Đi bộ trên một con phố ở khu Queens, tay cầm túi đồ và chiếc va li, Thompson Boyd đột nhiên khựng lại. Hắn giả vờ nhìn vào tờ báo từ một chiếc máy bán báo tự động và gõ vào đầu mình ra vẻ quan tâm tới tình hình thế giói, rồi nhìn về phía sau. Không có ai đang đi theo, không có ai quan tâm tới Joe Trung bình cả. Hắn không thực sự nghĩ rằng sẽ có một cái đuôi bám theo. Nhưng Thompson luôn luôn giảm thiểu tối đa mọi nguy cơ. Ta sẽ không thể nào bất cẩn khi công việc của mình là công việc của tử thần và hắn càng trở nên đặc biệt cảnh giác sau cuộc chạm trán ở căn hộ trên phố Elizabeth với người phụ nữ mặc bộ đồ màu trắng. Chúng sẽ giết con chỉ bằng một nụ hôn... Giờ hắn quay lưng trở lại con phố. Không nhìn thấy ai đang nép vội vào các tòa nhà hay chuyển hướng một cách nhanh chóng. Thỏa mãn, Thompson tiếp tục bước về phía mục tiêu ban đầu. Hắn nhìn vào đồng hồ. Đã đến giờ hẹn. Hắn bước tới một buồng điện thoại và gọi đến một số điện thoại ở trung tâm Manhattan. Sau một tiếng chuông hắn nghe tiếng: “Xin chào?”. “Là tôi.” Thompson và người ở đầu dây bên kia bắt đầu lặp lại một vài lời nói - kiểu để xác nhận an toàn, giống như những điệp viên - để bảo đảm chắc chắn rằng mỗi người đều biết chắc ai đang ở đầu dây bên kia. Thompson hạn chế tối thiểu giọng nói lè nhè của mình, cũng như khách hàng của hắn đang cẩn thận với giọng nói của chính mình. Tất nhiên là không qua mắt được máy phân tích giọng nói. Nhưng ta vẫn làm những gì có thể. Người đàn ông biết lần thực hiện đầu tiên đã thất bại từ khi báo địa phương đưa tin. Khách hàng của hắn hỏi: “Tình hình đến mức nào? Chúng ta có vấn đề gì à?”. Kẻ giết người nghiêng đầu về sau và nhỏ vài giọt Murine vào mắt. Chợp chợp mắt khi cơn đau tan dần, Thompson trả lời với một giọng lạnh như trái tim hắn: “Chà, giờ thì ông đã hiểu rõ chúng ta đang làm gì rồi. Nó giống như bất cứ một điều gì đó trong cuộc đời này. Chẳng có cái gì suôn sẻ một trăm phần trăm hết. Chẳng có cái gì sẽ xảy ra chỉ theo cách mà chúng ta muốn. Con bé đó láu cá hơn cả tôi”. “Một đứa con gái trung học?” “Đơn giản nó là một đứa lc lõi. Phản ứng nhanh. Nó sống trong rừng.” Thompson cảm thấy nhói lên khi nói nhận xét này, nghĩ rằng người đàn ông ở đầu dây bên kia có thể đang nghĩ tới một cô gái da đen, một kiểu phân biệt chủng tộc, dù hắn thực sự chỉ ám chỉ rằng cô sống ở một nơi mà môi trường khó khăn và phải lọc lõi. Thompson Boyd là người ít có thành kiến nhất trên trái đất này. Cha mẹ hắn đã dạy điều đó. Bản thân Thompson quen biết nhiều người thuộc mọi chủng tộc cũng như hoàn cảnh xuất thân khác nhau và hắn đáp trả họ chỉ đơn giản dựa trên cách cư xử và thái độ của họ, không phải vì màu da. Hắn đã làm việc cho cả những người da trắng, những người da đen, Ả Rập, châu Á, Latin, và hắn cũng đã giết người của chính những sắc tộc này. Hắn không thấy sự khác nhau giữa họ. Tất cả những người từng thuê hắn đều tránh ánh mắt của hắn cũng như hành động một cách kỳ cục và thận trọng. Những người đã chết dưới tay hắn có đủ mọi bằng cấp, thứ bậc khác nhau về lòng tự trọng và nỗi sợ hãi, đồng thời