Nhà tội phạm học nhìn Sellito: “Roland đâu rồi?”. “Bell? Cậu ấy đưa một người vào chương trình bảo vệ nhân chứng ở khu phía bắc của bang nhưng cậu ấy hẳn phải quay lại lúc này. Có nghĩ rằng chúng ta nên gọi cho cậu ấy không?” “Ừ.” Rhyme nói. Sellito gọi tới số điện thoại của viên cảnh sát và qua cuộc hội thoại, Rhyme suy ra rằng Bell sẽ rời Sở chỉ huy Cảnh sát New York ngay lập tức và sẽ hướng về phía khu bắc thành phố. Rhyme để ý thấy cái cau mày của Geneva. “Thanh tra Bell sẽ bảo vệ cháu. Giống như một vệ sĩ. Cho đến khi chúng ta giải quyết được tất cả mọi việc... Giờ thì, cháu có biết Charles bị buộc tội ăn trộm cái gì không?” “Bài báo đó nói là vàng hoặc tiền hoặc gì đó.” “Vàng bị mất. À, thú vị đấy. Lòng tham - một trong những động lực của chúng ta.” “Liệu bác của cháu có biết gì về việc này không?”, Sachs hỏi. “ cháu á? Ồ, không, bác ấy là anh trai của mẹ cháu. Cụ tổ Charles là bên bố cháu. Và bố chỉ biết một chút thôi. Bà cô - em của ông bà nội cháu đưa cho cháu xem một vài bức thư của cụ tổ Charles. Nhưng bà ấy cũng chẳng biết gì nhiều hơn về cụ tổ.” “Chúng ở đâu? Những bức thư ấy?”, Rhyme hỏi. “Cháu có một tờ đây.” Cô thò tay vào trong túi và lôi nó ra. “Còn những lá thư khác thì ở nhà. Bà cô của cháu nghĩ rằng có thể bà ấy có một vài hộp gì đó đựng đồ của cụ tổ Charles nhưng bà ấy không chắc chắn nó ở đâu nữa.” Geneva im lặng khi đôi lông mày trên khuôn mặt tròn của cô bé nhíu lại và cô nói với Sachs: “Có một điều? Nếu như nó có thể có ích?”. “Nói đi.” Sachs trả lời. “Cháu nhớ từ một trong các bức thư. Cụ tổ có nói về bí mật mà ông ấy biết.” “Bí mật?”, Sachs hỏi. “Vâng. Ông ấy nói mình cảm thấy dằn vặt về việc không nói ra sự thật. Nhưng có thể sẽ có một thảm họa, một bi kịch, nếu như ông nói ra. Một điều gì đó kiểu như thế.” “Có thể đó là vụ trộm mà ông ấy đang nói đến.” Rhyme nói. Geneva khẳng định rõ ràng. “Cháu không nghĩ ông ấy làm việc đó. Cháu nghĩ rằng ông ấy bị mưu hại.” “Tại sao?”, Rhyme hỏi. Một cái nhún vai. “Hãy đọc bức thư.” Cô bé đưa nó cho Rhyme rồi giật mình vì nhớ ra anh bị liệt và quay sang đưa cho Mel Cooper, không biện giải cho câu nói hớ của mình. Người chuyên viên đặt nó trên một chiếc đầu đọc quang học và một lát sau những dòng chữ viết tay đẹp như in từ thế kỷ XIX chạy dọc qua màn hình phẳng của chiếc máy tính thế kỷ XXI. Bà Violet Singleton Đang trú tại địa chỉ của ông bà William Dodd Đường Essex Farm, Harrisburg, Pennsylvania Ngày 14 tháng 7 năm 1863 Violet thương yêu của anh, Có lẽ là em đã nhận được tin dữ về sự việc khủng khiếp ở New York vừa qua. Giờ đây anh có thể thông bá việc đã yên ổn, nhưng cái giá phải trả thật quá lớn. Khí hậu nơi này đang trở nên nóng bỏng, với hàng trăm ngàn những người dân kém may mắn vẫn đang quay cuồng bời cơn khủng hoảng kinh tế vài năm trước - Ngài Greeley’s Tribune cho biết rằng việc đầu cơ tích trữ thị trường chứng khoán quá đáng và những vụ cho vay không thận trọng dẫn đến nợ xấu đã tạo nên “những bong bóng nổ" trong thị trường chứng khoán thế giới. Trong cái không khí ấy, chỉ cần một tia lửa nhỏ cũng đủ để làm bùng lên cuộc nổi loạn gần đây: Chế độ quân dịch