Dêm đó, cuộc hôn nhân của chúng tôi đã thực sự bắt đầu. Dáng vẻ Matthew tự tin hơn tôi thường thấy. Những lời đối đáp sắc sảo, những hướng thay đổi bất ngờ hay các quyết định bốc đồng vẫn xuất hiện trong suốt khoảng thời gian chúng tôi bên nhau tới giờ đều đã qua. Thay vào đó, Matthew hành xử thận trọng, có chừng mực mà vẫn nguy hiểm. anh ăn thường xuyên hơn bằng việc đi săn trong thành phố và các làng lân cận. Khi cơ bắp của anh trở nên rắn chắc và mạnh mẽ thì tôi hiểu được điều Philippe đã nhận xét: không cần biết cơ bắp anh to lớn không nhưng rõ ràng con trai của ông đang gạt bỏ những nhu cầu dinh dưỡng cần thiết. một mặt trăng bạc lấp lánh còn lưu lại trên ngực tôi nơi anh đã uống máu. Nó không giống như bất kỳ vết sẹo khác trên cơ thể của tôi, nó thiếu đi lớp mô bảo vệ được tích tụ chắc chắn, định hình trên phần lớn vết thương. Matthew nói với tôi rằng hiện tượng này do một đặc tính trong nước bọt của anh có thể bọc kín vết cắn mà không để chúng lành hoàn toàn. Bằng nghi thức hút máu bạn tình tại tĩnh mạch tim của Matthew và nghi thức mới của tôi là nụ hôn phù thủy cho phép đi vào trong suy nghĩ của anh mà giờ đây cả hai âu yếm nhau sâu nặng hơn. Chúng tôi không làm tình thường xuyên mỗi lần anh vào ngủ cùng, nhưng khi chuyện đó diễn ra thì theo sau luôn là hai khoảnh khắc thiêu đốt của sự chân thật tuyệt đối không chỉ loại bỏ các lo lắng lớn nhất của Matthew về tôi: rằng các bí mật bằng cách nào đó có thể hủy hoại cả hai. Và thậm chí khi không làm tình, tôi sẽ nói chuyện cùng Matthew một cách cởi mở, thoải mái như các đôi tình nhân thường mơ ước. Sáng hôm sau, Matthew kể với Galloglass và Pierre về Benjamin. Cơn giận dữ của Gallowglass trôi qua còn nhanh hơn nỗi sợ hãi của Pierre đang ngày càng gia tăng mỗi khi có ai đó gõ cửa hoặc tới gần tôi trong chợ. Các ma cà rồng tìm ngày tìm đêm trong khi Matthew lập kế hoạch cho những chuyến đi. Tuy nhiên Benjamin không để bị tìm ra. hắn ta biến mất một cách dễ dàng. Lễ Phục sinh đến rồi đi và những kế hoạch của chúng tôi dành cho lễ hội mùa xuân của Rudolf vào thứ bảy tiếp theo đã tới buổi tổng duyệt. Ông Hoefnagel và tôi đã biến sảnh lớn của cung điện thành một khu vườn ngập tràn hoa tuy-líp nở rộ. Tôi cảm thấy sợ cung điện này với những vòm cong duyên dáng hỗ trợ cho phần mái vòng cung như những nhánh liễu. “Chúng ta nên chuyển mấy cây cam của hoàng đế vào đây thì tốt hơn,” Hoefnagel nói, ánh mắt sáng rỡ với các khả năng có thể thực hiện. “Cả mấy con công trống nữa.” Vào ngày trình diễn, người hầu mang tới tất cả đèn nến dự phòng trong cung điện và thắp sáng chúng bên trong các bức tường đá dài rộng phản quang nhằm tạo cảm giác một bầu trời đầy sao và khiến sàn nhà trải rộng ra mênh mông. Chúng tôi cũng sẽ sử dụng phần cầu thang dẫn lên nhà nguyện hoàng gia cho vở diễn. Đó là ý tưởng của Hoefnagel để tôi có thể xuất hiện trên đầu cầu thang giống như mặt trăng, trong khi Matthew vẽ lại sự thay đổi đường đi của tôi bằng chiếc thiên thể kế của Habermel. “Ngài có nghĩ chúng ta quá triết học không?” Câu hỏi vang vọng khắp căn phòng và tôi lo lắng đưa tay che miệng. “Đây là cung điện của Rudolf II,” Hoefnagel lạnh lùng đáp. “Việc như thế này chẳng có gì là quá triết học cả.” Khi các quần thần tới dự yến tiệc, họ đều há hốc mồm ngạc nhiên trước khung cảnh mà chúng tôi sắp đặt. “Họ thích đấy,” tôi thì thầm với Matthew từ phía sau cánh gà ngăn chúng tôi với đám đông. Lối vào lớn được lên lịch phục vụ món tráng miệng, còn hai chúng tôi trốn trong lồng cầu thang Hiệp sĩ đợi phần sau. Matthew tiếp tục khiến tôi chú tâm vào những câu chuyện ngày xưa, khi anh còn cưỡi ngựa lên các bậc thang đá rộng để đấu thương. Lúc tôi hỏi anh căn phòng này có thích hợp cho mục đích ấy không, anh nhướn một bên lông mày nhìn tôi. “Tại sao em nghĩ rằng chúng ta khiến căn phòng quá rộng và trần nhà quá cao? Mùa đông ở Praha lâu khủng khiếp và khiến những chàng trai kia buồn chán với vũ khí thì thật hiểm nguy. Để họ chạy nhanh còn tốt hơn là bắt đầu chiến tranh với các vương quốc láng giềng.” sự huyên náo trong căn phòng nhanh chóng trở nên inh tai, nhức óc nhờ rượu tràn trề và thức ăn thừa thãi. Khi món tráng miệng được dọn đi, Matthew và tôi di chuyển về vị trí của mình. Ông Hoefnagel đã tô vẽ vài cảnh đồng quê đáng yêu cho Matthew và miễn cưỡng cắt cử anh ngồi phía dưới một cây cam, bên trên một cái ghế đẩu được bọc-vải-dạ với ngụ ý là một hòn đá. Tôi phải đợi đến lời ám hiệu thì tiến ra khỏi cánh gà và đứng sau một cánh cửa gỗ được mở rộng hai bên, cũng được tô điểm giống một chiếc xe ngựa. “anh không dám làm em cười đâu,” tôi đe dọa Matthew khi anh hôn lên má tôi lấy may. “Em đánh