Mê Thần Ký

Chương 2

Học đường nằm trong “Tiềm Long trai” không xa bên hành lang mé tây. Ngay mặt có một cánh cửa sơn đỏ thắm, trên cửa sổ có khắc hình hoa hướng dương, giữa các ô cửa được khảm vò sò đã mài nhẵn sáng loáng, ánh dương mùa đông rọi vào sáng lấp lánh. Từ khe cửa sổ dọc hành lang ngắm ra, mấy cây ngô đồng khoác trên mình lớp áo tuyết thưa thớt đứng vững chãi trong gió đông giữa sân viện, phía xa xa là mép hồ uốn quanh. Những chỗ này đương nhiên Lưu Tuấn chưa từng tới, nhưng xem ra Tử Hân cũng chẳng quen thuộc lắm. Đi vào gian phòng rộng thoáng, hai đứa tìm một cái bàn rồi ngồi xuống. Lưu Tuấn lấy bút mực ra khỏi bọc vải, bày ngay ngắn lên bàn. Tử Hân ngồi im lặng một bên, trước mặt chẳng có gì cả. Mấy đứa con trai đang nô đùa giữa sân, chợt thấy một lão nhân mình vận áo dài thong thả từ cổng viện đi vào, ho khan một tiếng, chúng lập tức ùa vào trong nhà ào ào như bày ong, ai nấy đều nhanh chóng tìm chỗ của mình mà ngồi xuống. Lê tiên sinh bước vào trong phòng, ngồi trên chiếc thái sư kỷ, lưng thẳng tắp, tay vuốt vuốt chòm râu dê, nhắm mắt dưỡng thần, đợi tiếng ồn ào lắng hẳn mới từ từ mở mắt ra, hỏi: “Đều đến đủ cả rồi chứ?” “Đủ rồi ạ”, một đứa con trai đáp. “Buổi đầu tiên lên lớp, không vội học chữ, nói quy củ trước. Phàm đã vào con đường học tập qua sách, trước phải học tu thân, sau là học khống chế tâm tính. Phải hiểu việc phụng thờ cha mẹ, giao tiếp xung quanh rồi mới có thể thấu đạt lý lẽ, tường tận ngọn nguồn. Điều này các ngươi có hiểu được không?” Đám trẻ ngồi dưới đồng thanh đáp: “Hiểu ạ!”. Lê tiên sinh gật đầu, tiếp tục nói: “Đã làm người, đầu tiên phải giữ gìn phong tư đoan chính. Y phục, giày tất, lúc nào cũng phải thu dọn sạch sẽ. Con trai có ba việc phải kỹ càng: Đã làm lễ Gia quan[1] thì phải chít khăn, chưa làm lễ Gia quan thì phải búi tóc… không được để đầu tóc rối bù, đây là kỹ càng về đầu tóc. Thắt lưng phải quấn chỉnh tề, không được lỏng lẻo, đây là kỹ càng về lưng eo. Giầy tất phải buộc chặt, không được để tuột ra, đây là kỹ càng về chân. Tóm lại, áo mũ không được thùng thình. Thùng thình ắt thân thể lỏng lẻo không nghiêm trang ắt dễ bị người khác khinh thường coi rẻ.” [1] Thời cổ, con trai cứ đến hai mươi tuổi là làm lễ Gia quan (đội mũ), biểu thị đã trưởng thành. Nói xong một tràng, bên dưới lập tức dấy lên một trận ồn ào, nào là buộc đầu tóc, thắt dây giày, chỉnh đai lưng, thứ nào cũng có. Lê tiên sinh mặt mày lạnh tanh quét mắt nhìn đám trẻ nghiêng ngả, chân tay luống cuống trước mặt, hắng giọng, nói tiếp: “Là người làm con, làm em, nói năng thì phải nhỏ nhẹ, thưa thốt từ tốn rõ ràng, không được cao giọng to tiếng ồn ào, nói cười buông thả. Cha anh bề trên có điều gì dạy bảo, phải biết cúi đầu lắng nghe, không được tùy tiện nghị luận. Bề trên có gì sai lầm, không thể cứ vạch ra rạch ròi, nên tạm thời ‘ậm ừ’, sau này từ từ lựa dịp thưa bẩm lại. Giữa bạn bè với nhau cũng nên như thế”. Lưu Tuấn thì thầm hỏi: “Thế nào là ‘ậm ừ’?”. Tử Hân đáp: “Ý là ngậm miệng không nói gì”. “Phàm việc đi đứng, ắt phải ngay ngắn, phải ôm tay áo thong thả đi, không được bước vội chạy nhảy. Nếu là phụ mẫu bề trên cho gọi, thì phải nhanh chóng tới diện kiến, không được lề mề. Vái nhau ắt phải khom lưng, đối với phụ thân, bề trên, bằng hữu thì phải tự xưng tên; xưng hô với bề trên không được gọi tên tự; có khách thì không được ngồi chính sảnh, lên cầu thang không được đi mé đông, không được lên xuống ngựa trước sảnh, phàm là việc gì cũng không được tự tiện không hỏi ý phụ thân.” “… Theo hầu bên cạnh bề trên, nói năng phải nghiêm chỉnh, hai tay phải chắp vào, lời thực mà thưa, không được nói xằng nói bậy. Cùng bề trên ra ngoài, đi ắt phải đi bên phải, dừng ắt phải đứng bên trái. Ăn uống thì nhai nhẹ ăn chậm, không được phát ra tiếng nhai nuốt. Mở cửa vén mành thì phải từ từ nhẹ tay, không được mạnh tay gây ồn… Đi nhà xí phải cởi áo ngoài; đi xong thì phải rửa tay, không có đèn nến thì không được đi. Đêm ngủ phải dùng gối không lấy áo ngủ chùm đầu…” Vô cùng vô tận quy củ cứ như nước suối chảy không bao giờ dứt tuôn ra từ miệng Lê tiên sinh. Đám học trò nhẫn nại lắng nghe hơn nửa canh giờ đã mê muội mệt mỏi tới buồn ngủ, chợt lại nghe Lê tiên sinh nói: “Mấy quy củ này mới chỉ là mở đầu, ta đã sao cho mỗi trò một cuốn sách nhỏ, đợi chút nữa tan học, các trò về nhà phải chăm chỉ ôn tập, học cho thuộc quy củ hôm nay ta giảng. Ngày mai ta hỏi từng thứ một, đáp không được thì… khà khà!”, đám trẻ trong lòng lạnh toát, đang lúc sợ hãi lại nghe cây thước gõ xuống bàn bang bang hai tiếng khiến cả đám toát hết mồ hôi, bây giờ mới biết ngoại hiệu “dạ xoa mặt dài” các vị đàn anh lớp trên đặt cho vị Lê tiên sinh này đúng là không hề nói quá. “Bây giờ chúng ta học cách vái chào. Triệu Thanh Thuần, trò lên đây”, Lê tiên sinh đứng dậy, đi ra trước thềm, quay mặt về đám học trò, nghiêm túc vái một cái rồi gọi học trò tới phỏng theo. Ai ai cũng phải đứng dậy, chắp vái như bái Phật, nghe Lê tiên sinh chỉ dạy, chỉnh sửa: “Hai chân phải đứng rộng một chút, như thế mới đứng vững được. Lúc khom lưng, mắt phải nhìn xuống giày của mình, dáng vẻ nghiêm nghị mới là đẹp. Lúc vái xuống, gối phải thẳng, không được co gập. Đối với người địa vị tôn quý thì tay vái phải quá gối rồi sau đó tay theo người đứng thẳng lên. Đúng rồi, chính là như thế…”. Đưa mắt nhìn, cả đám trẻ con đang lụp sụp vái nhau, duy chỉ có Mộ Dung Tử Hân vẫn một mình ngồi đó, không động đậy gì, thờ ơ nhìn mọi người, bộ dạng như không có gì liên quan tới mình. Lê tiên sinh nghiêm mặt, vẻ uy nghiêm trong mắt phóng ra bốn phía, trầm giọng hỏi: “Tử Hân, sao trò không học?” Từ Hân chống nạng chật vật đứng dậy, qua loa vái một cái rồi lại ngồi xuống. “Làm lại”, Lê tiên sinh lạnh lùng nói: “Nếu đứng trước mặt trò là hoàng đế, trò cũng tùy tiện khinh mạn thế sao?”