“Bóng quỷ nhi, âm dương lối, đừng quay đầu lại Tiết thanh minh, mộ cô nhi, một ngọn đèn sáng Vượt đường đêm, sinh tử hai bên, quỷ quay đầu lại…” Lúc này trời đã vào xuân, nhưng khí trời tháng ba vẫn còn lạnh tới thấu xương. Cành cây khô quắt ngoài cửa sổ đã bắt đầu vươn những mầm non mới bé bằng lóng tay, nhưng lại nhiễm không khí lạnh nên trông có vẻ còi cọc. Người già thường nói “Rét tháng ba rét quá ba tầng trời” là vậy. Cộng với cái âm lãnh của những cơn mưa phùn, cho nên khắp nơi vẫn chưa thấy bóng dáng vui vẻ của mùa xuân, chỉ có âm hàn tận xương cùng hiu quạnh thê lương. Tôi không phải là một người dậy sớm, nhưng hôm nay có tiết mỹ thuật ở ngay tiết đầu, cho nên chỉ còn cách không cam tâm tình nguyện chịu đựng cái rét thấu óc mà chui ra khỏi ổ chăn ấm áp. Xung quanh cửa trường học có rất nhiều quán bán đồ ăn sáng, trong số đó có cửa hàng bán bánh bao của ông già Lý cũng khá hút khách, có thể nói điểm tâm sáng mỗi ngày của tôi hầu hết là mua ở đấy. Giống như mọi khi, tôi mua mấy cái bánh bao rồi vừa ăn vừa chạy. Không còn cách nào khác, quả thực dậy muộn quá. Nếu không phải Bạch Dực nhắc tôi là hôm nay có thanh tra giáo dục tới, xem chừng tôi còn trễ nữa. Thở dài một hơi, miệng ngậm bánh bao, tôi nhanh chân hướng về phía trường. Nhưng ai ngờ ông già Lý đột nhiên dùng đôi tay gân guốc như cành cây khô níu chặt lấy tay tôi, lại bỏ thêm hai cái bánh bao thịt thật to vào túi cho. Tôi ngơ ngác hỏi: “Bác Lý, bác đang làm gì vậy?” Ông già Lý vẻ mặt cổ quái nhìn quanh một lúc, sau khi xác định là không còn ai khác mới mở miệng hỏi: “Thầy An, tui muốn mượn thầy cậy thầy Bạch tới phụ tui chút chuyện, được hôn? Tại cháu tui nó nói thầy Bạch thẩy dữ lắm, mà tui với thẩy hông quen hông biết chi hết, tui coi thầy ngày nào cũng tới ủng hộ cái tiệm chạp phô nầy, nên muốn cậy nhờ thầy một phen.” Giọng nói của ông lão đặc sệt giọng địa phương, tôi ngẩn người một lúc lâu mới hiểu được là ông ta muốn tôi giúp nhờ cậy Bạch Dực làm gì đó, cho nên mới cho thêm hai cái bánh bao để “hối lộ”. Cháu gái của ông lão thực sự đang học lớp 2 trường chúng tôi, biết Bạch Dực cũng không có gì kỳ lạ. Nhưng tôi chỉ ngạc nhiên ông lão này muốn tìm Bạch Dực làm gì, chẳng lẽ là để dạy thêm cho cháu mình? Vì vậy bèn hỏi: “Bác, bác muốn tìm thầy Bạch dạy kèm cho cháu nhà sao?” Ông lão vội vàng khoát khoát tay, ghé sát đầu vào mặt tôi, giọng nói thấp đi thành tiếng thì thào: “Cháu, cháu gái tui, coi mòi bị quỷ nhập rồi đa!” Tôi nhất thời ngẩn cả người, vốn trước giờ tôi cũng không tin ma quỷ, nhưng kể từ sự kiện đêm hiện hồn lần trước thì tinh thần “chủ nghĩa duy vật” của tôi cũng rã thành bột hồ luôn. Tôi cũng bắt chước ông lão thì thầm thật nhỏ: “…Quỷ?” Ông lão gật đầu, túm tôi lôi vào gian trong của tiệm bánh bao, gian nhà rất lộn xộn, chỗ này đặt lồng hấp, chỗ kia chất bột mì. Ông ta lôi ra một cái ghế cho tôi ngồi, sau đó bắt đầu kể lại câu chuyện xảy ra cách đây chưa lâu: “Cháu gái tui, con nhỏ cũng hiền lành cục mịch lắm hông có hay bắt chuyện với người ta, tui trước giờ hông thấy nó có bạn bè chi hết. Chỉ thỉnh thoảng hay chơi nhảy dây thun với mấy chế bên nhà thôi, nhưng hổm rày tự dưng tui thấy nó không chơi nữa, cũng hổng thèm quan tâm tới ai hết, chỉ biết tới trường về nhà hết ăn lại lăn ra ngủ, còn thì cứ ngồi ịch ra đó mà đờ ra. Mới đầu tui còn tưởng nó giận