cược không,” anh thì thầm đáp lời. Khi các giai điệu vang lên lấp đầy căn phòng, đám quần thần dần dần im lặng. Tới lúc cả căn phòng hoàn toàn yên tĩnh, Matthew giơ cao chiếc thiên thể kế lên vòm trời và vở nhạc kịch bắt đầu. Tôi quyết định cách tiếp cận tuyệt vời nhất tới tác phẩm đòi hỏi giảm tối thiểu hội thoại và tăng tối đa khiêu vũ. Về điều này thì chẳng ai muốn ngồi yên sau một bữa tối linh đình và lắng nghe những bài diễn văn dài dòng cả, phải không? Tôi đã dự nhiều sự kiện hàn lâm đủ để biết chuyện đó chẳng hay ho chút nào. Signor Pasetti rất vui mừng được dạy các quý bà một “điệu nhảy của các ngôi sao lang thang,” và Matthew sẽ có thứ để quan sát trong lúc chờ đợi vầng trăng yêu quý của anh xuất hiện. Những người đẹp nổi tiếng với quần áo lộng lẫy dát vàng dát bạc cùng các món trang sức tham gia vào buổi giải trí khiến vở nhạc kịch nhanh chóng chuyển thành giai điệu vở diễn tại trường học và kết thúc trước vẻ mặt hài lòng của các ông bố bà mẹ. Matthew nhăn nhó như thể anh không thể chịu đựng quang cảnh trước mặt thêm một khắc nào nữa. Khi điệu nhảy kết thúc, các nhạc công mở đường cho tôi bằng vài nhịp trống ầm ĩ và tiếng kèn trum-pét om sòm. Ông Hoefnagel đã dựng một tấm rèm trước cửa vào nhà nguyện, tôi chỉ cần đi xuyên qua nó cùng vẻ rực rỡ sáng chói như một nữ thần (mà không có hình trăng lưỡi liềm bằng vải trên đầu như trong buổi tập) và nhìn xuống Matthew đầy khao khát. anh, con người mà nữ thần ao ước, sẽ quan sát tôi chăm chú đầy say mê mà không hề chớp mắt hay nhìn ngó vào bộ ngực khêu gợi của tôi. Tôi dành một lúc để nhập vai, hít thở sâu rồi tự tin bước qua tấm rèm, cố gắng lướt đi bồng bềnh như mặt trăng. Tất cả triều thần há hốc mồm ngạc nhiên. Tôi cảm thấy hài lòng vì mình đã xuất hiện một cách thuyết phục nên nhìn xuống Matthew. Đôi mắt anh đang mở tròn xoe. Ôi, không. Tôi có cảm giác các ngón chân chạm mặt sàn nhưng khá chắc chắn rằng người tôi đang lơ lửng bên trên đó vài phân và ngày càng cao hơn. Tôi vươn tay để neo giữ bản thân bên rìa xe kéo và phát hiện một quầng sáng màu ngọc trai có thể thấy rõ đang phát ra từ làn da của tôi. Matthew đột ngột ngẩng đầu nhìn về hướng vương miện của tôi cùng hình trăng lưỡi liềm nhỏ màu bạc. Nếu không có gương thì tôi chẳng biết chuyện gì đang diễn ra nhưng tôi sợ đó là điều tệ nhất. “La Diosa!” Rudolf kêu lên và đứng bật dậy vỗ tay tán dương. “Tuyệt vời! Ấn tượng tuyệt vời!” Triều thần ngập ngừng vỗ tay tham gia. một vài người trong số họ đã trở nên nhiệt liệt. Cả căn phòng đang tập trung chú ý tới mình nên tôi cũng khẽ vỗ tay trước ngực và liếc xuống Matthew, anh đáp trả bằng ánh mắt ngưỡng mộ cùng một nụ cười ẩn ý. Tôi tập trung bản thân hạ thấp người xuống sàn để tiến tới ngai vàng của Rudolf. Ông ta đang đóng vai Zeus và sử dụng những mảnh nội thất được chạm khắc lộng lẫy mà chúng tôi tìm thấy trên gác mái của cung điện. Nó xấu xí không thể tưởng tượng nổi nhưng lại rất hợp với sự kiện này. Sung sướng thay, người tôi không còn phát sáng khi tiến tới bên hoàng đế và các khán giả đã dừng nhìn lên đầu tôi như thể nó là một cây nến thời La Mã. Tôi nhún người cúi chào. “Chào mừng La Diose,” Rudolf nói bằng giọng trầm vang với ngụ ý giống một vị thần, nhưng lại chỉ trở thành một ví dụ điển hình cho việc cường điệu hóa vai diễn. “Tôi đã yêu chàng Endymion tốt bụng,” tôi nói rồi đứng thẳng người, ra hiệu về phía cầu thang, nơi Matthew đang chìm trong một chiếc giường bằng lông tơ êm ái và giả bộ ngủ. Tôi đã tự viết những dòng thoại này. (Matthew từng đề nghị tôi nói, “Nếu ngài không đồng ý để tôi yên thì Endymion sẽ xé xác ngài ra.” Nhưng tôi đã phản bác rằng câu này chỉ thuộc về Keats.) “Chàng đang an lành trong giấc ngủ. Cho dù tôi là một nữ thần bất tử thì Endymion sẽ sớm già nua và chết đi. Tôi van xin ngài hãy khiến chàng trở thành bất tử để chàng có thể ở bên tôi mãi mãi.” “Với một điều kiện!” Rudolf hét to, hủy bỏ hình tượng một vị thần và oang oang nói bằng âm điệu bình thường. “hắn ta phải ngủ suốt quãng thời gian còn lại và chẳng bao giờ được tỉnh giấc. Có như vậy hắn mới trẻ mãi.” “Cảm tạ ngài, thần Zeus vĩ đại,” tôi cố gắng trả lời để không giống hài kịch kiểu anh. “Giờ thì tôi có thể ngắm nhìn người mình yêu mãi mãi.” Rudolf cau mày. thật tốt vì ông ta không được biên tập kịch bản. Tôi rút về phía chiếc xe và chầm chậm lui ra sau cánh gà khi các quý cô biểu diễn điệu nhảy cuối của họ. Sau khi điệu nhảy kết thúc, Rudolf dẫn theo đoàn triều thần nhảy thành vòng tròn, giậm chân thật mạnh và vỗ tay giòn vang, tưởng chừng có thể khiến mái vòm sập xuống. Nhưng điều đó cũng chẳng thể đánh thức Endymion. “Dậy thôi!” Tôi hét lên khi ngang