. Thoáng cái, tất cả mọi người đều dừng lại, mười mấy cặp mắt nhìn chằm chằm vào thằng bé. Tử Hân đành nghiêm chỉnh vái một lần nữa, trong lúc luống cuống gập lưng hơi quá, lập tức đầu nặng chân nhẹ, đánh “uỵch” một tiếng rồi ngã xuống mặt đất. Mặt nó vốn đã vừa xanh lại sưng, trông rất buồn cười, lần này ngã bộ dạng lại càng buồn cười hơn. Một vài đứa trong đám học trò đứng xem bên cạnh đã không nhịn nổi mà ha ha cười thành tiếng. “Cười cái gì mà cười! Nếu như người ngã đó là cha là anh các ngươi, các ngươi cũng cười như thế hả?” Lê tiên sinh quát một tiếng, đám trẻ sợ hãi lập tức im phăng phắc. Lưu Tuấn vội vàng cúi xuống đỡ Tử Hân dậy, Tử Hân lại tránh tay nó, nhẹ giọng bảo: “Để tự ta”. Nói xong, nó tự mình chầm chậm bò dậy, ngồi lên ghế, phủi phủi mấy hạt bụi bám trên áo, cả khuôn mặt xanh xao, cúi đầu không nói năng gì. Thời gian còn lại của buổi lên lớp là dạy về sớm khuya thăm hỏi, thỉnh an như thế nào, phụng sự cha mẹ ra sao, chăm sóc đau ốm thế nào, một mạch cho tới mài mực, cầm bút ra sao, viết chữ kiểu gì… hết thảy, Tử Hân đều không để vào tai, trong lòng chỉ thấy tiếng cười nhạo của mọi người cứ vọng đi vọng lại hết lần này tới lần khác. Khó khăn lắm mới đợi được cho tới lúc tan học, nó im lặng trở về, dọc đường bất luận Lưu Tuấn có pha trò thế nào nó vẫn im lặng không nói nửa lời. Đến ngã rẽ, hai đứa chia tay, nó tự mình đi thong thả men theo hành lang dài, lúc sắp tới cửa phòng mình chợt có đôi tay lành lạnh che mắt nó, một giọng nói ngọt ngào vang lên từ sau lưng: “Sớm thế này đã tan học rồi à?” Tử Hân dừng bước, nói: “Tan rồi”. “Không trốn học đấy chứ? Trông đệ, cái gì cũng không mang theo, đâu có giống một học trò lên lớp?”, người đang nói là một cô bé mắt to tròn, mái tóc dày, lúc cười đôi mắt long lanh, hai viên đá quý trên chiếc khuyên tai tròn cũng đinh đinh đang đang theo tiếng cười. Tâm tình Tử Hân không tốt, chẳng buồn nói gì, cô bé kia lại cứ cuốn lấy nó, hỏi: “Đệ vẫn chưa nói cho ta hôm qua rốt cuộc là ai đánh đệ? Là Tiểu Hổ phải không? Hay là Tiếu Kim Tử? Đệ nói đi chứ! Đệ không nói, ta làm sao tính sổ giúp đệ đây?”. “Không phải, mà cũng chẳng làm sao cả”, nó lại thở dài một tiếng. Cô bé lại hỏi: “Sao hôm nay đệ cứ thở dài mãi thế? Lên lớp không vui à?”. “Không phải.” “Ăn cơm chưa?” “Không muốn ăn”, nó đi vào phòng, ngồi lên giường. “Đệ không thèm để ý đến ta, ta đi chơi đây.” “Đi đi.” “Ta đi chơi, đệ giúp ta trông Đường Hành một lát được không?” Tử Hân tức tối kêu lên: “Tỷ, tỷ chớ có quấy rầy đệ nữa có được không?”. Đang nói, bỗng một đứa bé trai mặc áo đỏ tóc búi chỏm từ trong phòng chạy vụt ra, trông thấy Tử Hân bèn gọi toáng lên: “Tử Hân ca ca! Tử Hân ca ca! Đệ nhớ huynh chết đi được, huynh có nhớ đệ không?”. Nói xong, nó tháo giày trèo lên giường ôm lấy cổ Tử Hân. Tử Duyệt vội nói: “Đường Hành ngoan, ca ca hôm nay không thoải mái, đệ phải ngoan ngoãn đừng có chọc giận ca ca nghe chưa. Căn phòng này cũng lớn, đệ tự mình chơi ở đây đi, có điều này, đừng đụng vào con cá vàng bảo bối của ca ca. Tối nay cha đệ sẽ tới đón đệ.” Đường Hành chớp chớp mắt, từ trên giường nhảy lên người Tử Duyệt, ôm lấy mặt cô bé hôn loạn cả lên, thoáng cái nước mũi, nước bọt đã bôi đầy mặt cô bé. Hai tay Đường Hành bám lấy vai Tử Duyệt, trèo leo như chú khỉ trên người cô bé, thì thầm nói: “Tử Duyệt tỷ tỷ thật là thơm, đệ theo tỷ đi chơi được không? Đệ nhất định sẽ ngoan ngoan, việc gì cũng nghe lời tỷ. Thật đấy!”. “Không được, không được, hôm nay tỷ có việc cực kỳ quan trọng phải làm, đệ đi theo chỉ tổ làm loạn… Cứ ở lại đây được rồi!” Tử Duyệt thành thạo đi giày cho Đường Hành, thằng bé lập tức chạy vụt vào thư phòng tìm tranh vẽ. Cánh cửa nhẹ nhàng khép lại, căn phòng đột nhiên tối sầm, lúc này Tử Hân mới nhớ tới ngọn đèn sáng nay đã thổi tắt lúc ra khỏi cửa, ngọn đèn duy nhất đã thắp sáng thì lại bị Đường Hành mang vào trong phòng rồi. Vài tia sáng len qua rèm cửa sổ lọt vào, lẻ loi chiếu trên bình hoa cao hơn nửa thân người đặt bên cạnh phi trạo[2]. Miệng bình mạ vàng lập tức phản chiếu lại ánh kim lóa mắt. [2] Phi trạo: Một bộ phận trang trí trong kiến trúc truyền thống Trung Quốc, thường được đặt giữa xà và cột. Tử Hân vội vàng nhắm mắt, lại nhớ tiếng cười của đám con trai, giọng hà khắc của Lê tiên sinh cho tới bộ dạng nhếch nhác của bản thân lúc bị ngã trong Tiềm Long trai. Khi ấy nó ngã không đau lắm, nhưng lúc bò trên mặt đất, nó có thể tưởng tượng ra mười mấy cặp mắt đằng sau lưng đang nhìn chằm chằm vào mình như thế nào. Nó còn nhỏ, tự nhiên cứ thế mà tiến vào kiểu suy lý phức tạp khúc chiết “ta nghĩ ngươi hẳn đang nghĩ là nó đang nghĩ rằng ta đang nghĩ…” thường thấy trong thế giới loài người. Giữa hai cái “ta” kia có thể tự do thêm vào vô số nhân xưng với phán