chẳng liên quan gì đến màu da hay quốc tịch. Hắn tiếp tục: “Không phải những gì ông mong muốn. Không phải tôi muốn thế, tôi cá đến đồng đô la cuối cùng của ông cho mà xem. Nhưng những gì xảy ra là một khả năng hợp lý. Con bé có những kẻ khá lợi hại bảo vệ. Giờ chúng ta đã biết. Chúng ta chỉ cần dựng lại và tiếp tục thực hiện. Chúng ta không thể để cảm xúc xen lấn quá nhiều về việc này được. Lần tới ta sẽ tóm được con bé. Tôi đã đưa vào một người biết rõ về Harlem. Chúng tôi cũng đã tìm ra trường học của nó và đang tìm xem nó ở đâu. Tin tôi đi, chúng ta làm chủ được mọi vấn đề”. “Tôi sẽ kiểm tra tin nhắn sau”, người đàn ông ở đầu dây bên kia nói, rồi dập máy một cách thô lỗ. Họ đã nói chuyện không quá ba phút, giới hạn Thompson Boyd đề ra. Theo quyển sách... Thompson dập máy - không cần thiết phải xóa dấu vân tay; hắn đang đi găng tay da rồi. Hắn tiếp tục bước xuống phố. Dãy phố là một dải nhà gỗ một tầng thanh lịch nằm ở phía đông và các tòa nhà chung cư thì ở phía tây, một khu vực khá cũ kỹ. Có vài đứa trẻ ở gần đó, mới về nhà từ lớp học. Trong những ngôi nhà ở đây, Thompson có thể nghe thấy loáng thoáng tiếng chương trình kịch ngắn trên đài hay những chương trình đàm thoại với người nổi tiếng buổi chiều, khi những người phụ nữ đang là quần áo hay nấu cơm. Dù cuộc sống có là như thế nào ở phần còn lại của thành phố, phần lớn khu vực quanh đây chưa bao giờ thoát khỏi những năm 50. Nó gợi cho hắn nhớ lại về căn nhà di động bằng chiếc xe rơ moóc và ngôi nhà gỗ trong tuổi thơ của mình. Một cuộc sống êm đềm, khá thoải mái. Cuộc đời của hắn trước khi vào tù, trước khi hắn trở nên vô cảm như một cánh tay cụt hay một cái chân bị rắn cắn. Ở dãy nhà phía trước, Thompson nhìn thấy một cô bé tóc vàng mặc đồng phục đang bước vào một ngôi nhà gỗ sơn màu be. Trái tim hắn đập nhanh hơn một chút - chỉ một hay hai nhịp - nhìn theo cô bé bước lên một vài bậc thang bê tông, lấy chìa khóa từ trong cặp sách, mở cửa và bước vào trong. Hắn tiếp tục tiến bước về phía ngôi nhà đó, nó ngăn nắp như những ngôi nhà khác, có vẻ hơn một chút và được trang trí một bức tượng người cưỡi ngựa nho nhỏ, với những khoảng có tông màu tối thì được sơn một cách cẩn thận với màu đen xạm, một loạt những chú hươu bằng gốm nho nhỏ đang gặm cỏ trên bãi cỏ nhỏ xíu, đang ngả vàng. Hắn bước thật chậm qua ngôi nhà, nhìn vào những chiếc cửa sổ, rồi tiếp tục bước qua dãy phố. Một cơn gió mạnh thổi qua làm chiếc túi hắn cầm xoay một vòng và những chiếc lon va vào nhau lạch cạch. Chà, cẩn thận chứ, hắn tự nói với chính mình. Và giữ chặt chiếc túi. Ở cuối dãy phố, hắn đổi hướng rồi nhìn ra sau. Một người đàn ông đang đi bộ, một người phụ nữ đang cố lái chiếc xe vào chỗ đậu ở giữa hai xe khác ven đường, một chú bé đang dắt quả bóng rổ trên con đường đầy lá rụng. Chẳng một ai quan tâm đến hắn cả. Thompson Boyd bắt đầu bước ngược lại về phía ngôi nhà. Trong ngôi nhà ở quận Queens, Jeanne Starke nói với con gái mình: “Không để cặp sách ở hành lang, Brit. Để ở trong phòng học đi con”. “Mẹ”, cô bé mười tuổi thở dài, cố gắng kéo dài hơi. Cô hất mái tóc