Người Đưa Tin

Chương 2 : Jerusalem

Chiếc cặp táp đến Paris lúc bình minh, và lúc 11 giờ, nó được mang vào một văn phòng không có gì nổi bật trên đại lộ King Saul ở Tel Aviv. Ở đây, đồ đạc cá nhân của Giáo sư bị kiểm tra tỉ mỉ trong khi ổ cứng máy tính bị tấn công bởi một nhóm chuyên viên kỹ thuật. Ba giờ chiều cùng ngày…, gói thông tin đầu tiên đã được chuyển tới văn phòng Thủ tướng ở Jerusalem, và đến năm giờ tập hồ sơ chứa tài liệu đáng báo động nhất đã nằm trên ghế sau một chiếc limousine bọc thép đi về phía đường Narkiss, một con đường yên ắng nhiều lá rụng, cách trung tâm mua sắm Ben Yehuda không xa. Chiếc xe hơi dừng trước căn hộ chung cư nhỏ số 16. Ari Shamron, người từng hai lần làm Giám đốc bộ phận an ninh Israel, bây giờ làm cố vấn đặc biệt cho Thủ tướng trong tất cả các vấn đề liên quan đến an ninh và tình báo, bước ra khỏi xe từ ghế sau. Rami, đội trưởng đội bảo vệ có cặp mắt đen nhẹ nhàng nối gót ông. Shamron có vô số kẻ thù trong suốt sự nghiệp dài đầy biến động của mình. Do sự phức tạp về thành phần dân cư của Israel, nên kẻ thù có nhiều cơ hội để áp sát mục tiêu của chúng. Vì vậy, cho dù đang ở trong biệt thự như pháo đài kiên cố, Shamron cũng luôn được các nhân viên bảo vệ vây quanh. Ông dừng một chút trên lối nhỏ trong vườn và nhìn lên. Đây là một toà nhà ba tầng tồi tàn xây bằng đá vôi Jerusalem, cây khuynh diệp lớn trước nhà đổ bóng râm mát mẻ lên ban công. Cành cây đang đung đưa trong cơn gió lạnh đầu tiên của mùa thu, và từ cánh cửa sổ mở ở lầu ba bốc ra mùi gay gắt của chất sơn pha loãng. Khi bước vào sảnh, Shamron đưa mắt nhìn hộp thư cho căn hộ số ba và thấy không có bảng tên. Ông nặng nề leo cầu thang. Dáng người ông đậm, và như thường lệ, ông mặc quần kaki và áo khoác da cũ kỹ bị rách bên ngực phải. Mặt ông nứt nẻ và chi chít vết chân chim, chút viền tóc bạc còn sót lại bị cắt ngắn đến mức gần như biến mất. Tay ông như da thuộc, lấm tấm đồi mồi, và dường như được mượn từ một bàn tay nào đó to gấp hai lần ông. Bàn tay kia của ông cầm một tập hồ sơ. Cửa đang khép hờ khi ông lên đến chiếu nghỉ cầu thang lầu ba. Ông đặt tay lên cửa, nhẹ nhàng đẩy vào trong. Căn hộ này từng được trang trí tỉ mỉ bởi một phụ nữ Do Thái gốc Ý có khiếu thẩm mỹ tuyệt vời. Bây giờ đồ đạc trong nhà, cũng giống người phụ nữ, không còn nữa, và căn hộ được biến thành một xưởng vẽ. Tuy nhiên, đó không phải là xưởng vẽ của một họa sỹ, Shamron tự nhắc nhở. Gabriel Allon là một nhà phục chế - một trong ba hay bốn nhà phục chế tài năng nhất trên thế giới. Bây giờ anh đang đứng trước tấm vải lớn vẽ cảnh một người đàn ông bị bao vây bởi những con mèo ăn thịt. Shamron yên lặng ngồi trên chiếc ghế đẩu dính sơn nhìn Gabriel làm việc. Ông luôn cảm thấy kỳ lạ về tài bắt chước nét vẽ các bậc thầy thời xưa