bạn chớ, mà ai dè hôm trước tui lại thấy một chuyện kinh khủng lắm!” Ông lão nuốt nuốt nước miếng, hít sâu một hơi rồi mới nói: “Tối bữa đó tui đang chuẩn bị bánh bao đặng sớm mơi bán, tối nào tui cũng bao bánh trước rồi sớm tửng bưng hôm sau mới hấp. Nhưng lúc tui đang lui cui thu dọn, tự dưng nhìn thấy con cháu tui đang cột dây thun ở một góc đường rồi tự nhảy mình ên nó, tui thấy hơi kỳ cục, nên gọi nó hai ba tiếng, mà nó cũng đâu có thèm nhìn tui. Nó làm như hông nghe gì hết vậy đó, cứ một mình nhảy hoài nhảy hoài. Mà tự dưng tui thấy có cái gì đó quái quái, trên đường chỉ có hai tụi tui, vậy mà…vậy mà…trên vách tường lại rõ ràng có tới ba cái bóng!” Ông già Lý run run vươn ba ngón tay khô đét lên làm dấu hiệu. “Tui sợ mất mật, vội vàng cõng con nhỏ bỏ chạy, dưng mà cái bóng tự dưng cũng quay đầu lại kéo riết lấy cái bóng của con bé cháu hông chịu buông. Tới hồi tui cũng cảm thấy cháu tui cứ như bị ai đó giữ cứng ngắc vậy, hơn nữa còn khỏe khủng khiếp! Lúc đó tui chỉ nghĩ, thôi, thôi, xong đời rồi! Lụm phải thứ chi đó dơ bẩn rồi! Già như tui thì…thôi còn sá chi nữa…nhưng mà con nhỏ nhà tui mới chút xíu vậy, sao mà nỡ…để cho thứ quái kia túm đi? Thế là tui liều, dùng hết sức bình sanh kéo mạnh một cái, mà hông ngờ tự nhiên thứ kia nó buông ra. Tui liền đem con nhỏ dông tuốt về nhà, canh bên giường nó tròn một đêm. Hôm sau dậy con nhỏ lại bình thường như hông có chuyện chi hết, báo hại tui còn tưởng tui già đầu rồi nên lú lẫn chớ, dưng mà ở trên cổ tay con nhỏ, thiệt là có một cái dấu tay con nít đỏ hỏn à! Tui mới biết, quả thực tui hông có nằm mơ!” Tôi xen vào hỏi: “Vậy sau này cháu nhà bác còn thấy thứ đó không?” Ông lão có vẻ rất kích động, bám chặt tay tôi mà nói: “Có, có chớ! Chỉ cần tới nửa đêm là con nhỏ lại xề tới cái góc đường đó đa! Tui ngăn hông có đặng, mà nhốt nó trong phòng, nó lại đâm đầu vô tường bụp bụp vậy đó! Chưa kể đêm nào cũng có thứ chi đó rảo quanh nhà tui, cứ nghe nó gọi cửa miết, mà mở ra rõ rành hông có ai. Chỉ có một cái bóng thôi. Đêm nào con nhỏ cũng tới bên cạnh nó nhảy dây!” Nói xong, lão lại lấy hai tay ôm mặt, khóc nức nở. Tôi nhìn ông lão thất thập cổ lai hi khóc ròng trước mặt mình, trong bụng cảm thấy bất nhẫn, nên đành đứng dậy vỗ vỗ vai ông lão, hứa với ông ta là sẽ kể chuyện này lại cho Bạch Dực nghe, hơn nữa sẽ thuyết phục anh ta giúp đỡ. Ông lão cảm ơn rối rít, còn cố tình dúi thêm cho tôi năm sáu cái bánh nữa. Tôi rời khỏi cửa hàng của ông ta, nhìn qua góc đường trong câu chuyện, thấy nó bất quá chỉ là một góc ngã tư nho nhỏ mà thôi. Nơi này là khu thành cổ, có nhiều năm dường như chẳng được sửa sang lại gì nhiều, đường xá đều nhỏ hẹp, xe loại lớn khó lòng chen vào nổi. Những góc đường chết thế này tồn tại rất nhiều xung quanh đây, bởi nhiều năm không được sửa sang tôn tạo, nên rác rến chất đống. Nói thật tình, ngoại trừ việc nó có hơi bẩn một chút, còn lại không thấy có gì bất thường. Mới sáng sớm vì chuyện của ông lão mà bị kéo lại một lúc, đi trễ là chuyện đương nhiên. Kết quả tôi bị lão Phan hói của Ủy ban giáo dục (lão họ Phan, đầu bóng lưỡng như trứng chần nước sôi) lôi ra giảng ột trận như thể mắng con lão vậy. Chưa hết, còn lục tung mọi khuyết điểm từ trước tới giờ của tôi phóng đại lên một trăm lần mà xa xả tới tấp. Vì thế giữa phòng giáo viên, hình thành một hồi “An Tung bị đấu tố” cực