- Nhân vật duy nhất đáng kể là tiểu thuyết gia, - Osano nói. - Không giống như mấy anh viết truyện ngắn, viết truyện phim, nhà thơ hay viết kịch bản và cả đám nhà báo văn học nhẹ kí, loàng xoàng. Tất cả mới chỉ là những lớp áo. Mỏng dính. Chưa có tí chút gân cốt trầm trọng nào nơi họ. Bạn phải có đủ gân cốt cường kiện mới xây dựng nổi cơ đồ khi dấn thân vào con đường viết tiểu thuyết. Ông trầm ngâm suy tưởng về những điều đó rồi viết ra trên giấy. Tôi biết rằng sẽ có một tiểu luận về “gân cốt đường kiện” trong số báo phát hành Chủ nhật tới. Rồi có những lần khác ông sẽ nguyền rủa chuyện viết lách bết bát trong tạp chí. Số phát hành đang giảm và ông thoái mạ sự tẻ nhạt của nghề phê bình. - Chắc là, nhung anh chàng này uyên bác, lịch lãm. Chắc là, họ có những điều thú vị để nói. Nhưng họ không biết nói. Họ không viết nổi một câu cho ra hồn. Họ giống như những đứa cà lăm. Họ bẻ chân anh trong khi anh cố bám từng chữ thoát ra giữa những chiếc răng nghiến chặt trong cơn đau sáng tạo. Mỗi tuần Osano có một bài tiểu luận của chính ông đăng trên trang thứ nhì của tạp chí. Văn khí của ông rực rỡ, đầy trí luệ sắc sảo nhưng cũng rất thiên kiến cố ý chọc tức để bớt bạn thêm thù. Có tuần ông tung ra bài báo bênh vực tử hình. Ông chỉ ra rằng trong bất kì cuộc trưng cầu dân ý nào thì án tử hình cũng sẽ được đồng tình rộng rãi của công luận. Rằng chỉ có tầng lớp thượng lưu như quý độc giả của bản báo đã vận động để đưa án tử hình đến chỗ khựng lại ở nước Mỹ. Ông cho rằng đây là một âm mưu của giới lãnh đạo cấp cao trong chính quyền. Ông cho rằng chính sách của nhà nước hiện nay là cho phép những phần tử tội phạm, cùng khổ được quyền ăn cắp, tấn công, trấn lột, hãm hiếp và giết chóc giai cấp trung lưu. Rằng đó là một “đầu ra” mở lối cho các giai cấp thấp kém có chỗ xả bớt nộ khí để họ không trở thành những chiến sĩ cách mạng. Rằng giới lãnh đạo cấp cao đã ước lượng rằng thực hiện đường lối này thì cái giá phải trả sẽ rẻ hơn. Rằng giới thượng lưu sống trong những khu an toàn, gữi con cái đi học trong những trường tư thục được bảo vệ tốt, thuê lực lượng bảo vệ riêng và vì thế được an toàn, không sợ sự trả thù của giai cấp vô sản. Ông chế giễu những người tự do cấp tiến cho rằng mạng sống con người là thiêng liêng và rồi chính sách của nhà nước xử các công dân tội tử hình sẽ tạo ra một hiệu ứng tàn bạo đối với nhân loại nói chung. Chúng ta chỉ là thú vật. Ông nói và nên được đối xử không khá hơn là những con voi độc bị hành hình ở Ấn Độ khi chúng giết một mạng người. Thực ra là, ông khẳng định, con voi bị hành hình kia còn có nhiều phẩm giá hơn và sẽ đi vào tầng trời cao hơn là những sát nhân nghiện héroin, được để cho sống trong những nhà tù tiện nghi trong năm hoặc sáu năm trước khi chúng lại được thả ra để giết hại nhiều công dân thuộc lớp trung lưu hơn nữa. Khi bàn đến vấn đề xem án tử hình có phải là biện pháp răn đe ngăn chặn hữu hiệu không, ông chỉ ra rằng người Anh là dân