của anh. Đối với Shamron, đó là một trò ảo thuật, là một một tài năng trời phú khác của Gabriel bên cạnh khiếu ngôn ngữ của anh hay khả năng rút súng Beretta khỏi hông ngắm bắn chỉ trong khoảng thời gian một cái vỗ tay. “Chắc chắn bức vẽ trông đẹp hơn lúc nó mới được đưa tới”, Shamron nhận xét, “nhưng tôi vẫn không hiểu tại sao nhiều người muốn treo những bức tranh như thế trong nhà mình”. “Bức tranh này sẽ không được treo trong nhà”, Gabriel nói, tay đưa chiếc cọ lên bức vẽ. “Đây là một tác phẩm của bảo tàng”. “Ai vẽ nó?”. Shamron hỏi đột ngột, như đang tra vấn thủ phạm đặt bom. “Nhà đấu giá Bohnams ở Luân Đôn nghĩ đây là tác phẩm của Eramus Quellinus”, Gabriel trả lời. “Có lẽ Quellinus đặt nền tảng cho bức vẽ thật, nhưng tôi thấy rõ là Rubens đã hoàn tất bức tranh này cho ông ta”. Anh đưa tay chạm suốt bức vẽ lớn. “Nét cọ của ông ta ở khắp mọi nơi”. “Nếu vậy thì khác gì?” “Khoảng 10 triệu bảng”, Gabriel đáp. “Julian sẽ giàu to với bức tranh này”. Julian Isherwood là người bán tranh ở Luân Đôn, và cũng là nhân viên thời vụ của Tình báo Israel. Cục Tình báo có tên rất dài nhưng chẳng ăn nhập gì đến bản chất công việc của nó. Những người như Shamron và Gabriel chỉ đơn giản gọi nó là Văn phòng. “Tôi hi vọng Julian trả công xứng đáng cho cậu”. “Phí phục chế cho tôi, thêm một ít hoa hồng nếu bán được”. “Tổng cộng bao nhiêu?” Gabriel gõ cọ lên bảng màu rồi tiếp tục công việc. “Chúng ta cần nói chuyện”, Shamron tiếp tục. “Thế thì ông nói đi”. “Tôi sẽ không nói khi cậu đang làm việc”. Gabriel quay người ngó Shamron qua tròng kính phóng đại. “Và tôi cũng không nói chuyện với cậu chừng nào cậu còn mặc bộ đồ này. Trông cậu giống như cơn ác mộng của tôi vậy”. Gabriel ngần ngừ đặt bảng màu lên bàn làm việc. Anh gỡ kính phóng đại, để lộ đôi mắt màu ngọc lục bảo xanh đến mức gây sửng sốt. Chiều cao của anh dưới mức trung bình nhưng anh có vóc dáng vuông vức của một vận động viên đua xe đạp. Vầng trán anh rộng, nhưng lại hẹp ở cằm, còn chiếc mũi dài xương xẩu tựa như được tạc từ gỗ. Tóc anh cắt ngắn và lốm đốm bạc hai bên thái dương. Chính vì Shamron mà Gabriel đã trở thành nhà phục chế tranh chứ không phải trở thành một trong những họa sỹ thành danh nhất trong thế hệ anh. Chính Shamron cũng là nguyên do tại sao ở hai bên thái dương của anh lại trở nên muối tiêu chỉ trong một đêm mặc dù khi đó anh mới chỉ hơn hai mươi tuổi. Shamron là nhân viên tình báo được Golda Meir chọn để săn tìm và ám sát những kẻ thực hiện cuộc thảm sát Munich 1972. Cậu sinh viên mỹ thuật trẻ đầy hứa hẹn tên Gabriel Allon là tay súng chủ lực của ông. Gabriel rửa bảng màu và cọ vẽ, sau đó anh đi vào nhà bếp. Shamron ngồi xuống chiếc bàn nhỏ đợi Gabriel quay lưng lại rồi mới vội vã châm một điếu thuốc Thổ Nhĩ Kỳ nặng mùi. Gabriel, khi