qua anh để tới nói lời cảm ơn hoàng đế vì đã cho chúng tôi cơ hội tiếp đãi dòng dõi hoàng gia của ông. Và anh đáp trả tôi bằng tiếng ngáy diễn kịch. Nên một mình tôi tới nhún gối chào trước mặt Rudolf và phát biểu một bài diễn văn tán dương cái thiên thể kế của ông Habermel, sự sắp đặt của ông Hoefnagel và đặc biệt ca ngợi những hiệu ứng và chất lượng tuyệt vời của âm nhạc. “Ta đã được đón tiếp một cách tuyệt vời, La Diosa – nhiều hơn những gì ta mong đợi. Nàng có thể hỏi xin thần Zeus một phần thưởng,” Rudolf nói, đôi mắt ông ta lướt từ vai tới bộ ngực nhô cao của tôi. “Bất cứ điều gì nàng mong muốn. Hãy nói ra và nó sẽ là của nàng.” Những kẻ tán gẫu trong căn phòng bỗng im bặt. Giữa âm thanh yên tĩnh đó, tôi nghe thấy những lời của Abraham: Cuốn sách sẽ đến với bà chỉ khi bà yêu cầu nó. Mọi chuyện có thể đơn giản vậy sao? Endymion đã rời khỏi chiếc giường êm ái. Tôi không muốn anh cản trở mình nên đưa tay ra sau lưng và vỗ nhẹ để nhắc anh quay lại với những giấc mộng của bản thân. Triều thần cùng nín thở, chờ đợi tôi nêu tên một tước vị có thanh thế, một mảnh đất hay một tài sản bằng vàng. “Thần muốn xem cuốn sách giả kim thuật của Roger Bacon, thưa bệ hạ.” *** “cô quả là có những viên bi bằng sắt đấy,” Galloglass nói bằng giọng điệu khâm phục đầy ẩn ý khi họ trên đường về nhà. “Đừng để ý cách nói nhé.” “Tại sao chứ, cảm ơn,” tôi hài lòng đáp. “Mà nhận tiện, có điều gì xảy ra trên đầu tôi trong buổi ca kịch vậy? Mọi người cứ nhìn nó chằm chằm.” “Những ngôi sao li ti bay lên khỏi hình mặt trăng và dần biến mất. Cháu chẳng lo lắng đâu. Hình ảnh đó quá thật nên mọi người sẽ nghĩ chỉ là ảo ảnh. Gần như tất cả thành viên hoàng gia của Rudolf là con người mà.” Câu trả lời của Matthew thì thận trọng hơn. “Đừng vội thỏa mãn, mon coeur. Rudolf có thể không còn lựa chọn nào khác ngoài đồng ý trong hoàn cảnh đó, nhưng ông ta sẽ không đưa ra bản viết tay đâu. Em đang tham gia một điệu nhảy vô cùng phức tạp. Và em có thể tin chắc rằng hoàng đế sẽ muốn thứ gì đấy từ em để đáp trả việc nhìn lướt qua cuốn sách của ông ta.” “Vậy chúng mình sẽ phải chạy thật xa trước khi ông ta khăng khăng đòi điều đó,” tôi nói. Tuy vậy, Matthew nói đúng, cần phải thận trọng. Tôi đã tưởng tượng ra cả hai sẽ được mời tới xem kho báu vào ngày hôm sau trong vòng bí mật. Nhưng lời mời mãi chưa tới. Nhiều ngày trôi qua chúng tôi mới được mời dùng bữa tối tại cung điện cùng vài nhà thần học công giáo tiến bộ. Sau đó, lá thư hứa hẹn, một nhóm được lựa chọn sẽ trở lại phòng Rudolf để xem những món đồ của các tôn giáo và bí ẩn đặc biệt được bổ sung vào bộ sưu tập của hoàng đế. Trong số các vị khách có Johannes Pistorious, người đã lớn lên theo thuyết Lu-ti, cải đạo sang thuyết Can-vin và giờ trở thành một giáo sĩ Công giáo. “Chúng ta đang bị sắp đặt,” Matthew nói, hết vuốt tóc ra sau rồi lại hất ra trước. “Pistorius là một gã nguy hiểm, một kẻ thù nhẫn tâm và một phù thủy. hắn sẽ quay lại đây trong mười năm tới để nghe lời xưng tội của Rudolf.” “Có thật hắn đang được chuẩn bị để vào Đại Hội Đồng?” Gallowglass khẽ hỏi. “Chẳng sao cả,” tôi nhẹ nhàng nói. “Tuy nhiên lão ta chưa phải là thành viên Đại Hội Đồng mà là anh. Nếu hắn ta có mong muốn đó thì cũng chẳng có cơ hội nào để gây rắc rối khi anh đang quan sát chứ?” “Xuất sắc – hoặc Rudolf sẽ không yêu cầu hắn dùng bữa với chúng ta. Hoàng đế đang lôi kéo các phe tham chiến và tập trung quân đội của mình.” “Chính xác thì ông ta muốn đánh nhau vì cái gì vậy?” “Bản viết tay – và em. Gã sẽ không bỏ cuộc đâu.” “Em đã nói trước với anh rằng em không phải hàng hóa rao bán, cũng không phải chiến lợi phẩm.” “không, nhưng em đang ở vị trí không bị đòi hỏi mặc dù có liên quan tới Rudolf. Ông ta là một hoàng tử nước Áo, vua của Hungary, Croatia và Bohemia, bá tước của Moravia và Hoàng Đế La Mã Thần Thánh. Hơn nữa, ông ta là cháu họ của vua Philip Tây Ban Nha. Dòng họ Hapsburg là một gia đình hám lợi và thích đua tranh, họ sẽ không dừng lại khi chưa đạt được thứ họ muốn.” “Matthew không làm nũng đâu, thưa cô,” Gallowglass ủ rũ nói khi tôi định phản đối. “Nếu cô mà là vợ cháu thì cô đã rời khỏi Praha từ cái ngày món quà đầu tiên được gửi tới rồi.” Vì tình hình nhạy cảm nên Pierre và Gallowglass hộ tống chúng tôi tới cung điện. Ba ma cà rồng và một phù thủy gây ra nhiều làn sóng phấn khích khi chúng tôi hướng vào cái sảnh lớn mà một thời Matthew từng giúp thiết kế. Rudolf sắp xếp chỗ tôi ngồi gần ông ta và Gallowglass nhận lấy vị trí sau ghế của tôi như một người hầu lịch sự. Matthew được xếp ngồi đối diện phía cuối bàn tiệc với sự phục vụ của Pierre. Đối với một người quan sát bình thường thì Matthew đang có