Sáp Huyết

Chương 120 : Cung biến (4)

Quách Tuân nhận ra người đó, tên gọi Lý Tuân Úc, vốn là Phò mã Đô uý, có thể coi như có mối quan hệ thông gia với Thái hậu. Những năm gần đây, đa phần thời gian Thái hậu đều ngồi sau rèm, kể cả lần trước, khi gặp gỡ sứ giả Bất Không của Thổ Phiên, Thái hậu cũng không hề lộ diện. Quách Tuân nghĩ đến điểm này, không khỏi cảm thấy quái lạ. Quách Tuân vừa nghĩ, vừa quỳ một gối xuống, nói: - Thần tham kiến Thái hậu. Qua bức rèm châu, có thể thấp thoáng nhìn thấy Lưu Thái hậu đặt chung trà xuống, câu đầu tiên là: - Quách Chỉ huy, ngươi muốn tạo phản sao? Sau khi Địch Thanh rời khỏi cung vua, Triệu Trinh cho Thượng mỹ nhân lui xuống, chỉ giữ lại thái giám thân cận trong cung. Đám thị vệ cảm thấy trong lòng vừa bất an, vừa phấn chấn. Phải biết rằng, kể từ sau sự kiện “chén rượu tước binh quyền” ở thời Thái tổ, triều đình chưa từng có võ tướng nào được dùng lễ này tiếp đãi, mà đối tượng của “chén rượu tước binh quyền” đều là những hàng Úy chấn tám phương. Còn những người đang ngồi đây, chẳng qua chỉ là mấy tên Điện tiền thị vệ mà thôi, lại có thể có cơ hội cùng uống rượu với Hoàng đế, quả là vinh dự một đời. Triệu Trinh nâng chén rượu lên, nói: - Trẫm đi đế lăng một chuyến, không ngờ lại gặp phải biến cố đáng sợ, nhiều người trung thành hộ giá phải bỏ mạng, mỗi lần nghĩ lại, trẫm đều thấy trong lòng không yên. Trước tiên, trẫm xin kính những thị vệ đã mất một chén, thay cho lời xin lỗi. Nói đoạn nâng ly uống một hơi cạn. Mọi người không nói nhưng ai nấy đều cảm động, cùng với Triệu Trinh uống cạn chén rượu. Cung nhân lại rót đầy một chén rượu cho Triệu Trinh, Triệu Trinh nâng ly rượu, nói với những người đang có mặt: - Lần này trẫm hành sự lỗ mãng, liên lụy đến các khanh, trẫm tạ lỗi với các khanh. Các thị vệ nhất loạt đứng lên, cùng hô không dám. Vương Khuê nói: - Thánh thượng, bọn chúng thần đều là nhờ Thánh thượng cất nhắc, thân là Điện tiền thị vệ, chức trách chính là bảo vệ Thánh thượng, sớm đã không còn để ý đến chuyện sống chết nữa, lời này của Thánh thượng, quả thật chẳng khác nào giết chết chúng thần. Sau này Thánh thượng có gì sai bảo, bọn chúng thần dù có lên núi đao, xuống biển lửa, muôn chết cũng không từ! Gã nói rất thẳng thắn chân thành, nhưng trong lời nói lại hàm chứa ý nghĩa rất sâu xa. Địch Thanh ở bên nghĩ, Vương Khuê cũng biết đêm nay Thánh thượng có việc cần làm, nên dùng lời nói để ám chỉ rằng, sẽ tuân theo một cách vô điều kiện. Còn về phần ta, Quách đại ca bảo ta phải nghe theo sự sai bảo của Thánh thượng, ắt hẳn sớm đã định sẵn việc. Định sẵn việc gì, Địch Thanh không hề biết. Nhưng cứ nghĩ, bao năm nay Quách Tuân quan tâm chăm sóc cho hắn như thế, là nhiệt huyết dâng lên, cũng nói: - Vương Khuê nói không sai, nếu Thánh thượng có gì sai bảo, bọn chúng thần đâu lý gì lại không tuân theo. Các thị vệ khác cũng nói: - Nếu Thánh thượng có gì sai bảo, bọn chúng thần xin nguyện tuân theo! Trong thoáng chốc, trong Đế vua nhiệt huyết sôi trào, tinh thần của mọi người dâng lên mãnh liệt. Triệu Trinh khẽ mỉm cười, nói: - Hay lắm, vậy uống cạn chén rượu này đi. Thấy mọi người đã uống cạn, Triệu Trinh lại nói: - Dùng cơm thôi. Các thị vệ đều hiểu được dụng ý của hai người Vương Khuê, Địch Thanh, cho nên uống ít rượu, ăn nhiều cơm. Sau khi Địch Thanh ngồi xuống, không hiểu vì sao mà mí mắt giật giật, tâm trí không yên, càng lúc càng sợ hãi. Nhưng rốt cục là vì chuyện gì, thì hắn cũng không rõ. Trương Ngọc ngồi bên cạnh, thấy hắn không yên, bèn quan tâm hỏi: - Địch Thanh, ngươi không sao chứ? Địch Thanh lắc đầu, nói: - Không sao đâu. Hắn uống liền hai chén rượu, lúc này mí mắt mới thôi không giật nữa. Hắn lại nghĩ: “lâu lắm rồi không gặp Vũ Thường, không biết nàng ấy thế nào rồi”. Nhớ đến cô nương dịu dàng như nước, yểu điệu như Nghê Thường đó, trong lòng Địch Thanh dâng lên một dư vị ngọt ngào. Triệu Trinh tay cầm chén rượu, nghĩ thầm: “lòng trung thành của đám người này không giả, nếu quả thật phải ra tay, thì chỉ có thể trông cậy vào bọn họ mà thôi. Nhưng mà Thái hậu người, ôi, chỉ hy vọng bên chỗ Quách Chỉ huy được như mong muốn của ta, nhưng mà, nếu Quách Chỉ huy không thành, chẳng lẽ ta thật sự phải…”. Nghĩ đến đây, cánh tay Triệu Trinh không kìm được, lại run lên một cơn. Những đợt sấm rền càng dồn dập, từng tiếng một như vang ngay bên tai, sắc mặt Triệu Trinh đã có chút tái nhợt. Quách Tuân nghe Thái hậu hỏi một cách đầy hoài nghi mà mặt không biến sắc, trầm giọng nói: - Không biết vì đâu mà Thái hậu nói ra lời này? Lưu Thái hậu phía sau rèm nói: - Hôm nay Thánh thượng triệu ngươi vào cung, lại giữ lại một đám thị vệ trong cung cấm, không biết là có ý gì? Quách Tuân chậm rãi nói: - Chắc là Thánh thượng cảm kích sự trung thành của các thị vệ, cho nên mới mời mọi người vào uống rượu thôi. Lý Tuân Úc ở bên cạnh nói: - Người xưa dạy rằng “Lễ không dưới thứ nhân, hình không thượng Đại Phu” (lễ nghĩa không phải là thứ dùng áp dụng với kẻ dưới, hình phạt không đụng được đến quan cao), hành động này của Thiên tử thật không thích hợp. Quách Tuân cười nói: - Lời của cổ nhân nói, ý là “lễ nghĩa không coi thứ dân là thấp kém, hình phạt không nể nang bậc Đại Phu”, vốn nghĩa là mọi người như nhau. Thánh thượng làm vậy, cũng vừa hay đúng ý người xưa vậy. Lý Tuân Úc hơi đỏ mặt. Cái chức Phò mã Đô úy này của y, thực ra là nhờ Thái hậu nâng đỡ, chứ bản thân thì chẳng có tài cán gì. Y vốn muốn bắt bẻ Quách Tuân, chẳng ngờ lại để cho