nghe tiếng tách tách quen thuộc của chiếc bật lửa Zippo cũ của Shamron, giận dữ chỉ tay về phía các bức họa của Rubens, anh sợ khói thuốc làm hỏng chúng, nhưng Shamron làm cử chỉ mặc kệ rồi ngang ngạnh đưa thuốc lên môi. Không khí im lặng dễ chịu len vào giữa hai người khi Gabriel đổ nước trong chai vào ấm trà và múc cà phê bỏ vào máy pha cà phê. Shamron thư thái lắng nghe tiếng gió thổi qua những cây khuynh diệp ngoài vườn. Là người tin vào lý lẽ và công bằng,ông đánh dấu thời gian không phải bằng các lễ hội Do Thái mà bằng nhịp điệu của đất trời - ngày mưa đến, ngày hoa dại nở ở Galilee, ngày những cơn gió mát trở lại. Gabriel có thể đọc thấy những suy nghĩ của ông. Thêm một mùa thu nhưng chúng ta vẫn còn ở đây. Hiệp ước vẫn chưa được hủy bỏ. “Thủ tướng muốn có câu trả lời”. Ánh mắt của Shamron vẫn chăm chú nhìn khu vườn nhỏ lộn xộn. “Ông ấy là người kiên nhẫn, nhưng ông sẽ không ngồi để chờ mãi đâu”. “Tôi đã bảo ông rằng tôi sẽ cho ông ấy câu trả lời sau khi đã phục chế xong bức họa”. Shamron nhìn Gabriel. “Chẳng lẽ tính kiêu ngạo của cậu không có điểm dừng sao? Thủ tướng nước Israel muốn cậu làm người đứng đầu Lực lượng Đặc nhiệm, còn cậu thì trì hoãn câu trả lời chỉ vì một bức vẽ 500 năm tuổi”. “Bốn trăm năm”. Gabriel mang cà phê đến bàn rót hai tách. Shamron múc đường đổ vào tách mình và khuấy mạnh một lần duy nhất. “Cậu bảo công việc của cậu gần xong, vậy câu trả lời của cậu là gì?” “Tôi chưa quyết định”. “Cho phép tôi cho cậu lời khuyên nhé?” “Nếu tôi không thích nghe lời khuyên của ông thì sao?” “Dù muốn hay không thì tôi vẫn khuyên cậu”. Shamron dập tắt mẩu thuốc lá. “Cậu nên nhận lời đề nghị của Thủ tướng trước khi ông giao nó cho người khác”. “Không chuyện gì có thể làm tôi vui sướng hơn nếu Thủ tướng làm như vậy”. “Thật vậy sao? Nếu thế thì cậu sẽ làm gì với chính mình?”. Được khuyến khích bởi sự im lặng của Gabriel, Shamron thúc ép thêm. “Cho phép tôi vẽ một bức tranh cho cậu, Gabriel. Tôi sẽ làm điều tốt nhất có thể. Tôi không có tài như cậu. Tôi không sinh ra trong gia đình Do Thái gốc Đức trí thức. Tôi chỉ là một người Do Thái gốc Ba Lan nghèo kiết xác có người cha kéo xe đi bán chậu lọ”. Giọng Ba Lan đầy sát khí của Shamron trở nên nặng hơn. Gabriel không nén nổi nụ cười. Anh biết rằng bất cứ khi nào Shamron giở giọng một người Do Thái bị chà đạp đến từ Lvov thì chắc chắn sẽ có một vở kịch hay sắp sửa diễn ra. “Cậu không còn nơi nào để đi, Gabriel. Cậu tự nói thế lần đầu khi chúng tôi đề nghị công việc cho cậu. Cậu sẽ làm gì khi đã xong bức họa của Rubens này? Cậu còn tác phẩm nào đang xếp hàng chờ à?”