kỳ đặc sắc. Đau khổ lết qua một buổi sáng, tới giờ nghỉ trưa tôi cũng trốn trong phòng giáo viên, soạn lại một ít tài liệu cần cho tiết buổi chiều, chuẩn bị xong mới chuẩn bị ra ngoài ăn. Trong miệng chỉ lầm bầm làm cách nào để Phan hói nhanh chóng chuyển thành Phan trọc mới cam lòng. Bàn làm việc của Bạch Dực tình cờ làm sao lại nằm ngay đối diện bàn tôi, chờ mọi người trong phòng giáo viên ra ngoài hết, anh ta chợt phì một cái, sau đó phá lên cười ha hả. Mặt tôi càng thêm âm u, nghĩ thầm tiểu tử ngươi như vậy mà cũng là bạn bè đấy hả, thái độ bỏ đá xuống giếng đó là sao là sao! Cuối cùng nhịn không được, tôi đập cuốn sách lên bàn một cái “rầm”, lạnh lùng nói: “Cười cười cười, cứ chờ tới lúc anh cũng bị lão nắm đầu coi như con nít rồi mới biết!” Anh ta thấy tôi có vẻ muốn nổi giận thật sự liền không cười thành tiếng nữa, nhưng khóe miệng nhếch cao vẫn cho thấy anh ta rõ ràng là đang âm thầm chê cười tôi. “Cậu chỉ đi mua có cái bánh bao mà cũng mất tới nửa buổi, tôi đã có lòng nhắc cậu trước rồi còn gì, hôm nay Phan hói đi thanh tra. Vậy mà cậu còn dám trễ, mà còn trễ tới 45 phút, đủ một tiết nữa chứ! Người anh em, cậu ngầu thật đấy!” Nhờ anh ta nhắc đến bánh bao, tôi mới nhớ tới chuyện quái dị mà ông lão Lý đã kể, liền chồm người tới trước, dí sát mặt vào mặt Bạch Dực, nheo nheo mắt hỏi: “Có muốn giúp người ta một tay không? Chuyện này đảm bảo anh có hứng thú.” Bạch Dực dường như có gì đó không được tự nhiên, lui về sau một chút mới nhướn nhướn mày hỏi có chuyện gì. Tôi đem chuyện ban sáng kể hết lại cho anh ta nghe. Chỉ thấy anh ta cúi đầu suy nghĩ một chút, trong miệng không biết lầm bầm cái gì, sau đó ngẩng đầu nhìn tôi nói rất nghiêm túc: “Bữa trưa nay cậu mời, buổi tối cùng đến nhà họ Lý.” “Lại tôi! Tôi không có tiền mà…” Tiền lương của tôi vốn đã thấp tới mức đáng thương rồi, tháng nào cũng phải nhờ ba mẹ chi viện ít nhiều, nếu không chắc chỉ có nước ra đường mà ngủ. Cửa trường học lúc chiều tà đặc biệt nhộn nhịp, học sinh tan học, xe cộ tắc trước trường cũng nhiều lên, đám người bán hàng rong trước cổng trường bán đủ thứ quà vặt lẫn đồ chơi, ồn ào náo nhiệt không thua gì buổi sáng. Tôi và Bạch Dực tìm tới tiệm bánh bao của ông lão Lý. Việc buôn bán buổi chiều rõ ràng không bằng ban sáng, nhìn cửa tiệm cũng tự nhiên trở nên quạnh quẽ, ông già Lý đang ngồi bên bếp lò, thỉnh thoảng lại đảo mắt vào gian nhà trong như canh chừng. Tôi bước tới trước mặt ông lão Lý, cười cười nói đã mang Bạch Dực tới, có gì thì cứ nhờ anh ta. Kỳ thực lúc này, lòng tôi vẫn còn âm ỉ đau cho hai phần cơm thịt xào ớt xanh ban trưa… Ông lão Lý thấy chúng tôi tới, lập tức bỏ mặc cửa tiệm mà vội vàng kéo chúng tôi vào gian trong. Tôi có thể cảm nhận rõ sự bất lực cùng lo lắng của ông ta dành cho đứa cháu gái, dù sao làm gì có người nào có thể bỏ mặc cốt nhục của mình chứ? Chúng tôi ngồi xuống, ông lão pha một bình trà. Chờ tiếp xong cho hai chúng tôi rồi, ông ta cũng ngồi xuống chỗ đối diện, nhìn cánh cửa phòng bên cạnh, trong mắt tràn đầy ảo não cùng sợ hãi. “Thầy Bạch, thầy tới thiệt tốt phước cho tụi tui quá, tui nghe nói thầy rành ba cái này lắm, hơn nữa thầy còn có học, chớ như đám thất học tụi tui thiệt không biết phải làm chi bây giờ..” Ông lão hiển nhiên có vẻ rất rụt rè, nói năng cũng bắt đầu không đầu không đuôi, trong lòng tôi thoáng buồn cười