tộc có ý thức tôn trọng pháp luật nhất, thậm chí các viên chức cảnh sát của họ không cần phải mang súng: Và ông gán hiện tượng này đơn thuần là do việc người Anh đã hành hình cả những đứa trẻ mới tám tuổi phạm tội ăn cắp, dù là vật nhỏ nhặt như cái khăn tay, cho đến tận thế kỉ mười chín. Rồi ông lại thừa nhận mặc dầu biện pháp này đã quét sạch tội ác và bảo vệ tài sản, nhưng cuối cùng nó đã biến những kẻ kiên quyết hơn trong tầng lớp lao động thành những con vật chính trị hơn là những tội phạm hình sự và do đó đã mang chủ nghĩa xã hội vào nước Anh. Một câu trong bài viết của Osano đặc biệt làm độc giả nổi điên: “Chúng tôi không biết án tử hình có phải là biện pháp răn đe hữu hiệu hay không, nhưng chúng tôi biết rằng những kẻ đã bị khử đi thì không còn khả năng giết người nữa. Thế là đạt yêu cầu!.” Ông kết thúc bài tiểu luận bằng cách khen mỉa các nhà cầm quyền Mỹ đã có đủ sức ngây thơ để cấp giấy phép cho các tầng lớp hạ lưu được trấn lột và giết người để họ không trở thành những tay cách mạng về chính trị. Đó là một bài viết đầy chất báng bổ, ngông ngạo, quá khích, nhưng ông viết hay đến nổi toàn bộ sự việc rất lô-gic. Hàng trăm thư phản đối bay tới tấp đến tòa soạn từ những nhà tư tưởng xã hội danh tiếng nhất trong số độc giả trí thức tiến bộ của chúng tôi. Một bức thư đặc biệt do một tổ chức cấp tiến chủ xướng và được những nhà văn tầm cỡ nhất nước Mỹ kí tên đã được gửi đến nhà xuất bản yêu cầu Osano phải rời khỏi vị trí tổng biên tập của tạp chí. Osano cho đăng bức thư đó trong số tới. Ông vẫn còn uy danh lừng lẫy nên ai đủ can đảm sa thải ông? Mọi người đang chờ quyển tiểu thuyết “vĩ đại” của ông hoàn tất. Tác phẩm sẽ đem về giải Nobel văn chương của ông, đồng thời cũng làm rạng danh thêm cho nền văn học của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ! Đôi khi tôi đi vào văn phòng ông, ông đang viết trên những tờ giấy màu vàng, sẽ bỏ vào hộc bàn và tôi biết đấy là tác phẩm vĩ đại đang hình thành. Tôi chẳng bao giờ tò mò hỏi ông về quyển sách đó và ông cũng không hề muốn hé lộ tí gì. Vài tháng sau, ông lại gặp chuyện rắc rối. Ông viết một bài tiểu luận đăng ở trang hai trong đó ông trích dẫn những nghiên cứu chứng tỏ rằng những mẫu rập khuôn có lẽ là đúng. Rằng người Ý là những kẻ tội phạm bẩm sinh, rằng người Do Thái giỏi làm tiền hơn bất kì dân tộc nào khác và họ còn có nhiều tay vĩ cầm tài ba, nhiều sinh viên y khoa xuất sắc hơn các giống dân khác, nhưng đằng khác, tệ hơn bất kì dân tộc nào khác, hầu hết họ đều đưa cha mẹ vào viện dưỡng lão. Rồi ông trích dẫn những nghiên cứu chứng tỏ rằng người Ireland nghiện rượu có lẽ là do sự khiếm khuyết hóa học nào đó chưa xác định được hoặc là do sự kiện họ là những kẻ đồng tính luyến ái bị dồn nén. Và vân vân. Những chuyện đó thực sự đã mang lại những lời la ó, nhưng không hề làm cho Osano chùn bước. Theo tôi nhận định, ông ta sắp điên mất rồi. Một tuần nọ, ông lấy trang đầu tờ báo để đăng chính bài