quãng thời gian tuyệt vời giữa đám quý bà khàn giọng và các chàng trai trẻ đang hăm hở kiếm tìm một mẫu hình hăng hái hơn hoàng đế. Tiếng cười của Gales đôi lúc trôi dạt về phía chúng tôi từ đám đông ganh đua của Matthew nhưng cũng chẳng làm tâm trạng khổ sở của bệ hạ khá hơn chút nào. “Vì dị giáo và những thứ không chính thống phải bị đánh bật hoàn toàn, thưa bệ hạ. Mặt khác, chúng vẫn luôn tìm những mảnh đất mới để sinh sôi nảy nở.” Đôi mắt sụp mí của Pistorius nhìn về phía tôi, cái liếc mắt của gã như đang thăm dò. Con mắt thứ ba của tôi mở ra và cảm thấy căm phẫn trước những nỗ lực thô lỗ của gã nhằm chiếm lấy sự chú ý của tôi, chúng tạo ấn tượng giống như phương pháp mà Champier đã thực hiện nhằm truy tìm các bí mật của tôi. Tôi bắt đầu không thích những phù thủy được hưởng nền giáo dục đại học. Tôi đặt con dao xuống và quay ra chăm chú nhìn gã. Cuối cùng Pistorius phải là người chấm dứt trước. “Phụ hoàng của ta tin rằng lòng khoan dung là cách xử sự khôn ngoan hơn,” Rudolf đáp lời. “Và người đã nghiên cứu sự khôn ngoan của người Do Thái về phép thần thông. Mà những người đàn ông của Chúa sẽ gọi là dị giáo.” Tầm nghe của Matthew không cho phép anh theo dõi sát sao cuộc hội thoại của tôi một cách mãnh liệt như Sárka truy đuổi con gà của cô nàng. anh cau mày. “Chồng tôi nói ông là một thầy thuốc, ông Pistorius.” Cuộc đàm thoại này không hề êm ái nhưng lại có mục đích riêng. “Đúng vậy, thưa bà Roydon. Hoặc đã từng, trước khi tôi chuyển mối quan tâm từ bảo quản xác chết sang cứu rỗi các linh hồn.” “Danh tiếng của cha Johannes dựa trên các phương pháp chữa trị bệnh dịch hạch,” Rudolf nói. “Tôi chỉ đơn thuần là một phương tiện thuận theo ý Chúa. Chỉ có Người mới thực là người chữa được bách bệnh,” Pistoriu khiêm tốn nói. “Trong tình yêu với chúng ta, Người đã tạo ra rất nhiều phương thuốc tự nhiên có hiệu quả thần kỳ đối với những cơ thể kém hoàn hảo này.” “À đúng rồi. Ta vẫn nhớ lời ủng hộ của ngài dành cho các viên sỏi kết tụ trong dạ dày bò như một thứ thuốc chữa bách bệnh. Gần đây ta đã gửi La Diosa một viên sỏi của mình khi bà ấy ốm.” Rudolf mỉm cười hài lòng. Pistorius đang nghiên cứu tôi. “Phương pháp điều trị của người rõ ràng là có hiệu quả, thưa bệ hạ.” “Đúng vậy. La Diosa đã hoàn toàn hồi phục. cô ấy trông rất khỏe mạnh,” Rudolf nói, môi dưới của ông ta trề ra một chút khi ngắm nghía tôi. Hôm nay, tôi mặc một chiếc váy dài đơn giản màu đen, được thêu chỉ trắng đi kèm một chiếc áo choàng nhung đen. Chiếc cổ áo xếp nếp mỏng như nhung đổ ra bên ngoài, để lộ viên hồng ngọc rực rỡ trên chiếc dây chuyền hình rồng lửa của Matthew, nó làm bộ trang phục tối tăm của tôi có chút màu sắc. Rudolf tập trung quan sát mảnh đá quý tuyệt đẹp. Ông ta cau mày và ra hiệu cho một đầy tớ. “thật khó nói rằng viên sỏi kết tụ trong dạ dày bò hay thứ thuốc trộn mật của hoàng đế Maximilian có hiệu quả hơn,” tôi nói và nhìn về phía bác sĩ Hájek cầu khẩn trong lúc Rudolf vẫn thì thầm trao đổi. Ông ta đang đánh chén món tráng miệng thứ ba, liền giật mình ho ra miếng thịt bê nhỏ vừa nuốt, Hájek có vẻ xoay xở được với tình hình này. “Tôi tin là nhờ thứ thuốc trộn mật, bác sĩ Pistorius ạ,” Hájek thừa nhận. “Tôi đã chuẩn bị nó trong một chiếc cốc làm từ sừng của loài ngựa một sừng. Hoàng đế Rudolf tin rằng điều đó giúp gia tăng hiệu quả.” “La Diosa cũng uống thuốc trộn mật từ chiếc thìa làm bằng sừng nữa,” Rudolf nói, đôi mắt liếc thật lâu trên môi tôi, “để thêm chắc chắn.” “Chiếc cốc và thìa đó sẽ là một trong những vật đặc biệt ta được xem tối nay trong phòng báu vật của người phải không, thưa bệ hạ?” Pistorius hỏi. Bầu không khí giữa tôi và gã phù thủy kia đột ngột kêu lách tách rạn nứt. Các sợi tơ bao quanh gã thầy-thuốc-giáo-sĩ kia nổ bung ra thành màu đỏ hung tợn và màu cam bạo lực, cảnh báo tôi về mối nguy hiểm. Sau đó hắn mỉm cười. Ta không tin ngươi, đồ phù thủy, hắn thì thầm trong đầu tôi. Cũng không tin gã sẽ-là nhân tình của ngươi, hoàng đế Rudolf. Món lợn rừng ngon lành tôi đang nhai được thêm nếm chút lá hương thảo và hạt tiêu đen mà theo hoàng đế là được đun cùng máu, ngay lập tức như trở thành rác trong miệng tôi. Thay vì đem lại cảm giác ngon miệng, nó khiến máu tôi lạnh giá. “Có chuyện gì không ổn sao?” Gallowglass thì thầm và cúi thấp xuống vai tôi. Cậu ta đưa tôi một chiếc khăn quàng nào đó mà tôi không hề biết. “Pistorius đã được mời lên tầng xem cuốn sách,” tôi quay đầu về phía cậu ta và nói bằng thứ tiếng anh tốc độ để giảm thiểu nguy cơ bị nghe hiểu được. Gallowglass có mùi muối biển và bạc hà, một sự kết hợp giữa chắc khỏe và vững dạ. Nhờ đó, thần kinh của tôi trở nên vững tâm hơn. “Để đó cho cháu,” cậu