là có học thì có ích gì trong mấy chuyện này đâu, nói vậy chẳng thà gọi tiến sĩ tâm lý học tới khám cho rồi. Tôi lại nhìn Bạch Dực, anh ta không nói gì, chỉ thổi thổi mấy lá trà trong ly, nhấp một ngụm, sau đó im lặng chờ ông lão nói tiếp. Tôi nghĩ nếu cứ thế này thì tình hình sẽ rơi vào im lặng gượng gạo mất, vì vậy nhanh nhảu lên tiếng trước: “Lão Bạch…Anh xem, việc này chắc chỉ có anh mới giúp được cho người ta, người già có thể hoa mắt, nhưng đứa bé này không phải chỉ gặp chuyện lạ có một hai lần, nếu thực là bị hoa mắt thì chi bằng gọi là đục thủy tinh thể…” Cảm giác được bản thân mình càng lúc càng nói lung tung, tôi cũng bậm môi cười gượng vài tiếng, cầm lấy ly trà chăm chú uống. Bạch Dực hiển nhiên không thích tôi xen miệng vào, quay lại nhìn tôi nhíu mày. Sau đó mới quay về phía ông lão nói: “Chuyện cháu nhà bác tôi cũng nghe An Tung nói qua ít nhiều rồi. Nhưng vẫn còn vài chi tiết nếu không được thấy tận mắt tôi cũng không biết làm thế nào, nếu bác không ngại thì tối nay chúng tôi lại tới. Tôi hứa không làm phiền lâu đâu, chỉ có vài thứ muốn xác nhận lại thôi.” Ông lão đương nhiên không phiền, ngược lại còn cúi đầu cảm ơn liên tục, còn muốn lưu chúng tôi lại ăn cơm chiều, rồi không chờ chúng tôi đồng ý hay không, đã nhanh nhẹn đứng lên đi nấu cơm. Tuy chúng tôi cảm thấy hơi ngại, nhưng hai thanh niên độc thân, ngoại trừ căn tin ra thì quả thực không có nơi nào khả dĩ giải quyết vấn đề ngày ba bữa cả. Cả hai đều nhất quyết không nấu cơm, nên bữa tối nay có thể coi như là ăn chực. Trong bữa cơm tối chúng tôi gặp cháu gái của ông lão, cô bé có vẻ cực kỳ ngạc nhiên khi thấy hai thầy giáo trong trường lại tới nhà mình ăn cơm, nên chỉ lên tiếng chào hai chúng tôi một câu, giọng nhỏ như muỗi kêu, sau đó cúi gằm mặt ăn cơm. Không khí rõ ràng cực kỳ căng thẳng… Tôi ho khan hai tiếng, muốn hỏi cô bé một ít bài vở hàng ngày, dù sao đây vẫn là vấn đề mà các thầy cô giáo nên quan tâm, không phải sao? “Trò Lý Ái, dạo này em học tập thế nào?” Vừa hỏi xong tôi đã muốn hối hận, dù sao cũng đâu phải giáo viên môn chính… “Dạ tốt, cảm ơn thầy.” Lý Ái vẫn không ngẩng mặt lên. “Trò Lý, dạo này khi đi trên đường khuya, em có thấy gì lạ không?” Bạch Dực hỏi. Cô bé bỗng nhiên ngẩng phắt đầu lên, nhưng lại nhanh chóng cúi xuống, nhỏ giọng đáp: “Dạ không, không thấy gì hết.” “Không có ai gọi tên em sao?” Bạch Dực vẫn kiên trì. Bàn tay nữ sinh hơi run lên, cô bé buông đũa không ăn, cũng không ngẩng lên nhìn chúng tôi. Cái đồng hồ kiểu cũ trên tường gõ từng tiếng chậm rãi, hơi nóng của chén cơm bay lên, nhất thời phủ mờ vẻ mặt của cô bé. Bạch Dực nhíu mày, nhìn nữ sinh ngồi đối diện, thanh âm thoáng chậm lại: “Có thật không có ai gọi tên em hay không?” “Dạ không có, chỉ là…có tiếng ai đó hát. Một bài đồng dao rất kỳ quái. Em không biết nó là cái gì, chỉ nghe người đó cứ thế hát mãi. Sau đó im lặng luôn…” Cô bé ngẩn người một lát mới từ từ đáp. “Có thể cho thầy biết là bài hát gì không?” Nhẹ gật đầu một cái, Bạch Dực hỏi tiếp. Cô bé ngẩng đầu, gương mặt trắng trẻo tự nhiên hiện lên một nụ cười quái dị: “Không được, vì đây là bí mật.” Tôi hỏi: “Là bí mật của em với ai?” Cô bé suy nghĩ một chút, sau đó quả quyết lắc đầu: “Em không nói với thầy được đâu, ‘bạn ấy’ sẽ tức giận mất.” Hỏi thế này cũng như không, tôi có hơi nản lòng. Đồng dao, quá kỳ quái rồi. Loại