giới thiệu của ông ột quyển sách về trực thăng. Con ong điên rồ vẫn vẫn vù vù trong óc ông. Trực thăng sẽ thay thế xe hơi và khi điều đó xảy ra hàng triệu dặm đường nhựa sẽ được cày xới lên để lấy đất làm trang trại. Trực thăng sẽ giúp các gia đình trở về với cấu trúc hạt nhân của chúng bởi vì lúc đó người ta sẽ dễ dàng đi thăm viếng những bà con, thân nhân ở xa. Ông tin chắc rằng xe hơi sẽ trở nên lỗi thời. Có lẽ do ông ghét xe hơi. Để đi nghỉ cuối tuần ở Hamptons, ông luôn dùng một thủy phi cơ hay trực thăng được thuê riêng. Ông cho rằng chỉ cần một vài cải tiến kĩ thuật nữa là việc lái trực thăng cũng dễ dàng như lái xe hơi. Tiếp đến, ngay trong tuần đó, một quyển sách khảo luận về Hemingway được xuất bản bởi một trong những học giả được kính trọng nhất ở Mỹ trong lĩnh vực văn học. Vị này có một mạng lưới rộng lớn những thân hữu có uy tín và ông đã bỏ cả mười năm trời vào tác phấm này. Quyển đó được giới thiệu nơi trang đầu của một ấn phẩm, trừ nơi tạp chí của chúng tôi. Osano cho đăng bài giới thiệu ở trang năm và chỉ có ba cột thay vì trọn trang. Cuối tuần đó, nhà xuất bản mời ông họp mặt và ông mất ba tiếng đồng hồ trong dãy văn phòng lớn trên sân thượng để giải thích hành động của mình. Lúc bước xuống về tới văn phòng mình, ông cười đến tận mang tai và hào hứng nói với tôi: - Merlin này, ta sẽ còn đùa dai với đám đó. Nhưng ta nghĩ cậu nên bắt đầu đi tìm việc khác là vừa. Ta chẳng có gì phải hối tiếc. Ta sắp hoàn tất tác phẩm để đời và lúc đó ta sẵn sàng nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo, để thảnh thơi em tá rượu bầu. Chỉ phải lo cho cậu thôi đấy. Vào thời điểm đó tôi đã làm việc cho ông gần cả năm và tôi không thể hiểu bằng cách nào ông hoàn tất được công việc. Ông nhúng tay vào mọi việc và hơn nữa, ông còn đi dự mọi cuộc liên hoan, hội hè ở New York. Trong thời gian đó, ông còn kịp “đốn ngủ”(4) một truyện vừa, lấy một trăm ngàn đô-la tiền ứng trước. Ông viết truyện đó trong văn phòng bằng thời gian lẽ ra dành cho công việc của tạp chí và ông mất đến hai tháng để viết truyện đó. Các nhà phê bình nồng nhiệt giới thiệu, nhưng sách không bán được nhiều lắm dù được đề cử giải Sách Quốc gia. Tôi đọc sách đó và thấy lời văn bí hiểm một cách rực rỡ, việc xây dựng nhân vật thật lố lăng, việc sắp xếp tình tiết thật điên rồ. Đối với tôi, đó là một quyển sách chẳng ra làm sao mặc dù có vài ý tưởng rối rắm. Ông có một trí tuệ ưu việt, điều đó thì không phải bàn cãi. (4) Nói lái: đủ ngốn. Nhưng với tôi, quyển sách đó là một thất bại hoàn toàn, với tư cách là truyện vừa. Ông không bao giờ hỏi tôi có đọc quyển đó không. Rõ ràng ông không muốn nghe ý kiến của tôi. Tôi đoán có lẽ ông biết rằng nó đầy chuyện nhảm. Bởi vì một hôm ông nói: - Giờ đây vì đã có dủ tiền, mình có thể yên tâm ngồi viết cho xong quyển sách lớn. Một lí do khoan miễn ông ta nêu ra để tự bào chữa, tôi nghĩ. Tôi bắt đầu thích Osano, nhưng tôi vẫn luôn sợ ông. Ông có thể lôi tuột