. Đoạn dừng lại của Shamron đầy kịch tính vì ông biết câu trả lời là không. “Cậu không thể quay trở lại châu Âu trừ phi cậu chính thức được tuyên bố không dính líu đến vụ đặt bom ở ga Lyon. Jullian có thể gửi cho cậu bức tranh khác, nhưng cuối cùng việc đó cũng chấm dứt vì giá đóng hàng và chuyên chở sẽ lạåm vào phần hạch toán vốn đã ít ỏi của ông ấy. Cậu đã rõ quan điểm của tôi chưa, Gabriel?” “Tôi hiểu rất rõ những gì ông muốn nói. Ông đang cố gắng sử dụng tình thế khó khăn của tôi làm phương tiện hăm dọa ép tôi về làm cho Lực lượng”. “Hăm dọa ư? Không, Gabriel. Tôi biết nghĩa của từ hăm dọa, và Chúa biết tôi nổi tiếng sử dụng việc này để phục vụ nhu cầu của mình. Nhưng đây không phải là hăm dọa. Tôi đang cố giúp cậu”. “Giúp đỡ à?” “Cho tôi biết một việc, Gabriel. Cậu dự định làm gì để kiếm tiền?” “Tôi có tiền”. “Đủ để sống như một ẩn sỹ, nhưng không đủ sống”. Shamron rơi vào im lặng tạm thời để lắng nghe tiếng gió. “Lúc này thật yên ắng, đúng không? Gần như là tĩnh lặng. Thật cám dỗ khi nghĩ mọi việc có thể như thế này mãi mãi. Nhưng chuyện này là không thể. Chúng ta đã trao cho họ Dải Gaza mà không đòi hỏi bất cứ điều gì, còn họ thì trả ơn chúng ta bằng cách bầu tổ chức Hamas làm lãnh đạo. Tiếp theo họ sẽ đòi Bờ Tây, nếu chúng ta không trao cho họ trong thời gian ngắn, máu sẽ lại rơi, còn khủng khiếp hơn cuộc nổi dậy lần thứ hai. Tin tôi đi, Gabriel, một ngày gần đây mọi chuyện sẽ lại bắt đầu. Không chỉ ở đây. Ở mọi nơi. Cậu nghĩ rằng họ đang ngồi lên tay mình rồi không làm gì ư? Dĩ nhiên là không. Họ đang hoạch định chiến dịch kế tiếp. Họ cũng đang nói chuyện với Osama và bè lũ của hắn. Bây giờ chúng ta đã biết sự thực là chính phủ Palestine hoàn toàn đã bị al-Qaeda và các tổ chức có liên quan thâm nhập. Chúng ta cũng biết họ dự định những cuộc tấn công chủ lực vào Israel và những mục tiêu người Israel ở nước ngoài trong tương lai gần. Văn phòng cũng tin rằng Thủ tướng đang là mục tiêu ám toán, bao gồm cả những cố vấn cao cấp”. “Cả ông nữa à?” “Dĩ nhiên”, Shamron nói. “Dù sao đi nữa tôi cũng là cố vấn đặc biệt của Thủ tướng về những vấn đề có liên quan đến an ninh và khủng bố. Cái chết của tôi sẽ là một chiến thắng rực rỡ của họ”. Ông lại nhìn ra ngoài ngắm những cái cây đang bị gió lay. “Thật mỉa mai, đúng không? Nơi này đáng lẽ phải là chỗ trú ẩn của chúng ta. Bây giờ thật kỳ lạ là nó khiến chúng ta dễ bị thương vong hơn bao giờ hết. Gần nửa số người Do Thái trên thế giới sống trong dải đất chật hẹp này. Chỉ một thiết bị hạt nhân nhỏ thôi, đó là tất cả những gì cần thiết. Người Mỹ có thể sống sót sau một đợt nổ bom. Người Nga thậm chí không thèm chú ý. Nhưng chúng ta thì sao? Một đợt ném bom ở Tel Aviv có thể giết chết một phần tư dân số đất nước - có thể còn nhiều hơn”. “Ông cần tôi ngăn chặn thảm họa này à? Tôi nghĩ hiện nay Văn phòng đang được quản lý bởi những người thật sự có tài”. “Mọi chuyện rõ ràng đã tốt đẹp hơn sau khi Lev bị buộc thôi