đồng dao gì mà có thể khiến ột đứa bé suốt ngày đến chơi với một cái bóng? Tôi nhìn lại ông lão, phát hiện ông ta đang run lẩy bẩy, có thể là do nhìn sự quỷ dị của cháu gái mình mà không đành lòng, cũng có thể là để tìm cách đè nén sự sợ hãi cực độ của mình. Đột nhiên ông ta mở miệng thều thào: “Bóng quỷ nhi, âm dương lối, đừng quay đầu lại. Tiết thanh minh, mộ cô nhi, một ngọn đèn sáng. Vượt đường đêm, sinh tử hai bên, quỷ quay đầu lại…” Cô bé mở trừng to hai mắt nhìn ông nội, ánh mắt vừa như khiếp sợ lại vừa như oán hận, phẫn nộ nhìn ông ta. Ông lão sắc mặt tái nhợt, chậm chạp lắc lắc đầu: “Bài hát đứa bé đó hát là như vậy, tui nhớ rõ mà…” Cô bé có vẻ rất tức giận, đứng phắt lên bước ra cửa. Ông lão Lý vội vàng nhào tới túm chặt lấy cô bé, gần như vừa kéo vừa lôi vào phòng. Bạch Dực nhìn ra ngoài cửa, ngọn đèn đường vàng vọt hắt ánh sáng lên con đường trải xi măng trước cửa, chiếu ra những chỗ nhấp nhô gập ghềnh, sau đó quay lại nhìn tôi đang đờ người ra vì quái dị mà nói: “Đi, đi ra xem.” Trời đã hoàn toàn tối đen lại, khí trời hôm nay không được tốt lắm, không thấy bóng trăng. Khí hậu lạnh thế này, căn bản là không có ai thèm ra đường. Ngoại trừ một vùng nhỏ bé được ánh đèn đường chiếu tới, còn thì những nơi khác đều là một mảnh đen xám nhờ nhờ, cánh cửa sắt hoen rỉ bị gió đập phát ra những tiếng kẽo kẹt gai người. Thỉnh thoảng có một con mèo hoang phóng ra từ chỗ giữ xe, rồi lại lập tức hòa mình vào bóng đêm đen đặc trước mắt. Tôi khóa chặt áo khoác để phòng gió lạnh thổi vào. Bạch Dực đi bên cạnh, sau đó nói với tôi: “Bây giờ tôi bắt đầu gọi một cái tên, cậu cũng giúp tôi gọi, cho dù có thấy cái gì đi nữa cũng đừng phát hoảng, có tôi ở đây thì không có việc gì. Nhưng phải nhớ kỹ không được dừng lại. Đi một bước gọi một lần, hiểu chưa?” Tôi gật đầu, sóng vai đi bên cạnh anh ta, từ cửa hàng của lão Lý chúng tôi quẹo vào ngã tư nhỏ xíu cách đó không xa, rồi tiến thẳng vào ngõ hẻm. “Lý Ái.” Bạch Dực bước bước đầu tiên. Chưa có chuyện gì xảy ra cả, vì thế tôi cũng theo sát bên cạnh mà gọi to: “Lý Ái.” Bạch Dực theo tiếng gọi của tôi lại bước thêm một bước, cùng lúc gọi lần thứ hai: “Lý Ái.” Trên con đường hẻm vắng vẻ chỉ có tôi và Bạch Dực cùng nhau bước đi, cùng gọi tên Lý Ái. Ngay khi sắp đi tới góc đường, tôi đột nhiên cảm thấy có cái gì đó bất thường. Là cái bóng! Đúng, cái bóng của tôi không biết tự lúc nào đã hóa thành hai! Một cái rõ ràng là bóng của một đứa bé, so với cái bóng của tôi thấp bé hơn rất nhiều. Nhưng nó bước đi cùng lúc với tôi, hoàn toàn dựa theo tốc độ tiến tới của tôi, cứ như thể nó là một phần của tôi vậy. Tôi nhìn lại Bạch Dực, cái bóng của anh ta chưa biến thành hai, nhưng rung động rất dữ dội. Có vẻ như cái bóng quỷ kia muốn nắm lấy tay cái bóng của hai chúng tôi, nó len vào bước giữa bóng hai người, khi tôi liếc nhìn sang bên cạnh mình thì phát hiện giữa hai chúng tôi có một cái bóng người nhờ nhờ. Mồ hôi lạnh rơi đầm đìa, tôi nắm chặt tay lại, tất cả giác quan gần như muốn tê liệt hết. Lại một lần gọi Lý Ái, cái tên thoát ra khỏi miệng cứ như một loại bùa chú nào đó, cực kỳ quỷ dị. Tôi theo Bạch Dực gọi một lần Lý Ái nữa, nhưng giọng nói của tôi đã run bắn lên, gần như không còn là giọng bình thường nữa, mà vừa khào khào vừa mong manh. Tôi phát hiện giọng nói của Bạch Dực cũng không được bình thường, mà