mọi ý nghĩ của tôi ra theo cách mà không người nào khác có thể làm được. Ông gợi cho tôi nói về văn chương, về việc chơi bài và về đàn bà. Và rồi, khi ông đã đo lường được tôi, ông sẽ phanh phui tôi. Khi tôi kể với ông về chuyện Jordan tự sát ở Vegas và mọi chuyện diễn ra sau đó và việc tôi cảm thấy sự kiện đó đã làm thay đổi cuộc đời tôi như thế nào, ông nghĩ về điều đó một thời gian lâu rồi ông cho tôi biết cảm nhận kèm theo một bài thuyết giáo: - Cậu cứ bám vào câu chuyện đó, luôn quay lại với nó, biết tại sao không? - Ông hỏi. Ông đang đi qua những chồng sách trong văn phòng mình vung vẫy đôi tay: - Vì cậu biết rằng đó là lãnh vực cậu không bị nguy hiểm. Cậu sẽ không bao giờ tự tử. Sẽ không bao giờ thấy tan vỡ nao núng. Cậu không thể là phụ tá thân cận của tôi nếu như tôi không thích cậu. Và tôi tin cậy cậu hơn bất kì ai khác. Nghe đây, tôi muốn thổ lộ một chút tâm tình. Mới tuần rồi tôi phải thảo lại chúc thư khác vì mụ Wendy chết tiệt đó! Wendy là người vợ thứ ba của ông và vẫn tiếp tục làm cho ông tức điên người với đòi hỏi quá quắt mặc dầu bà ta đã tái giá ngay sau khi li dị. Chỉ mới nhắc tên bà mà đôi mắt ông đã long lên giận dữ. Nhưng rồi ông trấn tĩnh lại. Ông cười với tôi, một nụ cười ngọt ngào khiến ông trông giống một đứa trẻ dù giờ đây ông đã quá năm mươi. - Tôi hi vọng cậu không phiền, - Ông nói. - Tôi đã ủy nhiệm cậu làm người đại diện được ủy thác điều hành tài sản văn học của tôi. Tôi sững sờ và vui sướng thế nhưng tôi vẫn thụt lùi, ngần ngại. Tôi không muốn ông tin tưởng đến thế hay thích tôi. Tôi không cảm nhận về ông theo cách đó. Thực tế tôi đã cảm thấy thích được bầu bạn với ông, bị mê hoặc bởi trí tuệ sắc sảo nhạy bén của ông. Và dù cố phủ nhận điều đó, song tôi vẫn bị ấn tượng bởi danh vọng văn học của ông. Tôi nghĩ về ông như một người giàu có tiếng tăm, quyền thế và việc ông phải tin cậy tôi tới mức đó chứng tỏ ông dễ tổn thương đến thế nào và điều đó làm tôi choáng váng. Nó phá vỡ một số ảo tưởng của tôi về ông. Nhưng lúc đó ông tiếp tục nói về tôi: - Cậu biết không, bên dưới mọi chuyện cậu vẫn coi thường Jordan mà cậu không dám thú nhận với mình. Tôi đã nghe câu chuyện đó của cậu không biết bao nhiêu lần. Chắc là cậu thích anh ta, ngay cả có lẽ cậu hiểu anh ta. Nhưng cậu không chấp nhận sự kiện là một anh chàng có nhiều điều kiện như vậy lại đi bắn vỡ đầu mình. Bởi vì cậu biết mình đã từng có một cuộc sống tệ hơn anh ta rất nhiều, nhưng cậu sẽ không bao giờ hành động như vậy. Cậu còn cảm thấy hạnh phúc dù sống một cuộc đời làng nhàng. Cậu chưa bao giờ có gì cả, cậu chăm chỉ làm việc, cậu có một cuộc hôn nhân thành công và cậu là một nghệ sĩ đã để nửa cuộc đời trôi qua mà chưa có được thành công thực sự nào. Vậy mà cậu vẫn hạnh phúc một cách cơ bản! Ôi Trời, cậu vẫn còn tiếp tục khoái vợ nhà, trong khi hai anh chị đã bao lâu? - Mười, mười lăm năm rồi. Hoặc cậu là một người vô cảm nhất tôi từng gặp hay là anh chàng nhạy cảm nhất. Một