đoán. Rốt cuộc, chẳng ai biết được ai đang nghĩ về ai. Việc duy nhất không sai vào đâu được là, vào lúc ấy, bụi bặm trên sàn cứng có vị chua đến lạ. Sàn gạch sạch bóng mà lạnh lẽo, bốn cạnh có trạm khắc những bông hoa mai với dây leo tinh tế. Vạt áo dưới của Lê tiên sinh có một miếng vá khuất mắt, phủ lên đôi giày bông vải xanh đế dày nửa mới nửa cũ. Nó còn phát hiện chân của lão tiên sinh rất nhỏ, giày cũng rất hẹp, thật không tương xứng với thân hình dong dỏng cao gầy của tiên sinh ấy. Nếu không phải là mối nhục nhã kia cứ dâng lên cổ họng, hay vị chua chua cứ hết lần này tới lần khác khuấy ký ức lên khiến nó không lắng xuống nổi thì đây vốn cũng là một ngày bình thường. Có điều, bởi vì việc đó, thế giới đã hoàn toàn thay đổi, trở nên nhạt nhẽo vô vị. Tử Hân nằm yên trên giường không động đậy, trừng mắt nhìn trần nhà trang trí theo kiểu hải mạn thiên hoa[3], cảm thấy mọi thứ xung quanh cứ quay vòng vòng. [3] Hải mạn thiên hoa: Một kiểu trang trí truyền thống của Trung Quốc, trần nhà trạm trổ hình hoa theo hàng. Nó bỗng bắt đầu đếm tuổi của mình, bắt đầu tính toán phải bao nhiêu năm nữa nó mới chết đi. Đang nghĩ ngợi lung tung, nó chợt ngửi thấy có mùi khói khét. Ngẩng đầu nhìn, nó phát hiện trong thư phòng có khói dầy đặc bay ra, tiếp đến là tiếng “loảng xỏang”, Đường Hành chạy ra, miệng kêu thất thanh: “Tử Hân ca ca! Tử Hân ca ca!”. Tử Hân với nạng đi qua đấy, trông thấy mấy cuốn sách trên bàn đã cháy một nửa, còn may Đường Hành kịp thời dội nước nên không đến mức xảy ra cháy lớn. “Đệ… lúc nãy đệ xem sách… xem không rõ mới bỏ cái lồng đèn ra. Sách ở gần lửa quá thế là cháy… cháy bùng lên”, Đường Hành sợ lửa, thấy Tử Hân chạy lại liền chạy tới ôm chân nó, núp sau lưng nó. “Được rồi, không cháy to là tốt rồi”, thấy Đường Hành sợ đến mức co đầu rụt cổ, Tử Hân chẳng buồn dọa thằng bé thêm nữa, chỉ nhẹ nhàng nói. “Sách cháy hết rồi… thúc thúc có mắng huynh không?” “Không đâu. Đệ đi chỗ khác chơi đi.” Tựa như có lệnh đặc xá, Đường Hành định chạy đi thì lại bị Tử Hân túm lại: “Đệ lấy nước ở đâu?”. “Bình… bình cá.” Khuôn mặt Tử Hân méo đi, vội vàng hỏi: “Đệ nói cái gì?” “Bình cá vàng… đệ đập vỡ nó rồi. Hôm qua Tử Duyệt tỷ tỷ vừa mới kể cho đệ nghe chuyện Tư Mã Quang đập vỡ vại nước[4].” [4] Tư Mã Quang đập vỡ vại nước: Đây là câu chuyện được lưu truyền rộng rãi trong dân gian, kể rằng, thuở nhỏ Tư Mã Quang cùng mấy người bạn chơi ở sân nhà, một người bạn leo lên mép một chiếc vại lớn chứa đầy nước trong sân, nên bị ngã vào vại. Những người khác hoảng hốt lo sợ, chỉ có Tư Mã Quang là bình tĩnh, thông minh lấy một hòn đá lớn đập vỡ vại nước. Tử Hân chẳng nghĩ tới việc truy cứu nữa, cúi gập người trên đất tìm con cá vàng ấy khắp nơi. Đường Hành cũng vội vàng chui xuống dưới bàn tìm. Một lúc sau, giọng Đường Hành vui mừng cất lên: “Ở đây này! Nó vẫn chưa chết đâu!”, nói rồi bò từ gầm bàn ra, xòe tay, một con cá vàng màu đỏ rực rỡ đang há miệng cật lực hít thở. “Thế là tốt rồi!”, Tử Hân mừng rỡ nói: “Trong phòng ngủ có nước, đệ mau đem nó thả vào nước đi”. Tử Hân đi lại chậm chạp, sợ mình mà đem con cá đến được chỗ có nước thì đã muộn mất rồi. “Ừm!”, Đường Hành co chân vụt đi, bình bịch bình bịch chạy vào phòng ngủ, rồi nói vọng ra: “Tốt rồi! Đệ đã thả nó vào trong nước rồi! Tử Hân ca ca, huynh không cần lo lắng nữa.” Tử Hân thong thả bước tới, đưa mắt nhìn, hỏi: “Đệ thả con cá vào đâu rồi?”. “Trong chén trà của huynh! Trong ấy có nước!”, Đường Hành nói. Lửa giận của Tử Hân lập tức bốc cao, gào lên: “Trong chén trà là trà, không phải nước”. “Thả tạm một lúc, để con cá hít thở chút không được sao?”, Đường Hành lí nhí hỏi. “Đấy là trà nóng!”, Tử Hân nhìn con cá vàng đang quẫy quẫy tuyệt vọng, hấp hối trong chén trà, nước mắt đã dâng lên hốc mắt, nhưng nó lại ra sức ép xuống. Đường Hành nơm nớp lo sợ nhìn nó không ngừng giậm chân nổi giận, đột nhiên thò tay vớt con cá vàng trong chén trà ra, chạy về phía cửa, vừa chạy vừa nói: “Đằng trước có hồ, đệ thả nó xuống hồ là nó có thể sống được!”. “Đứng lại! Đệ không biết bơi!”, nó đuổi theo ra ngoài, Đường Hành đã vụt chạy ra ngoài trang viện, một cước đạp mở cửa lớn Trúc Ngô viện bên cạnh, chạy thẳng tới cửu khúc kiều thả con cá trong tay xuống hồ. Tử Hân thở hồng hộc chạy tới, Đường Hành cắn môi, bộ dạng nghẹn ngào nói với nó: “Đệ đã thả con cá xuống nước rồi, nó… nó vẫn cứ thế kia. Đệ thấy nó sắp chết mất rồi”. Trên mặt hồ màu lục sẫm, băng mỏng bắt đầu tan, bên dưới lan can bạch ngọc, một con cá vàng màu đỏ rực rỡ đã nổi lềnh phềnh, miệng chậm chạp đóng mở, thân thể tròn vo nghiêng hẳn về một bên, hình như đến chính con cá cũng chẳng biết làm thế nào để bản thân nổi lên nữa, chỉ dùng đôi mắt tuyệt vọng nhìn hai người đang trù trừ trên bờ. Được một lúc, miệng con cá không cử động nữa. Nó giống như một đóa hoa rụng lững lờ vô định, mặc sóng nước dập dềnh. Tử Hân vịn lan can, tìm một cành cây khều vớt con cá vàng, lấy khăn tay bọc nó lại, để vào túi của mình. “Xin lỗi…”, trên lông mày của Đường Hành mới chỉ có một lớp lông tơ mỏng mỏng, lúc nhíu đầu mày hơi đỏ lên: “Tử Duyệt tỷ tỷ nói huynh thường nói chuyện vơi chú cá ấy, thật thế à?”