ta đáp lại và siết lấy vai tôi. “Còn nữa, cô đang hơi tỏa sáng đó, thưa cô. Tốt hơn hết là không một ai được trông thấy các ngôi sao tối nay.” Sau khi đã bắn lời đe dọa sang tôi, Pistorius chuyển hướng cuộc đối thoại về chủ đề khác, hứa hẹn sẽ nổ ra một cuộc tranh luận sôi nổi với bác sĩ Hájek về phương pháp điều trị của thuốc mỡ tiêu độc. Rudolf chia thời gian làm hai nửa, lúc thì trộm nhìn tôi với vẻ u ám, lúc thì thoáng liếc qua Matthew. Càng gần tới lúc chúng tôi được nhìn thấy Ashmole 782, tôi càng ít ngon miệng hơn, nên quyết định quay sang trò chuyện đôi chút với các quý phu nhân bên cạnh. Cuối cùng bữa yến tiệc kết thúc sau khoảng năm lượt thức ăn, bao gồm một buổi diễu hành đám công mạ vàng và một hoạt cảnh thịt lợn nướng đi kèm thịt lợn sữa. “Em có vẻ nhợt nhạt,” Matthew nói, thoăn thoắt đưa tôi rời khỏi bàn. “Pistorius điều tra em.” Gã này nhắc tôi nhớ tới Peter Knox và Champier bởi các lý do tương tự. ‘Du côn trí tuệ’ là lời miêu tả hoàn hảo nhất cho tất cả bọn họ. “Gallowglass nói sẽ lo việc đó.” “Thảo nào Pierre theo chân cậu ta.” “Pierre sẽ làm gì?” “Để đảm bảo Pistorius toàn mạng mà ra khỏi đây,” Matthew phấn khởi nói. “Nếu để mặc Gallowglass thì cậu ta sẽ siết cổ gã và ném vào Stag Moat để sư tử ăn vặt lúc nửa đêm. Cậu cháu trai của anh bảo vệ em chẳng kém gì anh đâu.” Rudolf mời các vị khách đi cùng mình vào phòng riêng bên trong: phòng trưng bày riêng mà Matthew và tôi đã ngắm bức tranh trang trí sau bàn thờ của Bosch. Ottavio Strada gặp chúng tôi tại đó để dẫn đi tham quan qua bộ sưu tập và trả lời các câu hỏi. Khi chúng tôi tiến vào căn phòng, bức tranh trang trí sau bệ thờ của Matthew vẫn đặt chính giữa chiếc bàn bọc-vải-màu-xanh-cây. Rudolf đã sắp đặt rải rác các vật khác xung quanh để chuyến tham quan của chúng tôi thêm thú vị. Trong lúc các vị khách còn ồ à quanh bức tranh của Bosch thì tôi đảo mắt lướt qua căn phòng. Vài cái chén làm bằng đá quý khá ấn tượng, một sợi dây chuyền tráng men dùng trong dịp lễ, một cái sừng dài được cắt ra từ ngựa một sừng, mấy bức tượng và một quả hạt chạm khắc theo lối Seychelles, sự hòa trộn tuyệt vời giữa sự đắt tiền, khả năng chữa bệnh và vẻ kỳ lạ. Tuy vậy chẳng có bản viết tay giả kim thuật nào. “Nó đâu rồi?” Tôi hỏi Matthew, trước khi anh kịp trả lời, tôi đã cảm thấy một bàn tay ấm áp chạm lên cánh tay mình. Matthew bỗng cứng đờ. “Ta có quà cho nàng, puerida diosa.” Hơi thở của Rudolf đẫm mùi hành tây cùng rượu vang đỏ, ngay lập tức, dạ dày của tôi chao đảo phản đối mùi này. Tôi quay người, mong chờ được trông thấy Ashmole 782. Nhưng thay vào đó, hoàng đế giơ ra chuỗi vòng tráng men. Tôi chưa kịp từ chối thì ông ta đã quàng nó qua đầu tôi và đặt trên hai vai. Tôi nhìn xuống, trông thấy một con rắn ngậm đuôi màu xanh treo trên chuỗi chữ thập đỏ, được đính dày đặc ngọc lục bảo, hồng ngọc, kim cương và ngọc trai. Màu sắc lấp lánh của nó nhắc tôi nhớ tới viên đá quý ông Maisen đã cho Benjamin. “Món quà đó tặng cho vợ thần có phần kỳ lạ thưa bệ hạ.” Matthew nhẹ nhàng nói. anh đang đứng ngay sau hoàng đế và nhìn vào sợi dây chuyền bằng vẻ mặt khó chịu. Đây là sợi dây chuyền thứ ba của tôi theo cùng một kiểu và tôi biết hẳn phải có một ý nghĩa nào đó đằng sau biểu tượng này. Tôi nâng vòng tròn con rắn ngậm đuôi lên để nghiên cứu lớp tráng men. Nó không hẳn là một con rắn ngậm đuôi bởi nó có chân, giống như một con thằn lằn hay rồng lửa hơn là rắn. một chữ thập đỏ đẫm máu nổi lên trên phần da lưng của con thằn lằn. Quan trọng hơn nữa, chiếc đuôi không được ngậm vào miệng mà vòng quanh họng con thằn lằn và thắt cổ nó. “Đây là dấu hiệu của sự tôn trọng, ông Roydon.” Rudolf nhấn mạnh cái tên một cách tinh tế. “Sợi dây này từng thuộc về vua Vladislaus và đã được truyền cho bà của ta. Biểu tượng này thuộc về một hội các hiệp sĩ người Hungary dũng cảm được biết đến như Dòng tu Diệt Rồng.” “Rồng ư?” Tôi yếu ớt thốt lên, vội nhìn sang Matthew. Với những cái chân ngắn bè bè, đây có lẽ đúng là một con rồng. Nhưng mặt khác nó tương đối giống gia huy của nhà de Clermont – ngoại trừ con rắn đang chết dần chết mòn trong đau đớn. Tôi nhớ tới lời thề của Herr Fuchs – sẽ tàn sát những con rồng bất cứ đâu hắn tìm thấy chúng. “Rồng tượng trưng cho kẻ thù của chúng ta, đặc biệt những kẻ mong muốn can thiệp vào các đặc quyền của hoàng gia.” Rudolf nói bằng một giọng điệu bài ngoại, nhưng thực tế nó là lời tuyên chiến đối với toàn bộ gia tộc de Clermont. “Ta sẽ rất vui nếu lần tới bà đeo nó vào triều.” Ngón tay Rudolf chạm nhẹ vào con rồng trên ngực tôi và nấn ná ở đó. “Vậy là bà có thể để mấy con kỳ giông Pháp nhỏ bé này ở nhà rồi.” Ánh mắt Matthew vẫn gắn chặt vào con