điều tôi biết cậu là một người cứng rắn. Cậu sống trong thế giới riêng của mình, làm đúng điều cậu muốn làm. Cậu kiểm soát đời mình. Cậu không gặp rắc rối và lỡ khi gặp cũng không hoảng loạn, biết cách đối phó và thoát ra. Tốt, tôi phục cậu. Tôi chưa bao giờ thấy cậu làm hoặc nói điều gì thực sự có ý nghĩa nhưng tôi không nghĩ cậu thực sự bất cần thiên hạ. Cậu điều khiển cuộc đời mình. Và ông ta chờ tôi phản ứng. Ông vẫn cười cười, đôi mắt xanh lục của ông ta láo liên, thách thức. Tôi biết ông đang vui vì đã phô bày nhưng tôi cũng biết ông có phần cố ý như vậy và tôi thấy bị xúc phạm. Có rất nhiều điều tôi muốn nói! Muốn kể ông nghe một đứa bé mồ côi lớn lên như thế nào. Rằng tôi đã thiếu cái cốt lõi, cái cơ bản của hầu hết mọi kinh nghiệm đời người. Rằng tôi đã không có gia đình, không có quan hệ xã hội, không gì ràng buộc mình với phần còn lại của thế giới. Tôi chỉ có anh Artie là người thân thiết duy nhất trên đời. Khi nghe người ta nói chuyện đời, tôi không thể nắm được thật sự họ muốn nói gì cho đến khi tôi cưới Vallie. Đó là lí do tại sao tôi tình nguyện chiến đấu trong thời kì chiến tranh. Tôi hiểu rằng chiến tranh là một kinh nghiệm phổ quát khác và tôi không đứng ngoài. Tôi đã có lí. Chiến tranh đã là gia đình của tôi dầu chuyện đó nghe có vẻ ngô nghê đến cỡ nào. Giờ đây tôi vui sướng vì mình đã không bỏ lỡ cơ hội dấn mình vào chốn can qua. Và điều mà Osano làm lơ hoặc không thiết nói tới vì ông đã giả định rằng tôi biết rồi, đó là làm chủ cuộc đời mình đâu có dễ. Và điều ông không thể biết là đồng tiền của hạnh phúc, đó là một thứ tiền tệ mà tôi không bao giờ hiểu được. Tôi đã trải qua phần lớn cuộc đời trong bất hạnh đơn thuần chỉ là hoàn cảnh khách quan. Tôi đã trở nên tương đối hạnh phúc trở lại cũng bởi hoàn cảnh khách quan. Lấy được Vallie, có con với nàng, có được tài khéo hay nghệ thuật hay kĩ năng sản xuất ra các bài viết giúp tôi kiếm sống được, điều đó làm tôi thấy hạnh phúc. Đây là một thứ hạnh phúc được xây dựng bằng những gì tôi kiếm được dựa trên sự mất mát điêu tàn. Và do đó thật giá trị đối với tôi. Tôi biết mình sống một cuộc đời hữu hạn, một cuộc sống thị dân quá bình dị. Rằng tôi có quá ít bạn bè, thiếu tính xã hội, ít chú tâm tới thành công. Tôi chỉ muốn tạo thành công qua đời sống, hay tôi nghĩ thế? Và Osano quan sát tôi, vẫn còn mỉm cười: - Nhưng cậu là một kẻ cứng cựa nhất mà tôi từng gặp. Cậu chẳng bao giờ để ai đến gần. Cậu chẳng để cho ai biết được cậu thực sự nghĩ gì. Nghe vậy tôi phải phải kháng: - Nghe này, ông hỏi ý kiến tôi về bất kì chuyện gì và tôi đều cho ông biết. Tôi xin nói là quyển sách vừa rồi của ông là thứ nhảm nhí và ông điều hành tạp chí này giống như một người điên. Osano cười: - Tôi không quan tâm mấy chuyện đó. Tôi chưa bao giờ nói cậu không trung thực nhưng bỏ chuyện đó đi. Một ngày nào đó, cậu sẽ biết tôi đang nói về chuyện gì. Nhất là nếu cậu bắt đầu đi săn rồng lộn và chẳng may vớ phải một ả như