Quách Tuân giúp mình sửa sai, nhất thời không thể đối đáp lại gì. Lưu Thái hậu nói: - Những thị vệ đó chẳng qua chỉ là một đám người thô lỗ, Thánh thượng ngồi cùng bọn họ dù sao cũng không ổn. Quách Tuân nói: - Thái hậu, người xưa từng dạy rằng “ngọc bất trác, bất thành khí; nhân bất học, bất tri nghĩa” (ngọc không mài, không ra ngọc; người không học, không biết nghĩa). Thánh thượng sống trong cung thời gian dài, tuy có bậc đại nho dạy dỗ, nhưng rốt cục vẫn ít gần bách tính, khó mà thấu hiểu được những khó khăn của bách tính. Lần này Thánh thượng xuất cung vi hành, tuy là có chút không thỏa đáng, nhưng nhờ có tổ tiên phù hộ, nhờ có ơn đức của Thái hậu, mà hóa nguy thành lành. Thiết nghĩ, sau khi trải qua đận gian nan này, Thánh thượng sẽ càng tiến thêm một bậc, càng có căn cơ để trị vì thiên hạ. Lưu Thái hậu khẽ nhíu mày, nhất thời trầm mặc không nói năng gì. Thầm nghĩ, cái tên Quách Tuân này không chỉ võ nghệ cao cường, mà lời ăn tiếng nói cũng hết sức sắc sảo, quả là khó đối phó. Trước kia, văn thần đều là vì kiêng kỵ này nọ mà không dám nói lời thẳng trước mặt Lưu Thái hậu, còn Quách Tuân thì dấu kim trong nệm, khiến cho người ta không thể tìm ra một chút sai sót. Hóa ra, Thái hậu biết được sau khi Triệu Trinh quay trở về, giữ Quách Tuân ở lại trong cung, thì trong lòng có chút bất an, lại nghe nói bọn người Địch Thanh cũng theo vào thì lại càng không yên. Lưu Thái hậu hiểu rõ căn bệnh trong lòng mình, căn bệnh trong lòng của bà ta đương nhiên là Lý Thuận Dung! Lưu Thái hậu đương nhiên biết, mẹ đẻ của Triệu Trinh không phải là mình, mà là Lý Thuận Dung đang canh giữ lăng mộ cho cái thây ma Triệu Hằng kia. Không có ngày nào mà bà ta lại không nhớ điều này. Lúc trước, bà ta nhờ vào Triệu Trinh mà bước lên ngôi Thái hậu, nhưng hiện nay, bà ta thực rất lo sợ… Còn sợ cái gì, thì chỉ có bản thân Lưu Thái hậu là hiểu rõ. Bà ta chậm chạp không chịu đăng cơ, người khác đều cho rằng vì bà ta lo sợ miệng lưỡi người đời, sợ quần thần cản trở, nhưng chỉ có bà ta biết là không phải thế. Cái tên Quách Tuân này, nhìn thì có vẻ khoáng đạt, nhưng thực ra lại rất thận trọng, dường như không để ý đến chuyện gì, nhưng khi đứng trước thị phi thì lại hết sức kiên định. Trầm ngâm thật lâu sau, Lưu Thái hậu mới hỏi: - Quách Chỉ huy, còn nhớ lời thề năm xưa không? Bà ta không nhắc là lời thề gì, nhưng bà ta biết là Quách Tuân sẽ hiểu. Quách Tuân trầm giọng nói: - Thần nhớ, không dám làm trái. Lưu Thái hậu khẽ thở ra một hơi, bà ta biết Quách Tuân là loại người một lời nói nặng tựa ngàn cân, lời đã nói ra thì nhất định sẽ thực hiện, điều này cũng giúp cho bà ta cảm thấy yên tâm. Không ngờ, ngay sau đó Quách Tuân nói: - Thái hậu có nhớ lời hứa với Tiên đế