ.” “Anh có Nichols làm việc đó rồi.” “Em có thể cởi bỏ hết quần áo.” “Và khỏa thân nhảy múa giữa sa mạc?” “Trong đêm,” chàng nói. “Dưới bầu trời triệu triệu vì sao. Em chưa bao giờ nhìn thấy trời sao như thế, những đêm dài như thế đâu.” “Nghe như thiên đường ấy nhỉ,” nàng nói khẽ. Rồi nàng vươn người lên khỏi ghế. “Nhưng em biết anh đang làm gì. Anh đang quyến rũ em.” “Đừng có ngớ ngẩn thế.” Mà có phải chàng đang quyến rũ nàng không nhỉ? Có lẽ thế. “Em hiểu anh mà, Lislie. Em hiểu anh hơn bất kỳ ai trên đời. Lý trí của anh đang bị bào mòn, đêm này qua đêm khác, bào mòn, bào mòn. Và anh đã lập một kế hoạch xảo trá để đánh gục em. ‘Mình sẽ quyến rũ cô ấy,’ anh quyết định thế. Và bởi vì anh hiểu em rõ hơn bất kỳ ai khác ngoài mẹ em, anh biết cách để làm việc đó.” Có đúng thế không? Nó có hiệu quả không? Nàng bước tới bên chàng. “Em kiên nhẫn hơn anh tưởng đấy, nhưng em thấy buồn bực. Chuyện tình cảm trớ trêu ngang trái này không phù hợp với em. Cho em nhìn lại tờ giấy nào.” Ai Cập. Khỏa thân nhảy múa trên sa mạc, dưới sao trời. Chàng trông thật giống thiên thần - mái tóc vàng và đôi mắt lấp lánh ánh bạc - nhưng chàng cũng là kẻ quyến rũ cực kỳ ma mãnh. Nàng cầm lấy tờ giấy trên tay chàng và cố tập trung vào đó. Bản vẽ cho thấy hai bức tường có kích thước bốn mét. Bên trong những phiến đá vuông là những dấu hiệu và con số nhỏ xíu. Trong bản vẽ, ở khoảng một phần tư phía trên của bức tường, bên tay phải, có một biểu tượng. “Biểu tượng này,” nàng nói. “Không giống những cái khác, đúng không?” “Một dấu vết của thợ xây, ta nghĩ thế. Nó giống như chữ GL với một mũi tên xuyên qua.” “Nếu đó là mũi tên, nó đang chỉ sang bên trái,” chàng nói. “Nhưng biểu tượng này ở đâu?” Cả hai bước sang bức tường phía Đông để tìm kiếm dấu vết ấy. Chẳng có gì. Họ đi lại bức tường phía Tây để tìm kiếm dấu vết ấy. Cũng không có gì. “Nó hẳn phải ở trên một...” Nàng dừng lời. “Trừ phi chúng ta đang tìm sai thứ cần tìm.” Những từ ngữ lướt qua trong đầu nàng, cả các hình ảnh nữa. Điều mà hai quý bà đã nói. Điều Lisle đã nói. “Nhớ khi em nói rằng bản vẽ một bức tường trông rất rõ ràng và anh bảo bản đồ thì luôn rõ ràng không?” nàng hỏi. Chàng nhìn xuống dấu hiệu. Rồi ngó lên bức tường. “Một mũi tên đang chỉ vào điểm đó ư?” chàng hỏi. “Nếu bức tường ấy là bức tường phía Tây, có lẽ nó đang chỉ vào một cửa sổ.” “Nhưng tại sao lại là GL?” “Đây là bức vẽ của ông chú anh,” nàng nói. “Sẽ ra sao nếu đó là một trong những trò đùa vui của ông?” “Tường có tai và mắt,’” nàng nói. ‘“Nhìn xuống phía dưới.’” Và đó là khi nàng thấy nó hiện ra trong tâm trí mình. Thành phố trên ngọn núi khổng lồ. Thành phố nơi Frederick Dalmay