ép buộc những người đàn ông vào Quân đội Liên bang, điều được rất nhiều người coi là cần thiết trong cuộc chiến đấu chống lại Quân phiến loạn, do sức mạnh và sự bền bỉ đáng kinh ngạc của kẻ địch. Tuy vậy, sự chống đối với chế độ quân dịch vẫn trở nên quyết liệt và đầy chết chóc hơn, hơn bất cứ thứ gì được dự báo. Và chúng ta, những người da màu, những người theo chủ nghĩa bãi nô và những người ủng hộ Đảng cộng hòa, trở thành mục tiêu thù địch của họ, cũng giống như người đứng đầu chế độ quân dịch và những người lính của ông ta, nếu không muốn nói là hơn. Quân nổi loạn, phần lớn là người Ireland, càn quét khắp thành phố, tấn công bất cứ người da màu nào mà chúng thấy, cướp phá những ngôi nhà và công xưởng. Anh đã vô tình ở trong một công ty của hai giáo viên và giám đốc của một Trại mồ côi dành cho trẻ em da màu khi một nhóm du thủ du thực tấn công tòa nhà và nhấn chìm nó trong biển lửa! Tại sao, có hơn hai trăm đứa trẻ ở bên trong đó! Nhờ ơn của Chúa, bọn anh mới có thể đưa những đứa trẻ nhỏ bé tới một sở cảnh sát gần đó an toàn, nhưng quân nổi loạn đáng lẽ đã giết tất cả bọn anh nếu như chúng muốn làm. Cuộc chiến đấu tiếp tục kéo dài cả ngày. Chiều tối hôm đó, buổi hành hình những người da đen bắt đầu. Sau khi một người đàn ông da đen bị treo cổ, xác của ông ấy bị ném vào một ngọn lửa, còn những kẻ nổi loạn nhảy múa xung quanh trong một buổi liên hoan chè chén say sưa. Anh đã vô cùng kinh hãi! Anh chạy trốn về trang trại của chúng ta ở trên phía bắc và từ nạy về sau tập trung hoàn toàn vào nhiệm vụ giáo dục lũ trẻ trong ngôi trường của bọn anh, chăm sóc những vườn cây và hơn nữa, đẩy mạnh sự nghiệp giải phóng người của chúng ta. Vợ thương yêu nhất của anh, hậu quả của tất cả những sự kiện khủng khiếp này là cuộc sống với anh dường như trở nên mong manh và phù du, nếu em sẵn sàng với cuộc hành trình này, khao khát của anh là sẽ có sự đồng hành của em và con trai chúng ta. Anh gửi kèm ở đây vé cho cả hai và mười đô la để trang trải dọc đường. Anh sẽ gặp hai mẹ con trên tàu ở New Jersey và chúng ta sẽ lên một chiếc thuyền đi tới trang trại của mình. Em có thể giúp đỡ anh trong việc dỗ, còn Joshua có thể tiếp tục được học hành đồng thời giúp đỡ chúng ta và James ở xưởng cũng như cửa hàng rượu táo. Nếu như có một ai đó hỏi em về công việc và nơi em định đến, hãy trả lời như anh nói: Chỉ nói rằng chúng ta là những người chăm sóc và trông coi trang trại cho ông chủ Trilling đang vắng nhà. Nhìn vào sự thù hận trong đôi mắt của những kẻ nổi loạn, anh thấy một sự thật là không có nơi đâu an toàn, ngay cả tại nơi mà chúng ta ở; sự đốt phá, trộm cắp và cướp bóc vẫn có khả năng xảy ra, liệu nó có cần phải biết rằng chủ nhân của trang trại đó là những người da đen. Anh đã trở về từ nơi bị giam cầm, nơi anh được coi như chỉ có ba phần năm của một con người. Anh đã hy vọng rằng di chuyển lên phía bắc có thể thay đổi điều này. Nhưng, than ôi, điều đó không đúng như vậy. Các thảm kịch trong những ngày qua nói với anh rằng em, anh và những người như chúng ta chưa được đối xử như là những người đàn ông và những người phụ nữ thực sự, do đó cuộc chiến của