. Tử Hân chẳng đáp đúng hay không, chỉ buồn bã nói: “Tên nó là Tiểu Hoan”. “Huynh không để nó chết dưới hồ, lẽ nào định chôn nó?” “Không”, nó nhìn về nơi xa xăm, thở dài một tiếng: “Ta sẽ đem nó theo bên người”. “Huynh… huynh muốn đem nó nấu thành cá kho?”, Đường Hành kéo kéo góc áo nó, run giọng hỏi. “Không.” “Nó… nó sẽ trở nên rất khó ngửi đấy.” “Nếu đệ đã thích một thứ gì đó, bất kể nó biến thành bộ dạng thế nào, đệ sẽ vẫn thích nó.” … Mỗi khi đi vào chính sảnh rộng rãi sáng sủa của Tiềm Long trai, nghe tiếng cười đùa của đám hài đồng vô tư bên trong, Tử Hân lại vô duyên vô cớ cảm thấy lạc lõng, cảm thấy bản thân không hề thuộc về nơi này, cảm thấy chẳng ai quan tâm đến mình, cảm thấy một ngày dài tựa một năm. Đám trẻ kia thật ra có quá nửa quen biết nó nhưng lại rất ít đứa trò chuyện với nó, cho dù có là khách khí chào hỏi thì đại khái cũng là nể mặt Tử Duyệt. Nó biết đám trẻ con trong cốc cũng phân làm mấy phái, mỗi phái đều có thủ lĩnh cũng như trò chơi đặc biệt của riêng mình. Nó rất tự giác tránh qua một bên, mở sách giả bộ như đang đọc, kỳ thực trong lòng đều là tiếng cười đùa vui vẻ của bọn trẻ con kia. Mấy trò chơi đó, trước giờ nó chưa từng tham gia nên cũng chẳng biết trò nào. Chuyện duy nhất nó thích làm chính là đợi tới khi đám trẻ hai phái đột nhiên hục hặc với nhau rồi đánh nhau loạn cả lên thì sẽ nhảy vào cấu xé, kể cả có bị đứa khác đánh cho mặt mũi sưng vù, nó vẫn cứ vui thích không thôi. Sau khi đi học, những vụ đánh lộn như thế dần dần ít đi. Bọn trẻ con trong học đường hình như chỉ sau có một đêm đều đã biến thành nho nhã lịch sự hết cả rồi. Những trò ném đá, bắn chin, ném tuyết, cưỡi ngựa gỗ, đào giun, bơi lội bắt cá không còn được ưa thích nữa, thay vào đó là chọi dế, chơi cờ năm quân, vẽ chiến mã trường mâu, võ sĩ giáp trụ. Nơi vui chơi chuyển từ mặt đất lên bàn. Đại phu trong cốc toàn là người đọc sách cả, cứ dến dịp ngày nghỉ nhàn rỗi, họ liền đưa con cái tới hội chợ, hội giảng luận. Đến ngày xuân còn đội mũ trúc, thắt khăn, đeo giày ôm bàn cờ đi chơi xa chốn núi non. Thảm lông hươu được trải xong, người lớn thì đấu thơ, chuyện trẻ con làm được chẳng qua là mấy việc lặt vặt như thu thập thẻ thơ, sắp xếp giấy tờ, phân phát vận bài, chuyển chén rượu. Một tháng nay đã học xong Thiết vận, liền học sang điền thơ làm văn, bắt đầu không ngoài Lý, Đỗ, Hàn, Liễu mấy vị danh gia nổi tiếng thời Thịnh Đường. Lê tiên sinh sớm đã soạn xong giáo trình, sau khi học Tứ Thư sẽ giảng tớiHiếu Kinh, tiếp đến lần lượt là Dịch, Thư, Thi, Lễ cho tớiXuân Thu Tam Truyện. Tám tuổi vào học, giảng xong hết những thứ ấy, tuổi đã sang mười lăm. Từ đấy về sau, thú chơi đã chuyển từ trên bàn vào đầu. Cứ nghĩ tới vẫn còn phải ở cùng Lê tiên sinh thêm bảy năm nữa, Tử Hân cảm thấy đầu to như cái đấu. Đôi mắt lạnh lùng uy nghiêm của Lê tiên sinh tựa hồ luôn cố ý vô tình xét nét nó. Cho dù có ngồi ở hàng sau cùng, Tử Hân vẫn có thể cảm thấy ánh mắt của lão tiên sinh như kiếm sắc xuyên qua mấy đứa ngồi trước mặt đâm thẳng vào tim mình. Lúc như thế, nó sẽ giả vờ như không thấy, nghiêng đầu nhìn bức hoành cũ treo trên tường: “Trúc mật sơn trai lãnh, Hà khai thủy triển hương. Sơn hoa lâm vũ tịch, Thủy ảnh chiếu ca sàng”[5] (Trúc rậm sơn trai lạnh, Sen khai nước đượm hương. Sơn hoa lân chiếu múa, Bóng nước ánh sàng ca.) [5] Trích bài Phụng họa Giản Văn đế sơn trai thi của Từ Lăng (507 - 583), thi nhân, nhà văn thời Nam Bắc triều, Trung Quốc. Bốn hàng chữ viết theo lối Triệu thể này khỏe khoắn mà sáng sủa, an nhàn, chặt chẽ cẩn thận theo đúng chuẩn mực. Nhìn thật kỹ, trong nét bút liền mạch đẹp đẽ lại có thêm mấy phần thướt tha mềm mại. Đang mải trầm tư, bỗng thấy có bóng người phía sau tiến tới, Tử Hân vội quay đầu nhìn, trông thấy Lê tiên sinh đã đứng ngay cạnh, khuôn mặt nghiêm lại hỏi: “Những chữ ấy viết rất khá, phải không?”. “… Vâng.” “Đấy là chữ phụ thân trò viết lúc bằng tuổi trò bây giờ đấy.” Lại nữa rồi. Tử Hân thầm nhủ trong lòng, bất kể là việc gì, Lê tiên sinh cũng phải đem Tử Hân so sánh với Mộ Dung Vô Phong rồi nhân đó dạy bảo giáo huấn một tràng dài. Phụ thân trò là thần đồng. Phụ thân trò nghe hiểu nhớ kỹ, thấy là không quên. Phụ thân trò bốn tuổi học y, sáu tuổi khám bệnh, mười tuổi làm chủ y đường, mười lăm tuổi viết sách, mười bảy tuổi lừng danh thiên hạ. Phụ thân trò… “Bạch!”, quăng cuốn vở tập chữ tới trước mặt nó, Lê tiên sinh nói: “Đây là chữ trò viết, tự mình nhìn chữ trên tường mà ngẫm nghĩ xem, có còn đắc ý được không?”. Tử Hân cúi đầu yên lặng. “Sau khi tan học, đem chữ trò viết ra cho phụ thân trò xem, bảo phụ thân trò ký vào, ngày mai sửa lại cho tốt rồi nộp lên. Nếu vẫn viết không ra gì sẽ phạt trò mỗi chữ chép năm trăm lần. Trò đã rõ chưa?”