năm xưa không? Sau rèm vang lên một tiếng “bộp”, chung trà rớt xuống đất. Chỉ thấy phía sau rèm, Lưu Thái hậu đứng bật dậy, tức giận nói: - Quách Tuân, sao ngươi dám ăn nói với ta như vậy? Quách Tuân cúi đầu, nói: - Thần không dám, thần chỉ là tận trung làm việc mà thôi. Lý Tuân Úc quát lớn: - Quách Tuân to gan, lại dám vô lễ với Thái hâu! Người đâu! Không đợi y nói thêm, Lưu Thái hậu ở phía sau rèm đã quát: - Lý Đô úy! Từ khi nào mà ngươi có cái quyền ra lệnh thay ta vậy? Lý Tuân Úc vốn chỉ định vỗ mông ngựa để lấy lòng, ai dè lại vỗ trúng vó ngựa, cuống quýt nói: - Thần nhất thời nóng lòng, mong Thái hậu tha tội. Cung Trường Xuân lại trở lại yên tĩnh, có thể nghe thấy cả tiếng thở. Lưu Thái hậu ở phía sau rèm dường như đang thở dốc, một lúc lâu sau mới nói: - Được, được lắm! Quách Tuân… ngươi rất trung thành. Quách Tuân còn chưa trả lời, đã nghe thấy có tiếng cung nhân bẩm báo: - Thái hậu, Diệp Bổ đầu của phủ Khai Phong là Diệp Tri Thu đã đợi ở ngoài điện. Lưu Thái hậu nói: - Truyền vào. Diệp Tri Thu bước nhẹ vào, sau khi hành lễ, Thái hậu nói: - Diệp Tri Thu, vụ tượng Phật ở Đại Tướng Quốc Tự bị hủy, hiện giờ ngươi đã điều tra thế nào rồi? Sắc mặt Quách Tuân thoáng thay đổi, đột nhiên nhớ đến vụ Ngũ long, trong lòng thấp thỏm không yên. Vốn anh ta chẳng có chuyện gì phải thẹn với lòng, duy nhất chỉ có vụ Ngũ long là tự ý hành động, thậm chí còn cầu xin Diệp Tri Thu đừng lấy Ngũ long từ trên người Địch Thanh. Thái hậu hỏi như vậy, chẳng lẽ là… Quách Tuân không nghĩ tiếp, cũng không nhìn Diệp Tri Thu, chỉ nghe thấy Diệp Tri Thu trả lời rành mạch từng chữ một: - Thái hậu, đã có manh mối của Ngũ Long. Triệu Trinh nâng chén rượu lên, nhưng lại không uống, đêm nay hắn còn có việc phải làm, tất nhiên là không thể uống say. Các thị vệ cũng không dám uống nhiều, đều lo ăn cơm với thức nhắm, đợi Triệu Trinh sai bảo. Vài người trong lòng đã nghĩ, Thánh thượng thần sắc thận trọng như vậy, chẳng lẽ thật sự muốn đối phó với Thái hậu? Trong lòng Địch Thanh lại nghĩ, Thánh thượng luôn coi trọng hiếu nghĩa, bình thường không bao giờ có nói một câu xấu về Thái hậu, trước mắt vẫn chưa biết Lưu thái hậu không phải là mẹ đẻ của hắn, sẽ không mạo hiểm làm chuyện bất lợi cho Thái hậu để nghe thiên hạ thóa mạ đâu. Nhưng nếu không phải là đối phó với Thái hậu, vậy thì hắn giữ thị vệ ở lại trong cung rốt cục là để làm gì? Chẳng biết là đã trải qua bao lâu, đèn nến trong cung từ chỗ sáng tỏ, rồi mờ, rồi tắt. Triệu Trinh thấy trên trời mây đen dầy đặc, nhưng tiếng sấm lại càng lúc càng thưa, ánh mắt lộ vẻ lo lắng, đột nhiên nói: - Trẫm có một sinh mẫu (mẹ đẻ), một dưỡng mẫu (mẹ nuôi), hẳn chuyện đó các ngươi đều đã biết? Tất cả mọi người đều gật đầu, nhưng