chúng ta để giành lấy sự trọn vẹn trong đôi mắt của những người khác cần phải được tiếp tục với lòng quyết tâm không hề mệt mỏi. Gửi lời hỏi thăm thân ái tới chị gái của em và William, tất nhiên cả các cháu nhà anh chị ấy. Nói với Joshua rằng anh tự hào với những thành tích của con về môn Địa lý. Anh cầu nguyện cho cái ngày đó đến sớm, ngày anh được gặp em và con trai của chúng ta một lần nữa. Yêu em, Charles Geneva lấy bức thư khỏi chiếc đầu đọc quang học. Cô bé nhìn lên và nói: “Những cuộc nổi loạn chống quân dịch trong thời kỳ Nội chiến năm 1863. Sự hỗn loạn tồi tệ nhất trong lịch sử nước Mỹ”. “Ông ấy chẳng nói gì đến bí mật của mình cả.” Rhyme chỉ ra. “Nó nằm trong số những bức thư cháu có ở nhà. Cháu đưa cho mọi người xem cái này để mọi người biết rằng ông ấy không phải là một tên trộm.” Rhyme cau mày. “Nhưng vụ trộm là sự việc xảy ra năm năm sau khi ông ấy viết bức thư này? Tại sao cháu lại nghĩ rằng nó có nghĩa là ông ấy không hề phạm tội?” “Quan điểm của cháu”, Geneva nói: “là ông ấy không có vẻ gì giống với một tên trộm, đúng không ạ? Người có ý định trộm cắp không phải là người được tin tưởng giáo dục cho những cựu nô lệ”. Rhyme nói một cách đơn giản: “Đó không phải là minh “Cháu nghĩ rằng có.” Cô bé nhìn qua bức thư một lần nữa, rồi vuốt nó phẳng phiu. “Cái ‘ba phần năm một con người’ là gì?”, Sellito hỏi. Rhyme nhớ lại một vài điều từ trong lịch sử nước Mỹ. Nhưng ngoại trừ những thông tin có liên quan đến công việc của một nhà tội phạm học, anh bỏ qua nó như một sự lộn xộn vô nghĩa. Anh lắc lắc đầu. Geneva giải thích: “Trước Nội Chiến, vì mục đích giành ghế đại biểu Quốc hội, nô lệ chỉ được tính như là ba phần năm của một con người. Đó không phải là âm mưu của Liên bang xấu xa như ta nghĩ; miền Bắc đã đưa ra quy tắc đó. Họ không hề muốn nô lệ được coi trọng chút nào, bởi điều đó có thể mang lại cho miền Nam nhiều đại biểu hơn trong Quốc hội và Đại cử tri đoàn Hoa Kỳ. Miền Nam muốn họ được coi trọng như một con người đầy đủ. Quy ước ba phần năm là một thỏa hiệp”. “Họ được phép làm đại biểu,” Thom chỉ ra: “nhưng vẫn không thể bầu cử”. “Ồ, tất nhiên là không rồi”, Geneva nói. “Cũng kiểu như phụ nữ thôi”, Sachs đế thêm vào. Lịch sử xã hội của nước Mỹ không hề thú vị với Rhyme lúc này. “Tôi muốn xem những lá thư khác. Và muốn tìm một bản khác của cái tạp chí đó, Tuần báo Minh họa dành cho người da màu, ấn bản nào?” “Ngày 23 tháng 7 năm 1868”, Geneva nói. “Nhưng cháu đã rất khó khăn mới tìm ra nó.” “Tôi sẽ làm hết sức”, Mel Cooper nói. Rhyme nghe thấy tiếng lách cách của những ngón tay anh gõ trên bàn phím. Geneva đang nhìn vào chiếc đồng hồ chạy pin hiệu Swatch của mình. “Cháu thực sự...” “Hey, chào mọi người”, tiếng một người đàn ông từ phía cửa vào. Với một chiếc áo khoác thể thao màu nâu bằng vải tuýt, áo sơ mi và quần bò xanh, thanh tra Roland Bell bước vào phòng thí nghiệm, vốn là một sĩ quan cảnh sát ở quê hương Bắc Carolina, Bell đã chuyển tới New York một vài năm trước vì những lý do cá nhân. Anh có mái tóc màu nâu, đôi mắt dịu dàng và vô tư lự đến nỗi đôi khi những bạn đồng nghiệp thành thị của anh cảm thấy mất kiên