. “Vâng.” Mấy lần đầu lão tiên sinh giáo huấn nó, nó vẫn mặt mũi đỏ phừng phừng, mồ hôi đẫm lưng, hận không thể nổi cơn tam bành. Về sau bị giáo huấn nhiều rồi, Tử Hân hoặc cúi đầu vâng dạ, hoặc im lặng không cãi, tan lớp, thu dọn sách vở, ra về đầu tiên. … Năm nay mùa xuân tới cốc đặc biệt sớm. Trận tuyết cuối cùng rơi hết thì lập tức chuyển nắng mười ngày liền, cứ thế cho tới thời tiết cây cỏ đâm chồi, hoa núi nở khắp, oanh kêu yến hót, liễu rủ phất phơ. Đi qua cửa hoa, vòng hết một dải lan can sơn đỏ ngăn ngắn, lại len qua mấy trăm cây trúc cao gầy, nó trông thấy bóng áo trắng quen thuộc trong tiếu đình chỗ cầu cửu khúc. Trong lòng nó ấm lại, bước vội tới đó, suýt nữa bị bụi cây kim ngân xanh mướt bên đường níu ngã. Đây là lần đầu tiên sau cả ngày hôm nay Tử Hân gặp phụ thân. Giống như bình thường, phụ thân thích ngồi yên lặng trong đình ngắm mặt hồ mà suy nghĩ. Bóng lưng người vẫn cứ hao gầy nhưng luôn thẳng tắp, khói trà bốc lên từ trong lò hồng thành dải màu trắng nhàn nhạt, lơ lửng trong không gian rồi bị gió mát lay động, từ từ tan đi mất tăm mất tích mà hòa vào trời nước biếc xanh. “Cha!”, bước chân của nó có chút loạng choạng, tiếng gọi vang vọng trong một vùng trời nước mênh mông nghe cực kỳ nhỏ bé mà lẻ loi. Nhưng rõ ràng phụ thân nó đã nghe thấy có tiếng động đằng sau, bèn quay người lại, nói: “Tử Hân”. Trong mắt chàng ấm áp nét cười, trông thấy dáng đi tập tễnh gắng sức của con trai, ánh mắt bỗng thoáng hiện nét ưu sầu: “Không phải vội, cứ thong thả mà đi”. Tới bên cạnh phụ thân, Tử Hân bỏ nạng ra, xoay mình trèo lên người Mộ Dung Vô Phong, ngồi sát vào chàng. Mộ Dung Vô Phong ôm lấy nó, ang áng trọng lượng rồi nói: “Ừm, mấy tháng không gặp, con nặng thêm mấy cân rồi đấy”. “Mẹ nói con lại cao thêm một tấc rồi.” “Chân có còn đau không?” “Không đau lắm.” “Ừ, thế thì tốt”, Mộ Dung Vô Phong gật đầu. Tử Hân vùi đầu vào lòng phụ thân, rồi bất chợt kéo kéo tay áo Mộ Dung Vô Phong. “Nói xem, lại nghịch ngợm gì rồi?”, Mộ Dung Vô Phong xoa đầu con, từ tốn hỏi. Lo lắng rút cuốn vở nhỏ bị vò tới nhăn nhúm ra, Tử Hân nói: “Chữ con tập viết kém, Lê tiên sinh muốn phụ thân người xem qua rồi ký vào”. Phụ thân đang phê duyệt y án, bút nghiên hãy còn ở ngay cạnh. Nhìn phụ thân đón lấy cuốn vở nhỏ, tim Tử Hân đập thình thịch, bất tri bất giác khuôn mặt đã đỏ bừng bừng. Mộ Dung Vô Phong xem một lượt từ đầu tới cuối, rồi viết sáu chữ vào cuối cùng “Đã xem, Mộ Dung Vô Phong”, sau đó trả lại cho nó: “Cầm lấy đi”. Thấy phụ thân không nói năng gì, Tử Hân lại đâm ra lo lắng, cắn môi, cân nhắc một lúc mới lắp bắp nói: “Cha à… con… con viết chữ không đẹp”. Mộ Dung Vô Phong nhẹ giọng nói: “Không phải vội”. “Con làm toán… cũng không tốt.” “Không phải vội.” “Sách phải học thuộc, con nhớ mãi không được.” “Không phải vội.” Vặn vẹo trên người phụ thân một lúc, Tử Hân đưa mắt nhìn ra xa, thấy trong đám cỏ dưới rặng liễu rủ ven bờ hồ đầy những bông bồ công anh cao thấp chen nhau, bèn hỏi: “Cha à, tại sao đám bồ công anh kia có cây cao cây thấp?”. Trong ký ức non nớt của Tử Hân, không có vấn đề gì có thể làm khó được phụ thân. Quả nhiên, Mộ Dung Vô Phong cười nói: “Bồ công anh nhất định phải vươn cao hơn cỏ xung quanh, như thế gió mới có thể đem hạt giống của nó thổi tới nơi khác. Cỏ xung quanh cao thấp không giống nhau, bồ công anh cũng tự nhiên có cao có thấp.” Ngừng giây lát, chàng lại thêm một câu: “Tương lai con lớn lên rồi cũng giống như bồ công anh, phải nghĩ cách vươn cao hơn cỏ vây xung quanh mới được”. Tử Hân bật cười hì hì, cảm thấy rất thú vị, hỏi tiếp: “Cha, vậy ai là cỏ của con?”. Mộ Dung Vô Phong cười nhẹ: “Ta”. Đứa bé sáu tuổi như hiểu như không, gật đầu, rồi lại theo thói quen cắn móng tay. “Không được cắn móng tay”, Mộ Dung Vô Phong cầm tay con rút ra khỏi miệng. Được một lúc, Tử Hân lại cắn móng tay. Thói quen của con trẻ thời kỳ này, chàng thế nào cũng không sửa được. Chơi đùa bên phụ thân một lúc, lấy bút vẽ mấy chú cá nhỏ, đưa cho phụ thân xem xương con cá vàng cất trong túi thơm, rồi lại uống mấy ngụm trà, nó chợt cảm thấy cơn mệt mỏi ùa đến, bèn trèo lên người phụ thân ngả đầu ngủ. Trong lúc nó ngủ, Mộ Dung Vô Phong lại rút tay con khỏi miệng một lần nữa rồi thở dài một tiếng. Đằng sau bỗng vang lên tiếng y phục sột soạt, một tiếng cười dịu dàng vang lên: “Con khỉ nhỏ này lại tới quấn lấy chàng rồi”. Hà Y đặt một bát canh xuống bàn, vươn tay ôm lấy Tử Hân: “Thằng nhóc này nặng thêm không ít, thiếp đưa nó về giường ngủ đây.” Một lúc sau nàng quay trở lại ngồi xuống bên Mộ Dung Vô Phong, nói: “Vừa rồi gặp Lê tiên sinh, ông ấy lại nghiêm khắc nói Tử Hân một trận. Thằng bé này cả ngày tâm trí lơ đãng, viết chữ không đâu vào đâu… Phạt đứng cũng chẳng có tác dụng, ông ấy tức tới không biết làm thế nào, bảo chàng liều liệu mà quản giáo nó cho tốt . Mộ Dung Vô Phong chẳng hề bận tâm: “Nó còn bé, bốn tuổi mới bắt đầu nói. Bây giờ vừa mới lên sáu, có thể viết chữ đã là không tồi rồi”. “Sao chàng cứ bênh nó mãi thế?” “Mấy năm nay làm phẫu thuật cho nó đã khiến nó chịu đủ lắm rồi, nếu không phải cả ngày đau yếu, nó cũng không đến mức muộn như thế mới biết nói”, chàng cau mày, nói tiếp: “Trong lòng ta rất áy náy, không muốn hà khắc trách phạt nó. Huống chi nó đã uống quá nhiều thuốc giảm đau, cho tới tận bây giờ tinh thần vẫn chưa được ổn định, động tí là mệt mỏi đấy đều là những mối lo bất đắc dĩ về sau”. Nói tới đây, Hà Y lại thấy lo: “Thuốc chàng cho con uống sẽ không biến nó thành ngốc nghếch chứ? Sáng nay thiếp hỏi nó chín cộng sáu là bao nhiêu, nó đếm hết ngón tay của mình rồi, thấy không đủ mới hỏi tiếp: ‘Mẹ à, cho con mượn ngón tay người đếm chút được không?’, đếm mấy lượt mới trả lời thiếp, là mười lăm”. “Phụt”, ngụm trà trong miệng phun ra ngoài, Mộ Dung Vô Phong cười nói: “Thằng nhóc thật hài”. “Hồi nhỏ chắc thiếp cũng không ngốc đến thế”, Hà Y than thở. Mộ Dung Vô Phong cười khổ, qua một lúc, chợt nói: “Hà Y, nó vẫn còn một lần phẫu thuật nữa”. Sợ thê tử lo buồn, chàng lại bổ sung một câu: “Ta đảm bảo, đây sẽ là lần cuối cùng”. Hà Y bỗng ngẩng khuôn mặt trắng bệch lên, run giọng hỏi: “Bây giờ Tinh Nhi đã tốt lắm rồi, chàng tha cho nó đi!”