việc. Amos là một nhà lãnh đạo và điều hành xuất chúng, nhưng đôi khi tôi nghĩ ông ấy còn quá nhiều phẩm chất một người lính”. “Ông ta là lãnh đạo của cả Lực lượng Đặc nhiệm Sayeret Matkal và Aman. Ông mong chờ điều gì?” “Chúng tôi biết chúng tôi sẽ được gì với Amos, nhưng bây giờ Thủ tướng và tôi lo rằng ông ta đang cố biến đại lộ King Saul thành tiền đồn của IDF 1. Chúng tôi muốn Văn phòng trở về với đặc tính ban đầu của nó”. “Điên rồ à?” “Táo bạo”, Shamron phản bác lại. “Liều lĩnh. Tôi chỉ ước rằng Amos suy nghĩ ít giống một vị chỉ huy quân đội một chút và giống một…”. Giọng ông nhỏ dần khi đang cố tìm từ thích hợp. Khi đã tìm ra, ông xoa hai ngón tay vào ngón tay cái và nói. “Giống một họa sỹ hơn. Tôi cần một người bên ông ấy suy nghĩ giống Caravaggio”. “Caravaggio là một kẻ điên”. “Chính xác”. Shamron bắt đầu châm một điều thuốc khác, nhưng lần này Gabriel thành công trong việc giữ tay ông lại trước khi ông kịp với tới chiếc bật lửa. Shamron nhìn anh, ánh mắt bỗng trở nên nghiêm túc. “Chúng tôi cần cậu bây giờ, Gabriel ạ. Cách đây hai tiếng, thủ lĩnh Lực lượng Đặc nhiệm đã nộp đơn từ chức cho Amos”. “Tại sao?” “Luân Đôn”. Shamron nhìn xuống bàn tay đang bị giữ lại. “Cho phép tôi rút tay về chứ?” Gabriel thả cổ tay dầy thịt của Shamron ra. Shamron lăn điếu thuốc chưa châm giữa ngón cái và ngón trỏ. “Chuyện gì đã xảy ra ở Luân Đôn?” Gabriel hỏi. “Tôi e rằng chúng ta có tai nạn ở đó tối hôm qua”. “Tai nạn à? Khi Văn phòng có tai nạn, thường sẽ có ai đó có kết cục xấu”. Shamron gật đầu xác nhận. “Cái tên Ali Massoudi có ý nghĩa gì với cậu không?” “Ông ta là Giáo sư có tiếng tại trường đại học ở Đức”, Gabriel đáp lại. “Thích đóng vai đả phá những tín ngưỡng lâu đời và vai người cải cách. Tôi đã gặp ông ta một lần”. Cặp lông mày Shamron nhướng lên ngạc nhiên. “Vậy à? Ở đâu?” “Cách đây vài năm ông ta đến Ý tham gia hội nghị lớn về Trung Đông. Trong khoản tiền được cấp khi tham dự hội nghị có chi phí tham quan một vòng thành phố. Một trong những điểm dừng chân là nhà thờ Thánh Zaccaria nơi tôi đang phục chế bức trang trí sau bàn thờ của Bellini”. Gabriel đã sống và làm việc vài năm ở Venice dưới tên Mario Delveccio. Sáu tháng trước anh bắt buộc phải rời bỏ thành phố sau khi bị một trùm khủng bố người Palestine tên Khaled al-Khalifa khám phá ra thân phận thật của mình. Vụ này đã chấm dứt tại ga Lyon, và hậu quả sau đó là tên và quá khứ bí mật của Gabriel xuất hiện trên khắp báo chí Pháp và châu Âu, trong đó có bài viết nói anh là “Thiên Thần Chết Chóc của Israel”. Anh vẫn đang bị cảnh sát Paris truy nã để hỏi cung, và nhóm quyền dân sự người Palestine đã nộp hồ sơ kiện anh ở Luân Đôn cáo buộc tội ác chiến tranh. “Cậu thực sự đã gặp Massoudi à?”