không hiểu Hoàng thượng muốn nói đến điều gì. Triệu Trinh nói: - Sinh mẫu của trẫm là Đại nương nương, dưỡng mẫu của trẫm là Tiểu nương nương, đối với trẫm đều có ơn trọng như núi. Trẫm cảm kích ơn đức của hai vị mẫu hậu, đến hết đời này, tuyệt không làm chuyện gì bất kính với họ, cho dù nhỏ nhất. Sau này, nếu như các ngươi đụng phải người của hai vị Thái hậu thì nhất định phải chiếu cố nhiều hơn một chút, tuyệt đối không được đắc tội. Các thị vệ đều ngớ người, nhưng cũng đồng thanh đáp: - Tuân chỉ. Triệu Trinh gật gật đầu, chưa kịp nói gì thêm thì có thái giám vội vã bước vào, gấp gáp nói: - Thánh thượng, không hay rồi, Hoàng hậu nổi cáu ở trong hậu cung, đến mức đốt rèm của tẩm cung, lửa cháy lớn rồi. Mọi người cả kinh, đứng bật cả dậy, chỉ đợi Triệu Trinh ra lệnh một tiếng là sẽ lao đi dập lửa. Triệu Trinh thản nhiên nói: - Để bọn họ dập lửa là được rồi, cứ để cho Hoàng hậu gây chuyện, đừng làm trở ngại bọn ta uống rượu. Thái giám nọ có chút do dự, Triệu Trinh quát: - Còn không lui xuống? Thái giám không dám nói gì thêm, vội lui xuống. Triệu Trinh nâng chén rượu lên, chỉ nói: - Nào, uống rượu. Các thị vệ chỉ còn biết nâng chén rượu lên cho có, thầm nghĩ, Thánh thượng đối với Quách Hoàng hậu quả là không có lấy một chút tình nghĩa phu thê nào. Cung Hoàng hậu bị cháy, theo lý mà nói thì cũng nên hỏi thăm một chút. Nhưng những suy nghĩ đó đều chôn chặt trong lòng, ai mà nói ra? Triệu Trinh đột nhiên hỏi: - Các người đều đã lấy vợ chứ? Các thị vệ người đáp lấy vợ rồi, người đáp vẫn chưa, nhất thời nhốn nháo cả lên. Triệu Trinh cười, nói: - Nếu đã cưới vợ, có con trai, thì sau này nhớ báo tên lên. Những người chưa lấy vợ thì ngày mai đến nội khố lĩnh năm mươi lượng bạc, coi như là quà mừng của trẫm. Các thị vệ mừng rỡ, những người đã lấy vợ đều hiểu rằng, chỉ cần báo tên lên, bất luận là con mình lớn hay bé, đều có thể nhận được bổng lộc mà sống. Những người chưa lấy vợ thì lại nghĩ, tuy năm mươi lượng bạc cũng không phải là một con số nhỏ, nhưng quan trọng là đó là được Thánh thượng ban tặng, quả là một vinh dự không thể diễn tả nổi. Triệu Trinh ra sức lôi kéo những người này, là lại có dụng ý khác, thấy Vương Khuê từ đầu tới cuối không nói gì, hỏi: - Vương Tán trực, ngươi thì sao? Đã có ý trung nhân chưa? Vương Khuê nói: - Hung Nô còn chưa diệt, thì làm gì có nhà? Mọi người liền trầm hẳn xuống, cảm thấy trong câu nói bình thản này trào dâng ý chí. Hóa ra đây là lời của Hoắc Khứ Bệnh nói với Hán Vũ Đế. Năm đó, thời Hán Vũ Đế, Hung Nô hoành hành, Hoắc Khứ Bệnh nhiều lần đánh dẹp Hung Nô, chiến công hiển hách. Sau khi Hoắc Khứ Bệnh trở về, Hán Vũ Đế muốn xây sửa phủ đệ cho Hoắc Khứ Bệnh, Hoắc Khứ Bệnh bèn trả lời một câu như vậy. Vào thời