. “Còn có thể tốt hơn nữa.” Chàng nắm lấy tay thê tử, ánh mắt kiên định: “Chúng ta không thể từ bỏ mọi cố gắng”. Trong thoáng chốc, một luồng sức mạnh vô hình từ bàn tay trượng phu truyền qua khiến trái tim âu lo của nàng bình tĩnh lại, nhưng nàng vẫn thấy bất an nhìn chàng. Bốn lần phẫu thuật cho Tử Hân đều do Mộ Dung Vô Phong tự mình cầm dao. Mỗi lần phẫu thuật, chàng đều suy nghĩ kỹ lưỡng từng chi tiết phẫu thuật, bố trí và kiểm tra tất thảy công tác chuẩn bị trước mấy chục ngày. Sau khi làm phẫu thuật, chàng sẽ hoàn toàn chăm lo việc đi đứng ăn ở của con trai. Đến cả những việc cực kỳ phí sức như băng bó, thay thuốc, ăn uống, tắm rửa, thay đồ, chàng cũng làm hết. Nhiều nhất, Hà Y cũng chỉ có thể làm trợ thủ tạm thời của chàng. Theo lời Mộ Dung Vô Phong thì chính là “Con cần phải có được sự chăm sóc chuyên nghiệp nhất thì thân thể của nó mới có thể khôi phục tới tình trạng tốt nhất”. Sau mỗi cuộc phẫu thuật, thường là nhi tử bình an hồi phục, phụ thân thì tâm lực kiệt quệ, ốm nặng một phen. “Thiếp lo cho con”, ánh mắt nàng sâu thẳm mang nét bi thương: “Cũng lo cho chàng nữa”. Nắm tay nàng vừa vững vừa chắc, Mộ Dung Vô Phong nói: “Hà Y, ta không sao”. “Chúng ta không sinh con nữa nhé?”, nước mắt nàng đột nhiên trào ra, lời bỗng không thành tiếng. “Đương nhiên”, chàng cười khổ, ôm chặt lấy vai vợ. … Vì chuyện con cái, hai người cãi nhau bao nhiêu lần, Hà Y không nhớ nổi nữa. Hồi lâu, nàng gạt nước mắt, hỏi: “Chuẩn bị bao giờ làm phẫu thuật?”. “Đầu tháng Năm, ta cần thời gian hai tháng để chuẩn bị kỹ càng mọi việc.” Cả một mùa đông, Mộ Dung Vô Phong cắm đầu đọc sách, những phiền phức của bệnh nằm liệt giường cũng như nỗi đau đớn của chứng phong thấp đều bị chàng quẳng ra khỏi đầu. Tất thảy những ghi chép về chứng bệnh, y án đều được lật lại, Hà Y hết lần này tới lần khác chạy tới tàng thư thất tìm trong đống sách vở thư tịch bệnh án chất thành núi những tư liệu mà Mộ Dung Vô Phong liệt kê ra. Có lần, đến chính bản thân chàng cũng không nén được mà than rằng: “Hà Y, bệnh của Tử Hân đã dùng hết tất cả tri thức của ta rồi”. … Lần phẫu thuật cuối cùng tuy là sự mạo hiểm trước nay chưa từng có trong cuộc đời hành nghề y của Mộ Dung Vô Phong, nhưng là một lần mạo hiểm thành công. Chàng cẩn thận từng li từng tí lấy một sợi kinh mạch còn sức sống từ chân phải của Tử Hân cấy sang cái chân trái khá mạnh khỏe của nó. Nhờ thế, cái chân trái vốn trơ trơ tê liệt dần dần khôi phục được cảm giác, cơ nhục bắt đầu sinh trưởng, xương cốt trở nên cường tráng. Cái giá phải trả là chân phải của Tử Hân hoàn toàn mất đi sức sống. Tới mùa xuân năm sau, Tử Hân chỉ cần chống trượng là có thể đi lại, so với những vất vả khó khăn ngày xưa, đây quả là một chuyển biến lớn. Mộ Dung Vô Phong vì lần này mà tâm lực tiêu hao rất nhiều, ngay hôm phẫu thuật kết thúc liền không ngừng nôn ra máu, sáu tháng liền sau đó, nhi tử đã hoàn toàn khỏe mạnh, chàng thì vẫn không rời nổi khỏi giường. Vốn cho rằng sau khi phẫu thuật, Tử Hân sẽ trở nên hoạt bát tinh nghịch, nhưng Mộ Dung phu phụ đều kinh ngạc phát hiện tính tình của nhi tử lại nghiêng theo hướng hoàn toàn tương phản. Nó càng ngày càng trầm tĩnh, càng ngày càng cả thẹn, càng ngày càng cố chấp. Sau khi không cần phải uống thuốc điều dưỡng nữa, đầu óc Tử Hân như trong sáng tỉnh táo hơn rất nhiều. Người trong Vân Mộng cốc đều nhanh chóng nhận ra, Tử Hân ít nhất có hai thứ hoàn toàn giống với phụ thân mình. Sự thông minh. Tính khí. Cái gan chống đối Lê tiên sinh của Tử Hân mỗi lúc một lớn. Lần sau chót, sau khi hai người cãi nhau to một trận, nó gào lên với lão tiên sinh: “Sao người còn chưa xuống địa ngục đi?”, Lê tiên sinh tức đến tóc tai dựng đứng, suýt chút nữa thì ngất đi, bèn đóng gói hành lý, phất tay áo mà đi. Ngày hôm ấy, Hà Y phải đích thân tới quê của Lê tiên sinh tạ lỗi. Khó khăn lắm mới mời được Lê tiên sinh quay lại, Tử Hân lại nhất quyết không chịu vào lớp một bước. Hà Y cứng mềm đều dùng nhưng chẳng có mảy may tác dụng. Cuối cùng, chỉ còn cách xuất ra sát chiêu: “Đi gặp cha con, nếu cha con đồng ý con không đi học nữa, con có thể không đi”. Cứ như thế, hè tháng Sáu năm Đinh Sửu, Tử Hân một lần nữa thấp thỏm trong lòng mà đẩy mở cánh cổng trạm khắc hoa rủ của Trúc Ngô viện. Hương thơm với những cành trúc rợp bóng đầy sân chẳng thể đem tới cho nó chút vui vẻ nào, tim nó đập như trống nhưng vẫn kiên định lòng quyết tâm. Bất kể phụ thân có tức giận tới thế nào, Tiềm Long trai ấy, nó tuyệt đối không quay trở lại nữa. Thật ra nó sớm đã từng nghe tính khí của phụ thân rất nóng nảy, chỉ là trước giờ chưa từng thấy qua phụ thân nổi giận, cũng không tưởng tượng nổi phụ thân mà nổi giận thì sẽ như thế nào, cho nên trong lòng nó vẫn ôm chút tâm lý cầu may. Mùa hè năm nay, Mộ Dung Vô Phong vẫn chưa khỏe hẳn bởi lần phẫu thuật cho Tử Hân. Tim chàng cực kỳ yếu mệt, chỉ hơi dùng sức sẽ đầu váng mắt hoa, tim đập mạnh không thôi, một ngày có tới quá nửa thời gian không thể không nằm trên giường tĩnh dưỡng. Trừ lúc phê duyệt y án, thỉnh thoảng đi tới phòng chẩn bệnh, thời gian còn lại, chàng cực kỳ ít tiếp khách. Tử Hân vén tấm rèm đi tới bên giường phụ thân, thấy người đang nửa nằm nửa ngồi, nhắm mắt dưỡng thần bền khe khẽ gọi: “Cha”. Mộ Dung Vô Phong mở mắt ra, nhìn nhi tử hỏi: “Chuyện gì vậy?”