Wendy! Thỉnh thoảng Wendy đến các văn phòng của tạp chí. Nàng là một cô tóc nâu với đôi mắt điên dại và một thân hình căng đầy nhựa sex. Nàng rất thông minh và lẽ ra Osano có thể đưa sách cho nàng giới thiệu, phê bình. Nàng là người duy nhất trong số các cựu bà xã của ông không ngán ông và nàng đã làm cho đời ông khốn nạn kể từ khi họ li dị. Khi ông bê trễ trong việc trả tiền trợ cấp, nàng liền đến tòa án để đòi tăng thêm phần tiền đó. Nàng đã chộp một anh văn sĩ mới hai mươi tuổi về ở chung căn hộ với nàng và lo cho chàng ta đủ thứ. Tay này lại nghiện nặng ma túy và Osano lo lắng chuyện hắn có thể làm hại những đứa con của mình. Osano kể những câu chuyện về cuộc hôn nhân của hai người mà tôi tưởng như không thể tin nổi, vì bà ta rất ngang ngạnh, bướng bỉnh và còn điên hơn cả ông nữa. Cho nên trong cuộc đối đầu triền miên giữa họ, cuối cùng kẻ thắng là kẻ dám điên hơn! Đôi khi họ có những cãi cọ nhỏ, bà ta sẽ gọi cảnh sát đến tống cổ ông ra khỏi căn hộ và cảnh sát sẽ đến và sẽ sửng sốt trước tính ngược ngạo phi lí của bà ta. Họ thấy quần áo của Osano bị kéo cắt thành từng mảnh vụn vương vãi khắp sàn nhà. Bà thừa nhận mình làm điều đó, nhưng đâu phải vì thế mà Osano có quyền đánh bà. Điều bà không nói đến đó là bà đã ngồi trên đống quần áo bị cắt vụn ra và thủ dâm với một máy rung. Và Osano có nhiều chuyện kể về cái máy rung này. Bà đã đến một nhà tâm lí trị liệu bởi vì bà ta không thể đạt đến cực khoái. Sau sáu tháng, bà đã thừa nhận với Osano rằng nhà trị liệu kia đã phết bà ta đều đều, như là một phần của việc trị liệu. Osano không ghen; vào thời điểm đó ông thật sự ghê tởm bà ta. - Ghê tởm! - Ông nói. - Không phải ghét. Có sự khác biệt đấy. Nhưng Osano giận như điên mỗi lần ông cầm biên nhận của nhà trị liệu và ông hét vào mặt bà: - Tôi phải trả cả trăm đô-la mỗi tuần ột thằng lưu manh nó chơi vợ tôi và chúng gọi là “y khoa tiên tiến!” Và ông còn kể chuyện khi bà vợ mở một tiệc cocktail và bà ta điên đến nỗi thôi không đến nhà trị liệu mà mua một máy rung. Mỗi chiều tối, trước bữa ăn tối, bà khóa cửa ở một mình trong phòng ngủ để cách li với mấy đứa trẻ và thủ dâm với cái máy. Bà ta luôn đạt đến cực khoái. Bà ra quy định nghiêm ngặt là không ai được làm rộn bà trong giờ đó. Cả nhà, kể cả lũ trẻ đều nói đến đó là “giờ hạnh phúc.” Cuối cùng điều làm cho Osano phải rời bỏ bà, theo như ông kể, là khi bà bắt đầu ca cẩm về chuyện Scott Fitzgerald đã ăn cắp những gì tốt đẹp nhất từ bà vợ Zelda của ông ta. Rằng lẽ ra Zelda đã trở nên một tiểu thuyết gia vĩ đại nếu phải chi chồng bà đã không chôm chỉa bao nhiêu tinh hoa của bà, Osano tức quá, nắm lấy đầu tóc của bà vợ và dí mũi bà ta vào quyển The Great Gatsby. - Hãy đọc cái này đi, đồ cái lũ ngu xuẩn! - Ông hét lên. - Chỉ cần đọc độ mươi câu thôi rồi đối chiếu với quyển sách của vợ ông ta. Rồi hãy trở lại nói chuyện với ta! Bà ta đã chịu khó đọc cả hai quyển và quay lại với Osano và nói với ông ta cùng điều đã nói. Ông