rồng và ngón tay của vị hoàng đế, tối sầm lại khi Rudolf nhấn mạnh lời nhạo báng về những con kỳ giông Pháp. Tôi cố gắng suy nghĩ giống Mary Sidney để tìm một lời đáp vừa thích hợp với thời điểm này lại vừa có thể làm chàng ma cà rồng bình tĩnh lại. Tôi sẽ xử lý với cảm giác bị lăng nhục nữ quyền sau vậy. “Thần có đeo món quà của người hay không đều tùy thuộc vào phu quân của thần, thưa bệ hạ,” tôi lành lạnh đáp, buộc mình tránh xa khỏi ngón tay của Rudolf. Tôi nghe thấy những tiếng thở hắt, vài tiếng xì xào thì thầm. Nhưng phản ứng duy nhất tôi quan tâm là của Matthew cơ. “anh không thấy có lý do nào em không nên mang nó cho tới hết buổi tối hôm nay, mon coeur,” Matthew trả lời vẻ tán thành. anh không còn quan tâm chuyện đại sứ của nữ hoàng nước anh lại nghe giống một quý tộc Pháp. “Xét cho cùng, kỳ giông và rồng đều là họ hàng thân thích. Cả hai đều sẽ chịu tôi luyện trong lửa để bảo vệ những gì chúng yêu. Và hoàng đế thật độ lượng sẽ cho em xem cuốn sách của ngài.” Matthew nhìn quanh. “Mặc dù có vẻ như Signor Strada vẫn tiếp tục thiếu năng lực, vì cuốn sách vẫn không có ở đây.” một cây cầu khác cháy lên phía sau chúng tôi. “Chưa được, chưa được,” Rudolf thăm dò nói. “Ta còn một thứ nữa để tặng La Diosa. Hãy đến xem quả hạch đào được chạm khắc đến từ Maldives. Nó là món độc nhất vô nhị đấy.” Mọi người ngoại trừ Matthew đều lũ lượt tuân theo đi về hướng Strada chỉ. “Cả ông nữa, Herr Roydon.” “Dĩ nhiên rồi,” Matthew lẩm bẩm đáp, bắt chước giọng điệu của mẹ anh một cách hoàn hảo. anh chậm rãi thủng thẳng theo sau đám đông. “Ta đã đặc biệt yêu cầu vài thứ ở đây. Cha Johannes đã giúp đỡ tìm về vật báu này.” Rudolf nhìn quanh phòng nhưng chịu chết không thấy Pistorius đâu. Ông ta cau có. “Signor Strada, ông ấy đâu rồi?” “Thần đã không thấy ông ấy kể từ lúc chúng ta rời khỏi Đại Sảnh, thưa bệ hạ,” Strada trả lời. “Ngươi!” Rudolf chỉ vào một tên hầu. “đi tìm ông ấy ngay!” Người đàn ông chạy đi ngay lập tức. Hoàng đế thu lại vẻ điềm tĩnh và chuyển sự chú ý sang món đồ lạ lùng trước mặt chúng tôi. Nó trông giống một tác phẩm chạm khắc thô tục về một người đàn ông khỏa thân. “La Diosa, đây là một cái nam căn trong truyền thuyết của xứ Eppendorf. một thế kỷ trước, một phụ nữ đã đánh cắp cây chủ được hiến cho các thánh trong nhà thờ và trồng nó dưới ánh sáng trăng tròn để làm tăng thêm sự màu mỡ cho khu vườn của bà ta. Sáng ngày hôm sau họ phát hiện ra một cây bắp cải khổng lồ.” “Mọc ra từ cây chủ ư?” Chắc chắn trong quá trình chuyển ngữ vài thứ đã bị lược mất, nếu không thì tôi chắc mình đã cực kỳ hiểu sai bản chất bữa Tiệc Thánh của Cơ Đốc giáo. Cây Dianæ là một chuyện. Cây brassicæ lại hoàn toàn khác. “Đúng thế. Đó là một điều kỳ diệu. Và khi cây bắp cải được đào lên, bộ rễ của nó có hình dạng tương tự cơ thể của Chúa.” Rudolf giơ thứ đó ra cho tôi xem. Nó được đội một cái mũ miện bằng vàng khảm ngọc trai. Có lẽ cái đó đã được thêm vào sau. “Tuyệt diệu,” tôi nói, cố gắng nhìn và nói một cách thích thú. “Ta muốn bà thấy nó một phần vì nó tương tự một bức tranh trong cuốn sách bà đề nghị xem. Tìm Edward đi, Ottavio.” Edward Kelley bước vào, ôm chặt cuốn sách bọc da vào ngực. Ngay khi vừa trông thấy nó, tôi đã biết. Cả cơ thể tôi đang râm ran nhức nhối khi cuốn sách còn trên đường băng qua căn phòng. Sức mạnh của nó như có thể sờ thấy được – còn mạnh hơn nhiều so với lúc nó ở Bodleian vào cái đêm tháng Chín đã khiến cả cuộc đời tôi thay đổi. Đây chính là cuốn cổ thư thất lạc của Ashmole – trước khi nó thuộc về Elias Ashmole và trước khi nó mất tích. “Bà sẽ ngồi đây với ta, chúng ta cùng nhau xem cuốn sách này.” Rudolf ra hiệu về phía cái bàn và hai chiếc ghế được sắp đặt theo kiểu mặt đối mặt. “Đưa ta cuốn sách nào, Edward.” Rudolf chìa tay ra, và Kelley miễn cưỡng đặt cuốn sách vào tay hoàng đế. Tôi chiếu một ánh mắt thăm dò nhìn Matthew. sẽ ra sao nếu cuốn cổ thư bắt đầu phát sáng như hồi ở Bodleian hay hành xử một cách lạ lùng theo cách nào đó? Còn nếu tôi không thể ngăn tâm trí mình khỏi băn khoăn thắc mắc về cuốn sách hay các bí mật của nó thì sao? một phép thuật bột phát lúc này cũng sẽ là tai họa. Đây là lý do chúng ta ở nơi này, cái gật đầu tự tin của anh ngụ ý đáp lại. Tôi ngồi xuống cạnh hoàng đế, Strada dẫn các cận thần quanh phòng hướng tới chỗ bộ sừng kỳ lân. Matthew vẫn lảng vảng gần hơn. Tôi nhìn chằm chằm vào cuốn sách trước mặt mình, thật không dám tin giây phút này đã đến khi tôi cuối cùng sẽ được thấy Ashmole 782 trọn vẹn và hoàn toàn. “Thế nào?” Rudolf hỏi. “Bà sẽ mở nó ra chứ?” “Tất nhiên rồi,” tôi đáp, kéo cuốn sách lại gần hơn. không có ánh sáng lấp lánh phát ra từ các trang sách. Để so sánh, tôi