nhẫn khi làm việc với anh, mặc dù Rhyme ngờ vực cái lý do mà đôi khi anh di chuyển chậm chạp không phải do kế thừa nét đặc trưng của người miền Nam mà là bản chất tỉ mỉ của anh, có lẽ được tôi luyện bởi tầm quan trọng của công việc ở trong NYPD. Công việc của Bell là bảo vệ những nhân chứng và những người có nhiều nguy cơ trở thành nạn nhân. Đội của anh không phải là một đơn vị chính thứcNYPD nhưng nó vẫn có một cái tên: ‘SWAT’ Mặc dù đây không phải là từ viết tắt của những vũ khí truyền thống hay một đơn vị đặc nhiệm; nó là rút gọn của “Đội bảo vệ nhân chứng”[1] [1] Saving Witness’s Ass Team. “Roland, đây là Geneva Settle.” “Xin chào, cô bé”, anh dài giọng và bắt tay cô bé. “Cháu không cần người bảo vệ”, cô nói một cách cương quyết. “Cháu đừng lo - Chú sẽ không can dự vào công việc của cháu đâu”, Bell nói. “Cháu có lời hứa danh dự của chú về điều đó. Chú sẽ không để cháu nhìn thấy giống như là một dấu chữ V trong một bãi cỏ cao”. Anh liếc nhìn Sellito. “Nào, giờ thì chúng ta đang phải đối mặt với thứ gì nào?” Viên thanh tra với thân hình chắc khỏe điểm qua những chi tiết quan trọng của vụ án và những gì họ biết cho đến lúc này. Bell không hề cau mày hay lắc đầu nhưng Rhyme có thể thấy được đôi mắt của anh nín lặng, bộc lộ mối quan ngại. Nhưng khi Sellito xong việc, Bell lại diện khuôn mặt đặc trưng bình dị của miền Nam và hỏi Geneva một đống câu hỏi về cô bé và gia đình để có được biện pháp tạo dựng sự bảo vệ. Cô bé trả lời một cách ngập ngừng, như thể bị ép buộc như vậy. Cuối cùng thì Bell cũng đã xong việc và Geneva nói một cách thiếu kiên nhẫn: “Thực sự cháu cần phải đi rồi. Ai đó có thể làm ơn đưa cháu về nhà không ạ? Cháu sẽ lấy những bức thư của cụ tổ cho mọi người. Nhưng sau đó cháu phải đến trường ạ”. “Thanh tra Bell sẽ đưa cháu về nhà”, Rhyme nói rồi kèm theo đó một nụ cười: “nhưng còn ở trường, chú nghĩ chúng ta đã nhất trí rằng cháu sẽ có một ngày nghỉ. Hãy đồng ý với sự sắp xếp này”. “Không”, cô bé nói một cách cương quyết. “Cháu không hề đồng ý với điều đó. Chú nói rằng ‘Hãy dẹp những câu hỏi sang một bên và sau đó chúng ta sẽ xem xét.’” Không có nhiều người trích nguyên những lời nói của Lincoln Rhyme lại với anh. Anh cằn nhằn: “Dù có nói gì đi nữa, chú nghĩ rằng cháu sẽ phải ở nhà, bởi chúng ta biết hung thủ có thể vẫn còn đang săn đuổi cháu. Nó không an toàn”. “Thưa ông Rhyme, cháu cần phải làm những bài kiểm tra đó. Các bài kiểm tra lại ở trường cháu, chúng đôi khi không được lên kế hoạch, sổ kiểm tra thì thất lạc, cháu sẽ không được ghi điểm.” Geneva giận dữ nắm chặt con đỉa trống rỗng trên chiếc quần bò của mình. Cô bé thật gầy gò. Anh tự hỏi liệu có phải bố mẹ cô bé quá khắt khe về chuyện ăn uống, ép cô ăn kiêng chỉ với món yến mạch và đậu phụ. Có vẻ như là có nhiều vị giáo sư nghiêng theo xu hướng này. “Tôi sẽ gọi đến trường ngay bây giờ”, Sachs nói. “Chúng tôi sẽ nói với họ rằng có một vấn đề xảy ra và...” “Cháu nghĩ mình thực sự muốn đi học”, Geneva sụt sịt nói, đôi mắt nhìn Rhyme một cách kiên quyết. “Bây giờ.” “Hãy ở nhà nghỉ một hoặc hai ngày cho đến khi chúng ta tìm ra được nhiều thông tin hơn. Hoặc”, Rhyme