vừa the thé vừa sắc nhọn như tiếng mèo hoang gào, gần như nghe không ra anh ta đang gọi hai tiếng Lý Ái. Tôi vẫn không quên theo sát anh ta mà gọi, không để gián đoạn, nhưng cảm giác cứ như cái tên ấy không phải thoát ra từ cổ họng mình nữa, mà là từ khoảng trống sát bên cạnh vậy, thanh âm chói tai như tiếng móng tay cào lên bảng. Lần gọi thứ 13… Chúng tôi sắp bước tới ngay góc đường. Thanh âm của chúng tôi cũng đã biến thành giọng của ba người. Đúng, là giọng của tôi và Bạch Dực, ngoài ra còn có một giọng nói phát ra từ chỗ trống giữa hai người. Ba thanh âm, ba cái bóng, chỉ có hai người. Cuối cùng đã đi tới chỗ rẽ, tôi gần như sắp đứng không nổi nữa, thực sự không dám tưởng tượng phía sau lưng mình là cái thứ gì, chỉ cảm giác “nó” đang ở sát bên người. Tôi liếm liếm môi liếc nhìn Bạch Dực. Anh ta chợt nắm tay tôi kéo lại, không tiếp tục gọi tên nữa, may là anh ta dừng lại, vì tôi cũng sắp chịu đựng hết nổi rồi, thực sự quá giống như đang gọi hồn! Tôi nhìn chằm chằm vào cái bóng phản chiếu trên tường, dưới ánh đèn đường, nó trở nên rõ ràng hơn nhiều so với khi đi trên đường. Cái bóng không ngừng run rẩy theo một thứ quy luật nào đó, sau đó, bên tai tôi chợt vang lên tiếng hát: “Bóng quỷ nhi, âm dương lối, đừng quay đầu lại. Tiết thanh minh, mộ cô nhi, một ngọn đèn sáng. Vượt đường đêm, sinh tử hai bên, quỷ quay đầu lại…” Cái bóng đi theo chúng tôi lúc này đã tách hẳn ra, bài hát đồng dao càng thêm quanh quẩn không ngừng. Quỷ thực sự có thể quay đầu lại sao? Tôi không dám quay lại sau lưng mình nhìn, lại càng không dám nhìn cái bóng kinh khủng trước mặt. Đột nhiên có cảm giác muốn vùng chạy, muốn thoát khỏi cái nơi quỷ quái này, nếu không sẽ phát điên mất, quả thực là một cơn ác mộng điên rồ. Nhưng bàn tay đang nắm tay tôi chợt siết chặt thêm, tôi cũng hiểu tôi không được chạy lúc này, có lẽ phải nói là tôi chạy không thoát, vì bóng của tôi và cái bóng quỷ đang quấn quít một chỗ…nói cách khác nó có thể theo tôi tới bất kỳ nơi đâu. Lúc này mà bỏ chạy, phỏng chừng mất mạng như chơi. Đứng yên thật lâu, có thể nghe thấy tiếng ô tô ngoài đường lớn không ngừng qua lại. Nhưng trong con hẻm này trước sau vẫn không có một bóng người, chỉ có hai chúng tôi đứng yên không nhúc nhích, gió lạnh thổi cả hai lạnh run người. Bài hát rốt cuộc ngừng lại, cái bóng cũng không nhảy nhót nữa. Nó dừng lại tĩnh lặng như chìm trong cái bóng của chúng tôi, nhưng đột nhiên cái bóng kia vươn tay ra, tôi cảm giác có ai đó đang sờ vào người mình. Không chịu nổi nữa, cả hàm răng đều run lập cập lên. “Ngươi có thể đi được rồi.” Bạch Dực chợt lên tiếng: “Thứ ngươi muốn, ta sẽ giúp ngươi hoàn thành, hi vọng ngươi giữ đúng lời hứa.” Đột nhiên cái bóng chậm rãi co rút lại, giống như một bãi nước xấu xí đen ngòm, dần dần tan ra, biến mất vào bóng đêm nơi góc đường. Ngọn đèn trên đầu vẫn như trước chiếu sáng một phần con hẻm, trên đường vẫn như trước không một bóng người qua lại. Bàn tay cầm tay tôi dần dần buông lỏng, tôi cảm thấy Bạch Dực vỗ vỗ vai mình. Tôi cũng yếu ớt gật đầu, ý nói mình không sao. “Không còn việc gì nữa chứ? Nó còn có thể quay lại không?” Thả lỏng tinh thần rồi mới thấy hai chân sắp tê cứng. Tôi ngồi chồm hổm dưới đất, thực ra là muốn ngồi hẳn xuống mặt đường luôn nhưng lại ngại có vẻ quá chật vật. Bạch Dực đốt một điếu thuốc nhìn tôi một chút, sau đó từ từ xoa đầu tôi. “Không, chưa tính là xong, vì chúng ta còn một lời hứa với nó chưa hoàn thành.” “Lời hứa nào?” “Lúc nãy tôi sử dụng thuật mời quỷ, cũng là một loại hàng linh pháp[1], có thay đổi một chút. Vì thế cái thứ đang bám vào Lý Ái sẽ chuyển sang bám lên chúng ta. Loại thuật pháp này có thể khiến quỷ đáp ứng làm cho cậu một việc. Rất rõ ràng, tôi muốn nó không nên quấn lấy người sống nữa. Còn nó có muốn thành Phật hay không là tùy nó, tôi không xen vào.” “Vậy anh đáp ứng nó hồi nào vậy? Tôi đâu có đáp ứng đâu!” Càng lúc tôi càng cảm thấy ngơ ngác. Bạch Dực lắc đầu, tóm lấy tôi kéo về phía nhà ông lão Lý: “Đừng đứng giữa đường nói, nhìn như hai đứa điên ấy, về nhà ông Lý trước rồi tính.” Cháu gái của ông lão đã thôi không làm ầm ĩ nữa, lúc nãy có lẽ ông lão đã dùng hết sức lực giữ chân Lý Ái, nên lúc này cả hai đang nắm tay nhau thở hổn hển. Thấy chúng tôi đi đến, ra hiệu mọi chuyện đã ổn, ông ta mới cẩn thận từ từ buông tay cháu mình ra, cô bé con nhìn như vừa đánh mất cái gì, chán chường lê vào phòng. “Bác Lý, sao bác không cho chúng tôi biết trước đây bác đã giết người!” Chờ Lý Ái đóng cửa phòng, Bạch Dực chợt mở miệng hỏi, ông lão vừa nghe thì đã giật nảy người trợn mắt nhìn, cả cơ thể giống như gà bị cắt tiết, run rẩy từng hồi. Tôi không thể tin vào tai mình, một ông lão bán bánh bao sao có thể đi giết người?! Tôi đề phòng nhìn ông ta, chỉ sợ ông ta tự nhiên móc đâu đó ra một con dao giết chúng tôi diệt khẩu. Ánh mắt ông lão chợt mờ đi, ngồi phịch xuống ghế, giọng nói khản đặc cứ như rít ra từ trong cổ họng: “Tui đã giết…tui đã giết chính con gái ruột mình. Chính con gái ruột của mình!” Cả đầu tôi tê dại đi, tuy tôi không biết rõ ông lão này lắm, nhưng tôi biết ông ta bán bánh bao rất ngon, rất thành thực, đối đãi với người khác cũng tốt. Mà đối với cháu gái càng thêm thương yêu bảo vệ. Giết con gái ruột? Sao có thể chứ? “Vậy bây giờ chắc bác cũng đã biết cái bóng đó là gì rồi chứ?” Bạch Dực vẫn nhìn chằm chằm ông lão, trên mặt không có biểu cảm gì. Ông lão đau đớn ôm đầu, thân thể xụi lơ té khỏi ghế, ông ta quỳ rạp trên mặt đất gần như thét lên: “Biết chớ, sao lại không biết được, lúc Tiểu Ái vừa hát là tui đã biết rồi, đó là bài hát chiêu hồn của dòng họ nhà tui, khi con gái tui còn nhỏ tui đã dạy cho nó! Tui có tội với nó lắm, tui biết, nhưng nó sinh ra đã bị đần, làm sao tui nuôi nó cho nổi! Thế nào tương lai của nó cũng không ra gì, chi bằng..chi bằng…” Tôi lạnh lùng thốt lên: “Chỉ vì thế mà bác giết con mình sao, trên tay bác đã vấy máu cô ấy rồi!” Ông lão khóc nước mắt giàn dụa ngẩng lên nhìn tôi, đau đớn nói: “Hồi đó ăn còn không có mà ăn, tui còn phải lo cho cả gia đình!” “Con gái bác cũng tên là Lý Ái phải không?” Bạch Dực thản nhiên hỏi. “Đúng vậy, tui nghĩ, thôi thì gọi cháu gái tên này luôn, để coi như là cho nó sống thay phần con gái tui, coi như đó là tui bồi thường cho nó…” “Bác giết cô ấy ở ngay góc đường ngoài kia phải không? Ngay cả một phần mộ cũng không có.” “Tui…tui…tui sợ người ta biết…” Tôi không còn dám nghe tiếp nữa, ông lão này đã ra tay giết chính con gái ruột bị thiểu năng bẩm sinh của mình, sau đó chôn cô bé ngay ở góc đường sát bên nhà, quay đầu đi liền coi như không có chuyện gì mà loan tin là con mình đã mất tích. Đứa bé đáng thương cứ như vậy bị phụ thân chôn ngay gần nhà mình, chỉ bởi vì cô