sống những năm cuối đời. “Edinburgh,” nàng nói. “Ông cụ chắc là nghĩ chuyện này buồn cười lắm.” “Anh không...” “Nào,” nàng nói. Nàng nắm bàn tay chàng. Bàn tay chàng, bàn tay chàng. Một việc đơn giản là thế, nắm bàn tay chàng, nhưng những gì xảy ra bên trong thì không hề đơn giản. Nàng dẫn chàng vào hộc cửa sổ ở cực Đông, ở đó có một căn phòng nhỏ. Nàng mở cánh cửa. “Gardy loo," nàng nói. “Đây là nhà xí,” chàng nói. “Nhà vệ sinh,” nàng bảo. “Một trò chơi chữ nghĩa, ở Edinburgh, khi người ta đổ chất thải qua cửa sổ, người ta sẽ kêu to ‘Gardy loo’ - garge à l’eau để cảnh báo cho người đang đi phía dưới là sắp có nước bẩn đổ xuống. Một lời cảnh báo, anh biết đấy: Nhìn xuống phía dưới.” Đó là một không gian nhỏ và tối om. Nhưng cũng không khó để tìm được tấm ván đậy cái hố lại, và ngọn nến duy nhất Lisle mang vào dường như rất sáng trong căn phòng chật chội này. Nó soi cho họ thấy những chữ cái, những bức tranh nguyên thủy và bài thơ bậy bạ nguệch ngoạc trên những phiến đá bằng nhiều nét chữ khác nhau qua nhiều năm tháng. Lisle bị chèn ép giữa đống váy của Olivia, họ đứng vai kề vai, trong khi đó chàng chầm chậm đưa lên hạ xuống ngọn nến để có thể xem xét kỹ từng phiến đá. Tuy họ đã để cửa mở để đón được tối đa ánh sáng từ cửa sổ nhà vệ sinh, căn phòng vẫn không phải là nơi chứa được hai người và càng không thể đứng lâu. Không khí mỗi lúc một nóng nực và ngột ngạt hơn, mái tóc nàng ngay dưới cằm chàng, mùi hương dìu dịu từ quần áo và da thịt nàng bao phủ quanh chàng. “Tốt nhất là chúng ta nên sớm tìm được cái gì đó,” chàng nói. “Đây là... đây là...” “Em biết,” nàng nói. “Ở dưới hầm mộ có giống thế này không?” “Anh chưa bao giờ ở dưới hầm mộ với em cả,” chàng đáp. Chàng cúi xuống tì lên mái đầu nàng, những lọn tóc óng ả của nàng khẽ đung đưa. “Để ý cây nến đấy,” nàng nói. Ngay lúc ấy chàng thấy giọt nến nóng bỏng rơi xuống bàn tay, chàng vội vàng dựng nó lên, và ánh sáng soi rọi một đường vữa quanh một phiến đá. Mỗi bên đường vữa ấy, ai đó đã vạch một dấu nhân nho nhỏ. “Kìa,” nàng thốt lên. “Kia có phải là...” “Phải.” Chàng đưa cây nến lại. “Những dấu X.” “Chúa ơi.” Nàng nắm chặt cánh tay chàng. “Em không tin được. Nó cũ rồi đúng không?” “Đúng vậy,” chàng nói. “Và các dấu X đó đều ở trên vữa chứ không phải trên đá. Những dấu vết cũ, lớp vữa cũ.” Ở tất cả những nơi khác, các dấu vết đều ở trên đá. Tim chàng đập thình thịch. Có thể điều này chẳng có ý nghĩa gì. Có thể đó chỉ là một trò đùa khác của ông chú của chàng. Những vết tích này đã cũ, nhưng ai biết được cũ tới mức nào. Mười năm hay hai mươi năm hay hai trăm năm. “Ôi, Lisle,” nàng nói. “Chúng ta đã tìm thấy nó.” Nàng quay