. Shamron hỏi với vẻ không tin. “Cậu đã bắt tay hắn à?” “Dĩ nhiên là dưới lốt Mario Delveccio”. “Tôi cho rằng cậu không biết mình đang bắt tay một tên khủng bố”. Shamron đưa thuốc lên môi và bật hộp quẹt. Lần này Gabriel không ngăn cản. “Cách đây ba tháng chúng tôi nhận được lời khuyên từ một người bạn tại tổ chức GID 1của Gioócđan, là Giáo sư Ali Massoudi, nhân vật ôn hòa và cải cách vĩ đại đó, thực chất là trinh sát tài ba của al-Qaeda. Theo người Gioócđan, hắn ta đang tuyển mộ người tấn công các mục tiêu Israel và Do Thái ở châu Âu. Các cuộc hội thảo về hòa bình và các cuộc biểu tình chống Israel là địa bàn săn mồi ưa thích nhất của hắn. Chúng tôi cũng không ngạc nhiên về điều này. Chúng tôi đã biết các cuộc hội thảo về hoà bình là nơi gặp gỡ của các gián điệp al-Qaeda và những kẻ quá khích châu Âu của cả cánh tả và cánh hữu. Chúng tôi quyết định hành động khôn ngoan là nên theo dõi Giáo sư Massoudi. Chúng tôi nghe trộm điện thoại trong căn hộ tại Bremen của ông ta, nhưng kết quả thu được rất đáng thất vọng. Ông ta rất cẩn thận khi nói chuyện điện thoại. Khoảng một tháng sau, trạm Luân Đôn đã cung cấp một thông tin rất kịp thời. Dường như bộ phận Văn hóa của Đại sứ quán ở Luân Đôn được yêu cầu cử một người quan trọng đi dự diễn đàn Chính sách về Hoà bình và An ninh ở Palestine, Irắc và những nước khác. Khi bộ phận yêu cầu cung cấp danh sách những người tham dự, cậu đoán tên ai xuất hiện trên danh sách?” “Giáo sư Ali Massoudi”. “Bộ phận Văn hóa đồng ý cử đại diện tham dự hội thảo, còn Lực lượng Đặc nhiệm đưa Massoudi vào tầm ngắm”. “Lực lượng Đặc nhiệm dự định làm gì?” “Đơn giản thôi”, Shamron nói. “Bắt quả tang ông ta. Thỏa hiệp với ông ta. Đe dọa ông ta. Thuyết phục ông ta hợp tác. Cậu hình dung được không? Với một nhân viên như Massoudi được cài trong bộ phận nhân sự al-Qaeda. Với sự giúp đỡ của Massoudi, chúng ta có thể lật tung mạng lưới ở châu Âu của chúng lên”. “Thế chuyện gì đã xảy ra?” “Chúng ta đã dùng mĩ nhân kế đối với Massoudi. Cô ta tự xưng là Hamida al-Tatari. Nhưng tên thật cô ta là Avita, đến từ Ramat Gan, tuy nhiên chuyện này không liên quan đến việc đã xảy ra với Massoudi. Cô ta gặp Massoudi tại tiệc chiêu đãi. Massoudi bị thu hút và đồng ý sẽ gặp cô ta tối hôm đó để thảo luận thêm về tình trạng hiện tại của thế giới. Chúng ta đã cho người theo dõi Massoudi sau phiên cuối của cuộc hội thảo, nhưng dường như Massoudi phát hiện ra có người theo đuôi mình nên bắt đầu chạy. Ông ta nhìn sai hướng khi băng qua đường Euston và bước ra ngay trước đầu xe tải chở hàng”. Gabriel nhăn mặt. “May mắn là chúng ta không ra về tay trắng”, Shamron nói. “Người theo dõi lấy được cặp của Massoudi, trong đó có máy tính xách tay. Dường như Giáo sư Ali Massoudi còn hơn là một người phát hiện mục tiêu tài năng”. Shamron đặt hồ sơ trước mặt Gabriel, và