. “Từ nay về sau con… có thể không tới học đường nữa được không?”, nó dè dặt thỉnh cầu. “Hử? Hôm qua mẫu thân con đã thay con dâng lễ tạ tội với Lê tiên sinh rồi, ông ấy sẽ không trách phạt con nữa đâu”, Mộ Dung Vô Phong nhạt giọng nói. “Con không thích Lê tiên sinh.” “Không thích Lê tiên sinh?”, Mộ Dung Vô Phong hừ một tiếng, hỏi: “Vậy con thích ai?”. “Con thích theo cha”, nó nói: “Con muốn học y”. “Ừm, được rồi. Con không cần tới học đường nữa, về sau hằng ngày đến chỗ này gặp ta”, vẫn giống ngày thường, Mộ Dung Vô Phong khép hờ mắt lắng nghe rồi bình tĩnh ôn hòa đáp ứng lời thỉnh cầu của nhi tử. “Vâng, thưa cha”, Tử Hân vui mừng hân hoan: “Cha khát không? Con đi lấy chén trà cho cha”. “Cẩn thận kẻo bỏng tay.” “Không đâu”, Tử Hân cao hứng đi tới phòng trà kế bên đun nước, cẩn thận quy củ pha cho phụ thân một chén trà. Ngồi bên cạnh hầu chuyện một lúc, Mộ Dung Vô Phong nói: “Về sau, hằng ngày giờ Thìn ba khắc con tới đây, buổi sáng Nội Kinh, buổi chiều Mạch Kinh, buổi tối Bản kinh, con đọc được không?”. “Đọc được.” “Bản kinh có ba mươi mốt quyển, cứ hai ngày con học thuộc một quyển, chắc là không phải quá khó chứ?” “Cha à, con không phải thần đồng”, Tử Hân vội vàng trình bày. “Cho nên ta đã áng chừng mà giảm bớt rồi. Trước đây, mỗi ngày ta đọc thuộc một cuốn.” “Nhưng mà, cứ theo như thế, con còn có thời gian đi chơi sao?” Mộ Dung Vô Phong lắc đầu nói: “Ta nghĩ là không”. Lập tức, mỗi sợi tóc trên đầu nó đều như muốn dựng đứng lên: “Cha, con không làm được!”. “Không làm cũng phải làm, đây mới chỉ là bắt đầu”, Mộ Dung Vô Phong thản nhiên uống một ngụm trà rồi đưa một cuốn sách dày cộp cho nó: “Đây là ba quyển đầu củaBản Kinh học thuộc nửa đầu quyển thứ nhất đi, tối nay tới đây đọc thuộc cho ta nghe. Nếu có chữ nào không đọc được, tra tự điển hoặc hỏi tỷ tỷ con đều được.” Tử Hân vừa nhìn thấy cuốn sách tuy đã có chút vàng vọt cũ kỹ nhưng vẫn được giữ gìn cực kỳ chỉnh tề, bên trên sách viết tám chữ “Kinh sử chứng loại bị cấp bản thảo”, thì mới biết bản thân vừa thoát khỏi miệng hổ lại vào hang sói, so với Trúc Ngô viện thì Tiềm Long trai chính là thiên đường. Cứ như thế ủ dột cúi đầu ra khỏi cửa, trong lòng Tử Hân buồn bực khó chịu. Đứng ngẩn người ra ở hành lang một hồi, bỗng gặp một đám học trò vừa tan học đang huyên náo bên hồ nước, Lưu Tuấn thấy nó từ xa bèn chạy lại: “Tử Hân, hôm nay ngươi lại trốn học rồi!”. “Ta không tới lớp nữa, từ nay về sau ta sẽ theo phụ thân học y.” “Cha ngươi có ác không?” “Vốn dĩ cho rằng người không ác, giờ mới thấy hình như cực ác. Ngay ngày đầu đã bắt ta học thuộc một cuốn sách dày cộp rồi.” “Chuồng ngựa đang không có ai, ngươi có muốn đi xem ngựa không?”, đột nhiên Lưu Tuấn hỏi. Tử Hân nhét sách vào người, vui mừng nói: “Bọn mình cưỡi ngựa được không?”. “Cho dù không được cưỡi ngựa ra ngoài, chí ít cũng có thể ngồi trên ngựa một lúc.” Tử Hân nghe thế lòng ham chơi trào lên: “Bây giờ bọn mình đi đi!”. Hai đứa lén la lén lút mò vào chuồng ngựa, thấy vắng tanh không có ai, chỉ có mấy con tuấn mã đen tuyền đứng yên nhai cỏ. Hai đứa mới thở phào, bắt đầu trò chuyện, Tử Hân hỏi: “A Tuấn, ngươi biết xem ngựa không?”. “Sao lại không? Ngựa có ba mươi hai tướng”, vừa nhắc tới ngựa, Lưu Tuấn lập tức trở nên đắc ý, hai lúm đồng tiền trên má sâu tới mức có để để vừa nửa cái chén nhỏ: “Ba mươi hai tướng xem mắt trước. Mắt như chuông rủ, tím tươi màu, con ngươi sợi trắng (có thể phóng) năm trăm dặm. Mình đốm thì lại phải xem khác, xương sọ chúi nghiêng giống cái liềm, mũi như cốc vàng tay lọt khít. Miệng ngựa răng lợi phải ở sâu, lưỡi như kiếm nhọn màu như sen. Ăn máng thong dong cái má gọn, nuốt thì đều đặn gân rõ đường. Gáy dài như phượng ria cong cong, bờm phải mượt mềm tựa gấm lụa. Gối phải cao, móng phải tròn, thân thăng bằng, sườn phải chắc; nằm như vượn cuộn, đuôi tựa sao băng…”. Tử Hân ha ha cười lớn: “Xem ngươi bô lô ba la kìa, có nhiều điều phải chú ý thế cơ à?”. “Lại chẳng! Cha ta nói, ngựa thuộc giống hỏa, trời sinh sợ ẩm ướt. Cho nên phải nuôi ở nơi sạch sẽ khô ráo thế này. Lúc lựa ngựa, phải chọn con đầu cao đẹp, mặt gầy mà ít thịt. Tai ngựa phải nhỏ, tai nhỏ tức gan nhỏ mà hiểu ý người. Mũi ngựa phải lớn, mũi lớn tức phổi lớn mà có thể chạy khỏe. Mắt ngựa cũng phải to, mắt to ắt tim to, gặp thú dữ hay vật sắc nhọn không hoảng hốt. Ngoài ra còn phải cật nhỏ ruột dày, ngực rộng lớn, xương sườn nhiều hơn hai mươi chiếc mới là ngựa tốt đấy”, lập tức nó đọc thuộc một tràng kinh nghiệm xem ngựa, vừa nhanh vừa lưu loát, thấy Tử Hân nghe không hiểu, nó bèn lựa mấy chỗ quan trọng giải thích lại một lượt. Tử Hân vuốt ve lưng ngựa trơn bóng, nghe tới mức thích thú, than thở: “Tại sao cha ta không phải là mã phu chứ! Nếu ngày nào ta cũng được cưỡi ngựa thì vui biết chừng nào!”. “Suỵt!”, Lưu Tuấn không biết moi từ đâu ra một cái yên ngựa, nhẹ nhàng đặt lên lưng ngựa, chân giẫm tay vịn, cực kỳ nhanh nhẹn nhảy lên ngồi vững trên ngựa, đón lấy cây trượng Tử Hân đưa tới: “Ta kéo ngươi lên!”