Đại Tống, tuy thế lực Hung Nô đã suy giảm, nhưng ở biên cương phương bắc lại có Khiết Đan nổi lên, người họ Hạng của Tây Bắc đảng lại nhiều lần khơi mào chiến sự, ý của Vương Khuê là phải diệt trừ những thế lực này xong mới thành thân. Triệu Trinh kích động trong lòng, cười nói: - Thật khó có được người hùng tâm tráng chí như Vương khanh gia, nếu trẫm chấp chưởng triều chính, nhất định sẽ trọng dụng các khanh, đánh tan nghịch tặc! Đoạn ngài quay sang phía Địch Thanh, nói: - Địch Thanh, ngươi có ý trung nhân chưa? Địch Thanh cười nói: - Thần thì không có dã tâm như Vương Tán trực, đã có ý trung nhân rồi. Triệu Trinh cười, nói: - Không thành thân cũng tốt, thành thân cũng không tệ. Nếu quả thật không thể diệt được phiên bang, chẳng lẽ cả đời không lấy vợ hay sao? Ý trung nhân của khanh là ai? Trẫm có biết không? Địch Thanh nói: - Nàng ấy chỉ là một dân nữ, chắc Thánh thượng không biết đâu. Triệu Trinh mỉm cười nói: - Vậy nếu có cơ hội, phải đưa vào trong cung cho trẫm nhìn xem. Trẫm muốn xem xem, tên tiểu tử ngươi lừa được cô nương tốt của nhà nào. Mọi người đều cười, bầu không khí ngột ngạt trong cung nhất thời hòa hoãn đi nhiều. Địch Thanh cũng cười một cách ngây ngô, trong lòng cảm thấy hết sức ngọt ngào. Triệu Trinh tuy khóe miệng cũng cười, nhưng trong mắt lại không có một chút nét cười nào. Trong lòng thầm nghĩ, dưới gầm trời này chỉ cần là một người con gái, bất luận là ai e rằng cũng đều hơn Quách Hoàng hậu. Nghĩ đoạn, không cưỡng nổi hướng ánh mắt nhìn về phía cung Trường Xuân. Triệu Trinh thầm nghĩ “đã lâu như thế rồi, bên chỗ Quách Tuân ra sao rồi? ”. Ngài đưa tay sờ vào Thiên Thư trong ngực áo, thần sắc thoáng có chút lo lắng. Đúng lúc đó, có cung nhân bước vào bẩm báo: - Khởi bẩm Thánh thượng, Bát Vương gia cầu kiến. Lưu Thái hậu nghe nói đã có tung tích của Ngũ long, rúng động, hỏi: - Ngũ long ở đâu? Diệp Tri Thu không nhìn Quách Tuân, trầm giọng nói: - Theo như thần được biết, kẻ năm xưa làm hỏng bức tượng Phật trong Đại Tướng Quốc tự tên gọi là Dạ Nguyệt Phi Thiên. Người này vốn là thủ hạ của Tây Bình vương Nguyên Hạo, cũng chính là Thiên Dạ Xoa, người tài giỏi bậc nhất trong Bát bộ. Lưu Thái hậu chau mày, nói: - Ta không cần biết hắn là ai, ta chỉ hỏi ngươi Ngũ long ở đâu? Bà ta không hề kiêng dè, bởi vì bà ta biết Quách Tuân cũng có biết về Ngũ long. Thần sắc Diệp Tri Thu vẫn bất động, nói tiếp: - Dạ Nguyệt Phi Thiên đánh lén Thánh giá ở lăng Vĩnh Định, Quách Chỉ huy đã giết hắn. Thần không tìm thấy Ngũ long trên người Dạ Nguyệt Phi Thiên. Quách Tuân đột nhiên cảm thấy Diệp Tri Thu nói quả là rất khéo. Diệp Tri Thu không nói dối Thái hậu, nhưng điều y nói và điều mà Thái hậu muốn hỏi hoàn toàn là hai chuyện khác nhau.