sang phía chàng. “Em không quan tâm nó là cái gì. Nhưng nó cũ và chúng ta đã tìm thấy nó.” Chàng cũng không quan tâm nó là gì. Chàng đặt ngọn nến xuống đầu bên kia bệ xí. Chàng đặt hai tay lên hông nàng rồi nhấc bổng nàng lên, nhìn thẳng vào mắt nàng. “Em là cô gái hoang dại,” chàng nói. “Một cô gái hoang dại thông minh.” Nàng vòng tay quanh cổ chàng. “Cảm ơn anh,” nàng nói. “Cảm ơn. Cho dù chúng ta không tìm được thêm gì nữa, cũng cảm ơn anh vì điều này.” Chàng hôn nàng. Chàng đã nhấc nàng lên để làm như thế. Nàng hôn lại chàng. Một lần duy nhất, dài và bạo liệt, như thể đó là cơ hội cuối cùng họ có. Rồi chầm chậm, chàng đặt nàng xuống. Chàng cầm cây nến lên và làm việc chàng vẫn luôn làm. Kiểm tra. Đánh giá. Quyết định. Chàng nghiên cứu lớp vữa. Xem xét những lựa chọn. Và quyết định. “Chúng ta cần cái đục,” chàng nói. Công việc kéo dài như bất tận. Họ mang cuốc chim tới, nhưng như Lisle đã nhận ra rõ ràng từ trước, họ không thể vung cuốc một cách dễ dàng trong không gian chật chội này được. Thế cho nên họ đục bỏ lớp vữa. Họ đứng bên cạnh nhau, thỉnh thoảng cơ thể lại chạm vào nhau khi đang làm việc. Từng chút một, lớp vữa rụng ra từ gờ của những phiến đá cho tới khi cuối cùng họ đã tách rời được viên đá đủ để chuyển nó đi. “Lớp vữa không cứng như anh tưởng,” chàng nói. “Anh cứ nghĩ chúng ta phải đục đẽo nhiều giờ đồng hồ cơ đấy.” Chàng lắc lắc viên đá. “Anh cũng nghĩ phiến đá này không nặng như vẻ bề ngoài. Em có muốn cùng anh thử dịch chuyển nó không, hay để anh gọi người hầu nhé?” “Sao anh có thể hỏi thế chứ nhỉ?” nàng nói. “Sau chừng ấy thời gian chúng ta dành cho mẩu giấy khó hiểu ấy và những phiến đá cứng đầu này? Sau tất cả những việc đó mà em lại để cho đám người hầu thưởng thức giây phút chiến thắng à?” “Chúng ta đâu biết chắc đó có phải là khoảnh khắc thắng lợi hay không,” chàng nói. “Em không quan tâm cho dù tất cả những gì chúng ta tìm thấy chỉ là một chiếc giày của ông chú Frederick đi chăng nữa,” nàng nói. “Chúng ta đã tìm thấy cái gì đó.” “Tuyệt lắm,” chàng đáp. “Em đặt tay vào đó, nhấc lên, rồi cứ để việc vận chuyển cho anh.” Nàng làm theo hướng dẫn của chàng, và chầm chậm, từng centimet một, viên đá rời khỏi bức tường. Tuy nhiên, mọi việc diễn ra không chậm như nàng tưởng. Góc trong xuất hiện đột ngột khiến nàng hết sức bất ngờ và suýt nữa đã làm rơi phiến đá, may mà có Lisle đỡ kịp. Rồi chàng nhấc phiến đá ra, đặt xuống tấm ván che bệ xí. Nhìn bề ngoài nó chẳng khác gì những phiến đá khác, nhưng chiều sâu của nó đã bị cắt chừng mươi phân. Chàng giơ nến lên. Nàng nhón chân, nhìn vào khoảng không gian mà viên đá vừa hé lộ. Trong đó có đặt một cái hòm sắt gỉ.