bé bị thiểu năng. “Lời hứa lúc nãy của tôi với cô ấy là, tôi sẽ mang cô ấy tới bên cạnh phụ thân cô ấy, tôi đã mang cô ấy tới rồi.” Bạch Dực lạnh lùng nhìn ông lão, mà ông ta đột nhiên kinh hoàng phát hiện cái bóng của chính mình trên tường chợt hóa thành một cuộn đen đặc, rồi biến thành một cái bóng người khác, ông ta muốn chạy trốn, nhưng cái bóng đã giữ chặt chân ông ta lại, nhìn ông ta như thể đang bị xé nát thành từng mảnh. Ông lão Lý sợ hãi nhìn cái bóng đang quấn lấy mình, gào thét điên cuồng. Bóng dáng của ông ta dần dần cuộn lại, hai cái bóng nhập nhèm hòa làm một, tựa như mực tan vào trong nước. Tôi muốn đến giúp, nhưng Bạch Dực đã ngăn lại, lắc đầu nói: “Tội nghiệt của một người chỉ có cách dùng đau đớn ngang bằng để bồi hoàn mà thôi. Ông ta không muốn đứa con thiểu năng liên lụy đến mình, vậy từ giờ ông ta phải mang theo linh hồn của con gái mình, cùng cô ấy sống nốt. Còn chúng ta chỉ có thể đứng nhìn, không thể can thiệp, vì đây chính là khế ước của chúng ta với quỷ.” Bạch Dực nói xong, lập tức quay người rời khỏi căn nhà. Tôi quay đầu nhìn lại lần cuối, thấy cái bóng quỷ nọ vui sướng bám cứng lấy ông lão, tựa như con thú non mới sinh bám chặt lấy cha mẹ của nó, ông lão điên cuồng muốn tháo bóng đèn xuống, vứt ra cửa, ông ta không muốn nhìn cái bóng của chính mình, ông ta trốn xuống bàn, run lẩy bẩy ôm chặt lấy mang tai, rồi lại lắc lắc người dữ dội như muốn cái gì đó rớt ra khỏi người. Ông ta đã phát điên, từ buồng trong, thanh âm của Lý Ái vang ra: “Bóng quỷ nhi, âm dương lối, đừng quay đầu lại. Tiết thanh minh, mộ cô nhi, một ngọn đèn sáng. Vượt đường đêm, sinh tử hai bên, quỷ quay đầu lại…” Tôi biết ông lão phải trả giá vì sự ích kỷ của mình, Lý Ái thực sự vô tội… Nhưng đôi khi, món nợ quá lớn còn liên lụy tới những người thân yêu nhất cùng mình hoàn trả. Sau đó, tiệm bánh bao của ông lão không bao giờ mở cửa nữa. Lý Ái được cha mẹ mình mang tới một thành phố khác, có người nói ông lão đã được đưa vào viện dưỡng lão. Cũng có người nói chẳng bao lâu sau ông ta đã chết, cho đến nay, thỉnh thoảng có vài người còn nhắc tới bánh bao của ông ta, nhưng không ai nhắc tới chính ông ta cả. Một ngày nọ, trong lúc vội vã bước ngang qua góc đường kia, tôi thoáng nhìn thấy hai cái bóng, một cái bóng ngồi xổm trong góc, cái bóng nhỏ hơn bên cạnh vui vẻ nhảy múa. Bên tai còn quanh quẩn một bài đồng dao chiêu hồn… Đừng vì bất kỳ lý do gì mà vứt bỏ thân nhân của ngươi, bởi vì bọn họ chưa từng rời bỏ ngươi. Cái bóng quỷ – End [1] Phép thuật thu phục quỷ (*) Người biên tập lảm nhảm: Các bạn có bao giờ cảm thấy những bài đồng dao thực sự rất đáng sợ không? Có lẽ trong văn hóa Việt Nam không có, nhưng ở những nước khác, có một số bài đồng dao được coi như những đoạn mật mã hoặc phù chú kỳ quái còn sót lại từ thời cổ đại. Tại Nhật Bản, bài đồng dao nổi tiếng nhất có lẽ là “Kagome kagome”. Có thuyết cho rằng nó là một lá bùa của thuật Âm Dương (Onmyou) dùng để trấn giữ/ bảo vệ một thứ gì đó. Vì những chi tiết trong bài hát này thực ra là để vẽ một ngôi sao sáu cánh, biểu trưng của một lá bùa. Ngoài ra còn có những bài hát hát lên khi tham gia những trò chơi dân gian cũng kỳ quái không kém. Đơn cử là trò chơi “bịt mắt bắt dê” của Nhật, trong bài hát của nó có câu “Ushiro wa daare?” (Thử đoán xem sau lưng bạn là ai?) Nghe có phần kinh khủng, nhỉ.