đặt cả bàn tay lên bìa một lúc, y như tôi đã làm khi tìm được Ashmole 782 từ kho sách thư viện. Khi đó nó đã thở dài lúc nhận ra tôi, như thể đã chờ đợi tôi xuất hiện từ rất lâu rồi. Còn lần này cuốn sách vẫn nằm im lìm. Tôi lật mở tấm bảng gỗ được ẩn trong lớp bọc bao bên ngoài bìa trước, để lộ ra trang giấy da trắng trơn. Tâm trí tôi chạy đua hồi tưởng lại những gì mình đã thấy vài tháng trước. Đây là trang giấy mà trên đó Ashmole và cha tôi một ngày nào đó sẽ viết tựa đề cho cuốn sách. Tôi lật qua trang đó và cảm nhận được cùng cái cảm giác nặng nề kỳ lạ trước đây. Khi trang sách mở hẳn ra, tôi thở hổn hển. Trang sách đầu tiên bị mất của Ashmole 782 là bức hình minh họa rực rỡ vẽ một cái cây. Thân cây vặn thắt và khúc khuỷu, dày dạn nhưng uốn quanh co. Các cành cây tỏa ra trên đỉnh, vặn xoắn rẽ ngoặt tỏa ra khắp trang giấy, điểm kết thúc là những tán lá, trái chín đỏ tươi, và những bông hoa cùng kết hợp lại. Nó giống cây Dianæ mà Mary đã dùng máu của Matthew và tôi để tạo nên. Khi cúi người xuống gần hơn, hơi thở của tôi nghẹn lại nơi cuống họng. Thân cây này không phải được làm từ gỗ, nhựa cây, và vỏ cây. Nó được tạo ra từ hàng trăm xác người – một số thì quằn quại trong đau đớn, một số lại bình thản ôm chặt người lại, những kẻ khác thì đơn độc và sợ hãi. Ở cuối trang sách, được viết tay vào cuối thế kỷ mười ba, là tựa đề do Roger Bacon đặt: Bí Mật thật sự của Các Bí Mật. Cánh mũi Matthew phập phồng như thể anh đang cố nhận diện một mùi hương. Cuốn sách có một mùi kỳ lạ – cùng cái mùi ẩm mốc mà tôi đã thấy lúc ở Oxford. Tôi giở sang trang. Đây là bức hình đã được gửi cho cha mẹ tôi, nó được ngôi nhà Bishop cất giữ suốt nhiều năm trời: phượng hoàng đang che chở hôn lễ hóa học dưới đôi cánh của nàng, trong khi các con thú thần thoại và thuộc về hóa học chứng kiến cho sự kết hợp liên minh giữa Mặt Trời và Mặt Trăng. Matthew có vẻ bị sốc, lúc này anh đang nhìn trừng trừng vào cuốn sách. Tôi cau mày. anh vẫn đang ở quá xa không thể thấy nó rõ ràng. Điều gì làm anh ấy kinh ngạc đến thế? Tôi mau chóng lật qua bức tranh hôn lễ hóa học. Trang sách thứ ba bị mất hóa ra là hình hai con rồng hóa học, đuôi của chúng bện xoắn lại và thân hình thì khóa chặt vào nhau trong dáng vẻ vừa như chiến đấu lại vừa như âu yếm – không thể nói rõ được là trạng thái nào. một cơn mưa máu tuôn ra từ vết thương của chúng, đọng lại trong một cái chậu mà từ đó nảy ra hàng tá thân hình xanh xao trần trụi. Tôi chưa bao giờ thấy một hình ảnh hóa học giống như thế. Matthew đứng nhìn qua vai hoàng đế, còn tôi hy vọng cơn choáng váng của anh sẽ chuyển thành phấn khích khi trông thấy những hình ảnh mới này và tiến gần đến việc giải quyết các bí ẩn của cuốn sách. Nhưng anh trông như thể nhìn thấy ma vậy. một bàn tay trắng đưa lên che kín miệng và mũi. Khi tôi nhíu mày thắc mắc, Matthew gật đầu với tôi, dấu hiệu báo rằng tôi nên tiếp tục. Tôi hít vào một hơi thật sâu và giở sang trang sách là những hình ảnh hóa học lạ lùng đầu tiên mà tôi đã thấy khi ở Oxford. Đúng như mong đợi, đây là hình ảnh đứa bé gái cùng với hai bông hồng. Điều bất ngờ là từng centimet khoảng không xung quanh đứa bé được phủ đầy chữ viết. Đó là một sự trộn lẫn kỳ quái giữa các biểu tượng và vài chữ cái thưa thớt. Ở Bodleian văn bản này đã bị ẩn đi bởi một bùa chú biến cuốn sách thành một cuốn sách cổ bị yểm phép thuật. Lúc này, với cuốn sách còn nguyên vẹn, văn bản bí mật này hoàn toàn được thấy trọn vẹn. Mặc dù có thể nhìn thấy rõ nó, nhưng tôi vẫn không thể đọc được nó. Các ngón tay tôi lần theo những dòng chữ. sự đụng chạm của tôi không khiến các từ ngữ biến chúng thành một khuôn mặt, một hình dáng hay một cái tên nào. Dường như văn bản viết này đang cố gắng kể một câu chuyện liên quan tới hàng ngàn sinh vật sống. “Ta sẽ tặng cho nàng bất cứ thứ gì nàng yêu cầu,” Rudolf nói, hơi thở nóng hổi của ông ta phả vào má tôi. một lần nữa tôi ngửi thấy mùi hành và rượu. Chẳng giống chút nào với mùi hương sạch sẽ hào nhoáng của Matthew. Mà sự ấm áp của Rudolf cũng thật khó chịu vì giờ đây tôi đã quen với nhiệt độ mát mẻ của ma cà rồng mất rồi. “Tại sao bà lại lựa chọn thứ này? không thể nào hiểu được nó, mặc dù Edward tin rằng nó chứa đựng một bí mật vĩ đại.” một cánh tay dài với qua giữa hai chúng tôi và nhẹ nhàng chạm vào trang sách. “Tại sao ư, điều này cũng vô nghĩa như cuốn sách mà người đã lén lút lấy đi từ tiến sĩ Dee tội nghiệp.” Vẻ mặt Matthew ngược hoàn toàn với những lời anh nói. Rudolf có thể không nhìn thấy những thớ thịt đang nổi lên nơi quai hàm của Matthew hay không biết những nếp nhăn quanh mắt anh hằn sâu đến thế nào khi anh tập trung chú ý. “không cần