đấm vào mặt bà, bầm tím cả hai mắt rồi dứt khoát chia tay. Vừa mới đây thôi. Wendy lại thắng một keo nữa trong cuộc đấu với Osano một chiến thắng đáng nguyền rủa. Ông biết là bà ta lấy tiền trợ cấp nuôi con để đem cung phụng cho chàng tình nhân trẻ. Nhưng có một ngày con gái ông đã đến xin tiền bố để mua quần áo. Cô giải thích rằng bác sĩ phụ khoa đã khuyên cô đừng mặc quần jean nữa vì bị nhiễm trùng âm đạo và cô hỏi mẹ cho tiền mua sắm quần áo, mẹ cô nói: - Hỏi bố mày đấy! Chuyện này xảy ra khi họ li dị đã năm năm. Để tránh tranh cãi, Osano đưa tiền trợ cấp trực tiếp cho con gái. Wendy không phản đối. Nhưng sau một năm, bà đưa Osano ra tòa vì tiền trợ cấp năm qua. Cô con gái làm chứng cho bố. Osano đã tưởng chắc ăn là mình sẽ thắng khi quan tòa hiểu rõ mọi tình huống. Nhưng quan tòa nghiêm khắc truyền cho ông chẳng những phải trả tiền trực tiếp cho bà mẹ mà còn phải trả gộp luôn tiền trợ cấp cả năm qua. Và thực tế là ông phải trả gấp đôi. Wendy hồ hởi với chiến thắng đến nỗi sau đó bà ta cố gắng trở nên thân thiện hữu hảo với ông. Ngay trước mặt đám con, ông phũ phàng quét đi mọi biểu hiện tình cảm của bà và lạnh lùng tuyên bố: - Nhà ngươi là cái âm đạo tồi tệ nhất mà bản quan nhân đây từng thấy! Lần sau khi Wendy đến tòa soạn tạp chí, ông từ chối không cho bà vào văn phòng của mình và cắt mọi công việc ông đã giao bà. Và điều làm ông ngạc nhiên đó là bà không hiểu tại sao ông ghê tởm bà. Bà bêu riếu ông với bạn bè của bà và rêu rao rằng ông chưa hề một lần thỏa mãn bà trên giường, rằng ông không đủ chuẩn để làm cái việc quá dễ đó. Rằng ông là một kẻ đồng tình luyến ái bị ức chế, chỉ thích đám con trai nhỏ. Bà tìm cách ngăn cản ông không được gần con trong mấy tháng hè, nhưng Osano thắng trận đó, rồi ông cho đăng một chuyện ngắn châm biếm sắc bén ma mãnh về bà trong một tạp chí quốc gia. Có thể trong đời ông không khiển được bà nhưng trong truyện ông vẽ ra một chân dung thật khủng khiếp và vì mọi người trong văn giới ở New York đều biết bà, nên người ta nhận diện được nhân vật trong truyện ngay. Bà ta bị nghiền nhuyễn trong mức độ khả thi cao nhất và sau đó bà ta tởn, chịu để yên cho Osano. Nhưng bà đã ngấm vào trong ông như một thứ thuốc độc. Ông không thể kềm lòng được khi nghĩ đến bà mà mặt ông không đỏ bầm lên, đôi mắt không long sòng sọc như sắp lên cơn. Ngày nọ ông bước vào văn phòng và bảo tôi rằng một hãng phim đã mua một trong các tiểu thuyết của ông để dựng thành phim và ông phải đi đến đó để hội thảo về kịch bản phim, với mọi chi phí hãng đó chịu. Ông đồng ý, ông bị bao vây bởi các bà vợ và ghét du lịch một mình và ông cảm thấy mình sắp đi vào miền đất thù địch. Ông muốn có bạn bên mình. Dù sao đó là điều ông nói và vì tôi chưa bao giờ ở California và tôi vẫn được lãnh lương trong khi đi xa, nên đây có vẻ là một cuộc thương lượng tốt. Tôi chưa biết rằng chuyến đi này sẽ còn đem lại cho tôi nhiều thứ hơn là việc tìm một con đường để tạo sự nghiệp.