gật đầu ra hiệu cho Gabriel mở ra xem. Bên trong anh nhìn thấy nhiều xấp ảnh: quảng trường Thánh Peter từ một tá góc nhìn khác nhau; mặt ngoài và bên trong đại thánh đường; đội cận vệ Thụy Sĩ đang đứng gác tại Vòm Chuông (the Arch of Bells). Rõ ràng những bức ảnh này không do một du khách bình thường chụp, bởi vì người chụp ảnh không chú ý nhiều đến vẻ đẹp tòa thánh Vatican mà chú ý nhiều hơn đến những biện pháp an ninh xung quanh nơi này. Có một số tấm chụp những chướng ngại vật dọc theo rìa tây quảng trường và những chiếc máy dò kim loại dọc theo những hàng cột của Bernini - và thêm vài tấm chụp đội canh gác và cảnh sát đi tuần dọc theo quảng trường khi có tụ tập nhiều người, cả những hình chụp cận cảnh vũ khí đeo bên người. Ba tấm hình cuối chụp Giáo hoàng Paul VII đang chào đám đông ở quảng trường Thánh Peter trong chiếc xe bọc kính. Ống kính không được chĩa vào Đức Cha thiêng liêng mà hướng vào những cận vệ Thụy Sĩ mặc thường phục đi bên cạnh xe ông. Gabriel nhìn lại những tấm ảnh. Dựa vào chất lượng ánh sáng và quần áo những người hành hương mặc, có thể thấy những bức ảnh được chụp trong ba dịp. Anh biết, cách giám sát bằng ảnh nhiều lần với cùng một mục tiêu cho thấy đây là hoạt động nghiêm túc của al-Qaeda. Anh đóng tập hồ sơ và đưa trả Shamron, nhưng Shamron không đưa tay nhận, Gabriel nghiên cứu khuôn mặt của ông với vẻ tập trung như đã nhìn những bức ảnh. Anh có thể thấy vẫn còn tin xấu sắp được tiết lộ. “Bộ phận kỹ thuật còn tìm thấy thứ khác trên máy tính xách tay của Massoudi”, Shamron nói. “Những hướng dẫn vào tài khoản ngân hàng đánh số ở Zurich - tài khoản chúng ta đã chú ý một thời gian vì nhận được tiền chuyển thường xuyên từ một tổ chức được gọi là Ủy ban Giải phóng al-Quds”1. “Ai đứng tên tài khoản này?”. Gabriel hỏi. “Arập Xêút”, Shamron nói. “Cụ thể hơn, Bộ trưởng Nội vụ Arập Xêút, Hoàng tử Nabil”. Trong Văn phòng, Hoàng tử Nabil thường được nhắc tới bằng biệt hiệu Hoàng tử Bóng đêm vì sự căm ghét của ông ta đối với Israel và Mỹ cũng như sự ủng hộ đối với những người Hồi giáo hiếu chiến. “Nabil thành lập ủy ban lúc cao trào cuộc nổi dậy lần hai”, Shamron tiếp tục. “Ông ta tự mình gây quỹ và đích thân giám sát việc đóng góp. Chúng tôi tin rằng ông ta hiện có một trăm triệu đô-la tự do sử dụng, và đang tài trợ cho một vài nhóm khủng bố bạo lực nhất trên thế giới, trong đó có các phần tử al-Qaeda”. “Ai cho Nabil tiền?” “Không giống như những tổ chức từ thiện khác của Arập Xêút, Ủy ban Giải phóng as-Quds có khá ít nhà tài trợ. Chúng tôi nghĩ Nabil quyên tiền từ một vài triệu phú người Arập Xêút”. Shamron nhìn chăm chú tách cà phê của mình một lúc. “Từ thiện”, ông nói, giọng khinh miệt. “Tên gọi mỹ miều nhỉ? Nhưng từ thiện ở Arập Xêút luôn là con dao hai lưỡi. Liên đoàn