thiết,” tôi vội vàng nói. “Các văn bản hóa học đòi hỏi phải nghiên cứu và ngẫm nghĩ kỹ càng nếu người muốn hiểu chúng hoàn toàn. Có lẽ nếu thần có thêm thời gian với nó…” “Cho dù thế thì người đó phải được Chúa ban ân đặc biệt,” Rudolf nói, cau có nhìn Matthew. “Edward được Chúa chỉ lối theo những cách mà ông không có vinh hạnh đâu, Herr Roydon.” “Ồ, ông ta được chỉ dẫn ổn cả,” Matthew nói, quét mắt qua Kelley. Nhà giả kim thuật người anh bây giờ đang hành động lạ lùng, cuốn sách không thuộc sở hữu của hắn. Có những sợi chỉ tơ nối hắn với cuốn sách. Nhưng tại sao Kelly lại gắn kết với Ashmole 782? Khi câu hỏi này lướt qua tâm trí tôi, những sợi tơ đẹp đẽ màu vàng và trắng buộc nối Kelley với Ashmole 782 bỗng có diện mạo mới. Thay vì hai màu sắc xoắn chặt lại thông thường hoặc một làn sóng những sợi chỉ tơ nằm theo chiều ngang và chiều thẳng đứng, thì những sợi này lại cuộn lỏng lẻo xung quanh một trục vô hình, giống như những sợi ruy băng xoắn lọn trên món quà sinh nhật. Những sợi tơ ngắn nằm ngang tiếp tục cuốn lọn từ chỗ tiếp xúc. Trông giống như… một hình xoắn ốc đôi. Bàn tay tôi vụt đưa lên che miệng, tôi nhìn trừng trừng xuống cuốn sách. Giờ khi tôi đã chạm vào cuốn sách rồi, mùi ẩm mốc của nó vẫn còn vương trên các ngón tay. Nó thật nồng, gắt, giống như… Máu và thịt. Tôi nhìn Matthew, biết rằng biểu hiệu trên mặt mình đã phản chiếu lại đúng cái nhìn choáng váng mà tôi thấy trên mặt anh. “Em trông không được khỏe, mon coeur,” anh lo lắng nói, giúp tôi đứng dậy. “Để anh đưa em về nhà.” Edward Kelley chọn đúng thời điểm này mà mất kiểm soát. “Tôi nghe thấy những giọng nói của họ. Họ nói bằng thứ ngôn ngữ mà tôi không thể hiểu được. Các người có nghe thấy tiếng họ không?” hắn ta rên rỉ khốn khổ, hai tay bưng chặt lấy tai. “Các vị đang huyên thuyên chuyện gì thế?” Rudolf nói. “Bác sĩ Hájek, Edward không ổn rồi.” “Ngươi cũng sẽ tìm thấy tên mình trong đó,” Edward nói với tôi, giọng hắn càng lớn hơn, như thể hắn đang cố gắng át đi các âm thanh khác. “Ta biết ngay khoảnh khắc trông thấy ngươi.” Tôi nhìn xuống. Những sợi chỉ xoắn lọn cũng trói lấy tôi vào quyển sách – chỉ có điều của tôi là màu trắng và tím oải hương. Matthew bị buộc nối với nó bằng những sợi xoắn màu đỏ và trắng. Gallowglass xuất hiện, không thông báo trước cũng chẳng được mời. một tên lính gác lực lưỡng theo sau anh chàng, tay ôm siết lấy cánh tay mềm oặt của chính hắn. “Ngựa đã sẵn sàng,” Gallowglass thông báo với chúng tôi, ra hiệu về phía lối ra. “Ngươi không được phép vào đây!” Rudolf hét lên, cơn giận dữ bốc lên khi những kế hoạch sắp đặt cẩn thận của ông ta tan rã. “Còn bà, La Diosa, không được phép rời khỏi đây.” Matthew tuyệt nhiên chẳng thèm để ý tới Rudolf. anh chỉ đơn giản cầm lấy cánh tay tôi và sải bước về phía cửa. Tôi có thể cảm thấy cuốn cổ thư đang níu kéo tôi, những sợi chỉ trải căng ra kéo tôi trở về bên cạnh nó. “Chúng ta không thể để lại cuốn sách. Nó…” “anh biết nó là cái gì,” Matthew gằn giọng. “Ngăn chúng lại!” Rudolf gào lên. Nhưng tên lính canh với cánh tay bị gãy đã ăn đủ với một ma cà rồng giận dữ tối nay rồi. hắn sẽ không cố thách thức số mệnh bằng cách ngáng đường Matthew. Thay vào đó hắn trợn trừng đảo mắt rồi thả mình xuống sàn ngất xỉu. Gallowglass choàng áo khoác lên vai tôi khi chúng tôi đâm bổ xuống cầu thang. Thêm hai tên lính nữa – cả hai đều bất tỉnh – nằm dưới chân cầu thang. “Quay trở lại lấy cuốn sách đi!” Tôi ra lệnh cho Gallowglass, gần như nghẹt thở vì chiếc coóc-xê bó chặt và tốc độ di chuyển băng qua sân lâu đài. “Giờ chúng ta không thể để Rudolf có nó một khi đã biết nó là cái gì.” Matthew dừng lại, các ngón tay anh ấn sâu vào cánh tay tôi. “Chúng ta sẽ không rời khỏi Praha này mà không có cuốn sách. anh sẽ quay lại lấy nó, anh hứa. Nhưng trước hết chúng ta phải về nhà đã. Em phải chuẩn bị cho bọn trẻ sẵn sàng để rời đi ngay khi anh trở lại.” “Chúng ta đã tự chặt đứt đường của mình rồi, cô ạ,” Gallowglass dữ dằn nói. “Pistorius bị nhốt trong Tháp Trắng. Cháu đã giết một lính gác và làm bị thương ba tên khác. Rudolf đã khiếm nhã chạm vào cô như vậy, và cháu cũng có một khao khát mãnh liệt muốn thấy hắn chết.” “Cậu không hiểu đâu, Gallowglass. Cuốn sách đó có thể là đáp án cho mọi điều,” tôi cố tìm cách chỉ rõ ra trước khi Matthew lại bắt tôi di chuyển. “Ôi, cháu hiểu nhiều hơn cô tưởng đấy.” Giọng Gallowglass thoáng trong làn gió bên cạnh tôi. “Cháu nhận thấy mùi của nó từ dưới lầu khi hạ gục mấy tên lính. Có các wearth bị chết trong cuốn sách đó. Cả phù thủy và yêu tinh nữa, cháu cam đoan đấy. Có ai tưởng tượng nổi Cuốn Sách sự Sống bị mất ấy lại bốc mùi chết chóc lên tận thiên đàng cơ chứ?”