chêm vào một nụ cười: “cho đến khi chúng ta gông cổ được hắn”. Nụ cười và câu nói ấy không hề có ý nhấn mạnh, để thuyết phục cô bé bằng cách nói của giới trẻ. Nhưng anh ngay lập tức hối tiếc vì những lời đã nói. Anh đã không hề nói thật với cô bé – chỉ hoàn toàn vì cô gái còn quá trẻ. Nó giống như những người đến gặp anh làm ầm ĩ lên một cách thái quá và bỡn cợt bởi anh là một người tàn tật. Họ làm anh phải tức điên lên. Giống như cô bé đang bực mình với anh lúc này. Cô nói: “Nếu chú không phiền, cháu sẽ rất biết ơn nếu ai đó cho cháu đi nhờ xe. Hoặc là cháu sẽ đi tàu điện. Nhưng cháu phải đi bây giờ, nếu như chú muốn những lá thư đó”. Bực mình vì bị lôi vào cuộc chiến này với cô bé, Rhyme nói với sự quả quyết: “Chú sẽ phải nói là không”. “Cháu có thể mượn điện thoại của chú được không?” “Sao lại thế?”, anh hỏi. “Có một người cháu muốn gọi.” “Một người?” “Đó là người luật sư mà cháu đã nói đến. Wesley Goades. Ông ta đã từng làm việc cho công ty bảo hiểm lớn nhất nước, và hiện tại ông ấy đang điều hành một văn phòng luật ở Harlem.” “Và cháu muốn gọi cho ông ấy?”, Sellito hỏi. “Tại sao?” “Bởi vì cháu muốn hỏi xem liệu các chú có thể không cho cháu đến trường không?” Rhyme chế giễu. “Điều đó là tốt cho chính bản thân cháu.” “Nó là quyền do cháu quyết định nữa, đúng không?” “Bố mẹ cháu, hoặc bác cháu.” “Họ không phải là người sẽ phải thi tốt nghiệp hết lớp mười một khi mùa xuân tới.” Sachs cười khoái trí. Rhyme bắn một tia nhìnẽo về phía cô. “Chỉ trong một hoặc hai ngày thôi cô bé.” Bell nói. Geneva lờ anh ta và tiếp tục: “Ông Goades đã giúp John David Colson được trả tự do từ Sing Sing[2] sau khi ông ấy nằm trong tù mười năm vì một vụ án mạng mà ông ấy không hề thực hiện. Và ông ta kiện New York, ý cháu là, tiểu bang ý, hai hay ba lần rồi. ông ấy thắng mọi vụ kiện. Và ông ấy cũng vừa thực hiện một vụ kiện ở Tòa án Tối cao. về quyền lợi của những người vô gia cư”. [2] Nhà tù của tiểu bang New York được xây dựng năm 1925 bởi chính những tù nhân, đây là nơi có luật lệ rất cứng rắn và chuyên giam giữ những kẻ tội phạm đặc biệt nguy hiểm. “Ông ấy cũng thắng nốt vụ ấy chứ?”, Rhyme hỏi một cách nhăn nhó. “Ông ấy thường thắng. Thực ra, cháu không nghĩ rằng ông ấy đã từng thua.” “Thật là điên rồ”, Sellito lẩm bẩm, đưa tay chùi một cách vô thức một chấm máu trên chiếc áo khoác của mình. Anh càu nhàu: “Cháu là một đứa trẻ...” Một điều không nên nói. Geneva nhìn anh chằm chằm và ngắt lời: “Các chú sẽ không cho cháu gọi điện đúng không? Có phải tù nhân thì phải thế không ạ?”. Viên cảnh sát to lớn thở hắt ra. Anh ra hiệu chỉ về chiếc điện thoại. Cô bé đi về phía nó, nhìn vào sổ địa chỉ của mình và nhấn một dòng số. “Wesley Goades”, Rhyme nói. Geneva cốc đầu mình khi cuộc gọi được kết nối. Cô bé nói với Rhyme: “Ông ấy đã đi Havard rồi. Ôi, và ông ấy kiện cả quân đội nữa. Quyền lợi của gay, cháu nghĩ vậy”. Cô nói vào điện thoại, “Ông Goades, làm ơn... Cô có thể báo với ông ấy là Geneva Settle gọi không? Cháu là nhân chứng một vụ án, và hiện đang bị giữ bởi cảnh sát.” Cô đưa địa chỉ của Rhyme rồi thêm vào: “Nó trái với mong muốn của cháu và...”