. Tử Hân tóm tay Lưu Tuấn, chật vật hồi lâu mới trèo được lên lưng ngựa, ngồi trước mặt Lưu Tuấn. Vừa hay con hắc mã ngẩng đầu quay lại, liếc mắt về phía sau, Tử Hân thất kinh, túm chặt tay Lưu Tuấn không chịu buông. “Không phải sợ, đây là con ngựa tốt hạng nhất, ngoan ngoãn hiểu ý người, tuyệt đối không dễ hoảng hốt.” “Ta sờ đầu nó thì đáng ngại không?” Tử Hân lấy can đảm vươn tay ra. “Không cần lo, ta sờ trước cho ngươi xem”, Lưu Tuấn vỗ nhẹ bờm ngựa, chú ngựa ấy ngoan ngoãn hiền thục như một cô gái, vươn đầu lên. Đôi tay bé nhỏ đang vuốt ve bờm ngựa, trong lòng sảng khoái muốn chết, bỗng thấy con ngựa run run. Tử Hân giật mình, hỏi: “Ngựa giận rồi hả?”. Còn đang nghi hoặc bỗng thấy ngoài cửa có bóng đen, Tiên Nhi tay cầm dao nấu bếp xông về phía bọn họ. Con ngựa kia tính rất linh, vừa thấy bóng dao lập tức lo lắng không yên. “Mẹ ơi!”, hai đứa trẻ trên lưng ngựa thấy Tiên Nhi hung dữ lao tới, Lưu Tuấn túm lấy dây cương ngựa, thúc chân hô: “Mau chạy đi!”. Con ngựa đó hiểu ý người, cất hai chân trước đạp tung thanh chắn rồi phóng tới nhảy vọt qua đầu Tiên Nhi chạy ra ngoài. Ai ngờ, Lưu Tuấn nhớ được việc cầm cương ngựa nhưng lại quên mở cửa chuồng ngựa. Con ngựa chỉ chạy vòng vòng trong chuồng, Tiên Nhi cầm dao đâm trúng chân ngựa. Con ngựa bị đau lồng lên, đồng thời hất mạnh hai đứa trẻ trên lưng rơi xuống! Đúng lúc ấy, cửa lớn bật mở, một bóng người lao vào, chỉ nghe thấy tiếng quát, một bàn tay to lớn nắm vững dây cương ngựa, bàn tay kia túm lấy Tiên Nhi đang cầm dao, xách lên như một chú gà. Hậu quả trực tiếp của chuyện này là Lưu Tuấn bị phụ thân đánh cho một trận ra trò. Đến tối lúc Tử Hân gặp lại nó, nó mới đưa tay cho Tử Hân xem vết roi. “Tử Hân, sau này ta không dám dạy ngươi cưỡi ngựa nữa đâu.” “Len lén cũng không được à?” Lưu Tuấn lắc đầu, mặt đầy nước mắt. “Không sao.” Lúc sắp hoàng hôn, Tử Hân bấy giờ mới hốt hoảng nhớ tới bài tập buổi tối nay phụ thân sẽ hỏi mình, sợ tới mức đến cơm cũng chẳng muốn ăn, vật vã ngồi trước đèn học thuộc Chứng loại bản thảo. Tới cuối giờ Dậu, nó cầm sách tới bên giường phụ thân, Mộ Dung Vô Phong vừa uống thuốc xong, đang ngồi tựa bên giường, thấy nhi tử bèn chỉ vào chiếc ghế bên cạnh, ý bảo nó ngồi xuống. “Học thuộc sách chưa?” “Sắp… sắp thuộc rồi.” “Sắp thuộc là ý gì?”, Mộ Dung Vô Phong nghiêm mặt. “Thuộc tới trang bảy mươi tám… chỉ có thể thuộc từng ấy.” “Đọc ta nghe xem. ‘Dùng thuốc giống như phép sắp đặt người’, tiếp đó là gì?” Tử Hân nhắm mắt, đọc rằng: “Dùng thuốc giống như phép sắp đặt người, nếu như nhiều vua mà ít bề tôi, lắm bề tôi mà ít trợ tá thì khí lực không được vẹn đủ. Nhưng cứ xem phép tiên, việc đời thì cũng không hẳn đều thế cả. Đại để là thuốc dưỡng mệnh ắt nhiều vua, thuốc dưỡng tính ắt lắm bề tôi, thuốc trị bệnh ắt nhiều trợ tá, từ việc bản tính chủ cái nào mà cân nhắc đôi đường dùng cho cẩn thận, thế mới là tốt…” Mộ Dung Vô Phong kiểm tra liền mấy trang, quả nhiên Tử Hân có thể đọc thuộc, thế rồi nhảy tới phía cuối, hỏi: “Luận ngữ có câu, Người mà không có cái tâm bền vững…”. Thì ra Tử Hân giỏi nhớ vội, mười mấy trang đầu đọc ba lượt là nhập tâm, về sau những đoạn bỏ sót ngày càng nhiều, lúc cuống lên, miệng cắn móng tay, móc ruột moi gan nghĩ ngợi hồi lâu mới lắp ba lắp bắp đáp: “Luận Ngữ có câu, người mà không có cái tâm bền vững thì không thể làm vu y[6]. Làm rõ hai phép này… không thể lấy màu mè tùy tiện làm bừa. Cho nên… cho nên… cho nên…”. [6] Thời cổ, vu y là những người dùng thuật cầu đảo để trị bệnh cho người. Mộ Dung Vô Phong hừ lạnh một tiếng, hỏi: “Cho nên làm sao?”. Bị câu hỏi của cha thúc ép, Tử Hân sợ đến mức lại nhớ ra một câu, vội đọc tiếp: “Cho nên chưa hành nghề y ba đời chưa được tự chế thuốc cho bệnh nhân uống, kẻ lịch duyệt nhiều mới thành được lương y, đấy… đấy ý chỉ công phu học tập cần phải lâu dài và sâu sắc. Lại lo những người thừa kế sách vở ngày nay… những người thừa kế sách vở ngày nay… đa phần toàn vin vào danh tiếng người xưa, không chịu chuyên tâm nghiên cứu học tập, thật đáng tiếc… thật đáng tiếc… a… ừm… thực đáng tiếc… cha, con không nhớ được nữa rồi!”. “Không thuộc thì ra ngoài hành lang học thuộc”, Mộ Dung Vô Phong lạnh lùng hỏi: “Mỗi lần Lê tiên sinh phạt con đứng bao lâu?”. “Nửa… nửa canh giờ.” “Vậy con ra ngoài hành lang đứng đi, học thuộc sách rồi lại vào đây gặp ta.” Nó chán nản “vâng” một tiếng rồi lầm lũi chậm chạp đi ra ngoài. Ra tới cửa lại bị phụ thân gọi dừng lại: “Đem nến theo. Tối nay nếu con không học thuộc được những trang còn lại thì chớ có đi ngủ nữa. Đi đi”. Nó đi ra ngoài, tụa lưng vào cột, một tay cầm nến, một tay cầm sách, bộ dáng đáng thương, ngó đông trông tây, nhìn thấy đàn kiến đang khuân mấy con ruồi, học được vài câu, đứng một tuần hương, tay cầm nến đã đau mỏi khó chịu nổi. Bộ dạng nhếch nhác này còn thảm hại hơn mười lần so với hồi ở Tiềm Long trai. Giờ mới biết cái chuyện hùng tâm vạn trượng lớn tiếng đòi học y của mình là một sai lầm lớn khôn tả. Cứ dính tới hai chữ học vấn, phụ thân ngày thường hiền từ ôn hòa lập tức biến mất vô tăm tích, tuy không có kiểu trợn mắt lớn tiếng như Lê tiên sinh nhưng cái sự hung ác nghiêm khắc không nói tình cảm thì chỉ hơn chứ tuyệt đối không kém. Trong lòng không nén được thầm kêu gào sự tính toán sai lầm của mình. Đúng lúc đang tâm phiền ý loạn, nó bỗng nghe ngoài hành lang có tiếng gọi khe khẽ: “Tử Hân”