Thế giới Hồi giáo, tổ chức Cứu trợ Hồi giáo Quốc tế, tổ chức Hồi giáo al-Haramayn, tổ chức Từ thiện Quốc tế - chúng có vai trò với Arập Xêút giống như Quốc tế Cộng sản III đối với Xô Viết cũ. Thật ra chúng đều là những phương tiện tuyên truyền Hồi giáo. Nhưng chúng lại không tuyên truyền tất cả các loại Hồi giáo mà chỉ chú ý đến nhánh Hồi giáo Hồi giáo Thanh Giáo của Arập Xêút và chủ nghĩa Wahhabi. Các tổ chức từ thiện xây nhà thờ và trung tâm Hồi giáo trên khắp thế giới, và những học viện Hồi giáo huấn luyện những chiến binh Wahhabi tương lai. Những tổ chức này cũng đưa tiền trực tiếp cho bọn khủng bố, trong đó có những người bạn Hamas của chúng ta. Các cỗ máy của Hoa Kỳ chạy nhờ dầu của Arập Xêút, còn mạng lưới khủng bố Hồi giáo toàn cầu hoạt động phần lớn nhờ tiền của Arập Xêút”. “Từ thiện là lời răn thứ ba của Hồi giáo”, Gabriel nói. “Zakat”. “Đó là phẩm chất cao quý”, Shamron nói, “nếu không bị rơi vào tay những tên sát nhân”. “Ông có nghĩ mối ràng buộc giữa Massoudi và những người Arập Xêút còn mật thiết hơn mức tiền bạc không?” “Chúng ta sẽ không bao giờ biết được vì vị Giáo sư vĩ đại đã không còn tồn tại trên thế giới này nữa. Nhưng rõ ràng người mà ông ta làm việc cho đang nhắm tới Vatican - và một ai đó cần cảnh báo với tòa thánh”. “Tôi ngờ rằng ông đã hình dung ra người thích hợp cho công việc này”. “Cậu hãy xem đây là nhiệm vụ đầu tiên của đội trưởng Lực lượng Đặc nhiệm”, Shamron nói. “Thủ tướng muốn cậu nhận nhiệm vụ. Ngay lập tức”. “Còn Amos thì sao?” “Amos định giao nhiệm vụ này cho người khác, nhưng Thủ tướng và tôi đã lật bài ngửa với ông ta rằng chúng tôi muốn cậu làm công việc này”. “Hồ sơ cá nhân tôi đã dính quá nhiều xì căng đan. Và thật không may là cả thế giới giờ đây đều đã biết chuyện này”. “Vụ ga tàu Lyon à?”. Shamron nhún vai. “Cậu đã bị một đối thủ khôn khéo lừa vào vụ đó. Hơn nữa tôi luôn quan niệm rằng một sự nghiệp không có xì-căng-đan thì đó không phải là một sự nghiệp lớn. Thủ tướng cũng có cùng quan điểm này với tôi”. “Có lẽ do bản thân ông ta cũng dính vào vài vụ rắc rối”. Gabriel thở ra nặng nề rồi nhìn những bức hình lần nữa. “Có nhiều rủi ro khi gửi tôi đến Rome. Nếu người Pháp biết được tôi đang ở trên đất Ý…“ “Cậu không cần phải đến Rome”, Shamron cắt ngang. “Rome sẽ tìm cậu”. “Donati à?” Shamron gật đầu. “Ông đã kể với ông ta những gì?” “Đủ khiến ông ta phải hỏi Alitalia để mượn máy bay trong vài tiếng”, Shamron trả lời. “Ông ấy sẽ có mặt ở đây vào sáng sớm mai. Hãy cho ông ấy xem những bức hình. Hãy nói với ông ta những gì cần thiết để ông ấy biết rằng chúng ta nghĩ mối đe dọa là có thật”. “Nếu ông ta yêu cầu giúp đỡ thì sao?” Shamron nhún vai. “Hãy cho ông ấy những gì ông ấy cần”. Chú thích 1. Lực lượng phòng thủ Israel. 2. Cục tình báo Giáo hoàng