. Rhyme nhìn Sellito, anh đang tròn xoe mắt và nói: “Được rồi”. “Khoan đã”, Geneva nói vào trong điện thoại. Rồi quay sang viên cảnh sát to béo, to cao hơn cô rất nhiều. “Cháu có thể đến trường chứ?” “Để kiểm tra. Chỉ có thế thôi.” “Có hai bài.” “Được rồi. Cả hai cái bài kiểm tra quỷ quái của cháu”, Sellito lẩm bẩm. Anh nói với Bell: “Ở bên cạnh cô bé”. “Giống như một chú chó Flat-coated Retriever, được rồi.” Geneva nói vào điện thoại: “Nói với ông Goades không phải bận tâm nữa. Chúng cháu đã giải quyết vấn đề này rồi”. Cô bé dập máy. Rhyme nói: “Nhưng trước tiên chú muốn những bức thư đó đã”. “Nhất trí.” Cô bé quăng chiếc túi sách qua vai mình. “Cậu”, Sellito quát lớn với Pulaski: “Đi với họ”. “Vâng, thưa ngài.” Sau khi Bell, Geneva và chàng cảnh sát trẻ đi khỏi, Sachs nhìn về phía cánh cửa và cười. “Quả là một cô gái nóng nảy.” “Wesley Goades.” Rhyme mỉm cười. “Anh nghĩ rằng cô bé đã bịa ra người đó. Hẳn là nó đã gọi cho số của tổng đài để hỏi giờ và nhiệt độ.” Anh hất đầu về phía tấm bảng bằng chứng. “Hãy tiếp tục với những thứ này. Mel, anh sẽ kiểm tra lại chi tiết về các hội chợ đường phố. Và tôi muốn các số liệu và tổng hợp dữ liệu về những gì chúng ta đã gửi tới VICAP và NCIC cho đến lúc này. Tôi muốn tất cả các thư viện và trường học trong thành phố được điều tra để xem liệu cái gã nói chuyện với Barry này có gọi cho họ và cũng hỏi thông tin về Singleton hoặc cái tạp chí Tuần báo Minh họa dành cho người da màu đó. À, và tìm ra ai làm ra những chiếc túi có hình mặt cười.” “Mệnh lệnh tối cao”, Cooper nói. “Này, đoán được không? Cuộc đời đôi khi là một mệnh lệnh tối cao đấy. Vậy hãy gửi một mẫu máu trên chiếc dây thừng tới CODIS.” “Tôi tưởng rằng anh không cho nó là một vụ hiếp dâm.” CODIS là một cơ sở dữ liệu chứa đựng mẫu DNA của những kẻ tấn công tình dục đã được lưu hồ sơ. “Những từ có nghĩa nhất là ‘Tôi tưởng’, Mel. Chứ không phải là ‘Tôi biết với sự chắc chắn’.” “Quá nhiều đối với tâm trạng của ngài”, Thom nói. “Một điều khác nữa...” Anh lái chiếc xe lăn lại gần và kiểm tra những bức ảnh chụp xác của thủ thư và sơ đồ của hiện trường vụ bắn súng Sachs đã vẽ ra. “Người phụ nữ đứng cách nạn nhân bao xa?”, Rhyme hỏi Sellito. “ cơ? Người đứng gần ư? Tôi ước chừng khoảng năm mét.” “Ai trúng đạn trước?” “Người phụ nữ.” “Và những vết bắn tập trung khá gần nhau? Loạt đạn trúng người thủ thư ấy?” “Rất sát. Chỉ cách nhau vài centimet. Hắn biết bắn súng đúng cách.” Rhyme lẩm bẩm: “Đó không phải là bắn trượt, người phụ nữ. Hắn chủ ý bắn vào cô ấy”. “Gì cơ?” Nhà tội phạm học hỏi tay súng tốt nhất trong phòng: “Sachs, khi em bắn một loạt nhanh gọn, phát nào là phát chắc chắn sẽ chính xác nhất?”. “Phát đầu tiên. Khi đó ta sẽ không bị ảnh hưởng bởi việc súng giật từ viên đạn trước.” Rhyme nói: “Hắn có chủ ý làm bị thương cô ấy - nhắm vào một mạch máu chính - để thu hút càng nhiều cảnh sát càng tốt và tạo ra cơ hội cho hắn trốn thoát”. Cooper lầm bầm: “Chúa ơi”. “Nói với Bell. Cả Bo Haumann và người của anh ta tại đội Phản ứng nhanh. Hãy nói cho họ biết về kẻ tội phạm mà ta đang theo đuổi - kẻ mà còn khoái trá hơn khi nhắm vào những người vô tội.”