màu vàng, treo chiếc áo khoác đồng phục lên móc và nhấc chiếc ba lô nặng trịch lên, lầm bầm với nỗi bực dọc. “Bài tập về nhà đâu?”, bà mẹ xinh đẹp, khoảng tầm ba mươi đến bốn mươi tuổi. Cô có mái tóc xoăn đen dày, được buộc chặt ở phía sau với chiếc buộc tóc hình bông hồng đỗ. “Chẳng có bài tập nào cả”, Britney nói. “Không có?” “Không.” “Lần trước con nói không có bài tập về nhà, nhưng không phải vậy.” Bà mẹ châm chọc. “Đấy không hẳn là bài tập. Đấy là một bài báo. Chỉ là cắt một bài nào đó ra khỏi tờ báo thôi mà.” “Con có bài tập ở trường phải làm ở nhà. Bài tập về nhà.” “Thật mà, không có bài tập nào ngày hôm nay cả.” Jeanne có thể nói là có nhiều hơn thế. Cô nhướn mày. “Chỉ là bọn con cần phải mang đến lớp một thứ gì đó từ Italy. Để học giờ thuyết trình. Mẹ biết mà, đấy là dành cho ngày Colombus. Mẹ có biết ông ấy là người Ý không? Con cứ tưởng ông ẩy là người Tây Ban Nha cơ.” Người mẹ của hai đứa trẻ đã biết điều này. Cô đã tốt nghiệp trung học và có một bằng dự bị đại học điều dưỡng. Cô đã có thể đi làm, nếu muốn, nhưng bạn trai của cô kiếm được nhiều tiền vì là một thương nhân và cảm thấy hài lòng khi để cô chăm sóc cho ngôi nhà, đi mua sắm với những người bạn gái và chăm sóc lũ trẻ. Một phần của điều đó chỉ là để bào đảm rằng lũ trẻ làm bài tập về nhà, bất kể hình thức là như thế nào, bao gồm cả thuyết trình. “Thế thôi hả? Chà chà, nói sự thật đi xem nào?” “Meeeeeeeeeeeeeẹ.. “Sự thật?” “Đúng...” “‘Vâng’. Không phải ‘đúng’. Con sẽ mang cái gì đi nào?” “Con không biết. Có thể là một cái gì đó từ cửa hàng Barrini. Mẹ có biết là Colombus đã sai không? Ông ấy nghĩ rằng mình đã tìm ra châu Á, chứ không phải là châu Mỹ. Ông ấy còn quay lại đây ba lần nữa và không bao giờ biết được sự thật.” “Thật á?” “Đúng... Vâng.” Britney nói lướt. Jeanne quay trở vào bếp, nghĩ về sự thật là ông ấy đã không hề biết điều đó. Colombus thực sự nghĩ rằng mình đã tìm ra Nhật Bản hoặc Trung Quốc? Cô rắc bột lên thịt gà, rồi trứng, các mẩu vụn bánh mỳ, và bắt đầu thả hồn mơ tưởng về một chuyến du lịch gia đình tới châu Á - nhờ những hình ảnh trên truyền hình cáp. Hai đứa nhóc sẽ thích lắm. Có thể... Đó là lúc cô tình cờ nhìn ra ngoài và, xuyên qua tấm rèm lờ mờ, cô thấy bóng một người đàn ông đang chầm chậm tiến đến gần ngôi nhà. Cô cảm thấy bất an. Bạn trai của Jeanne, có sản xuất linh kiện máy tính cho những nhà thầu của chính phủ, đã tạo ra một nỗi sợ hãi trong cô. Luôn luôn cẩn trọng với người lạ, anh nói thế. Nếu như thấy một ai đó đi chậm lại khi họ đi ngang qua nhà, ai đó có vẻ như thấy thú vị với lũ nhóc một cách không bình thường... cần phải báo ngay cho anh biết. Một lần cách đây không lâu lắm, họ đang ở trong công viên với lũ trẻ, hai đứa đang chơi ở rìa, một chiếc ô tô đi chậm lại và người lái xe, đeo kính đen, nhìn chằm chằm lũ trẻ. Bạn trai cô đã làm cô và lũ nhóc hoảng sợ và bắt họ trở về nhà. Anh đã giải thích: “Gián điệp”. “Gì cơ?” “Không, không giống như những điệp viên CIA. Đó là những gián điệp kinh tế - từ những đối thủ cạnh tranh của công ty anh. Công ty của anh kiếm được sáu tỷ đô năm ngoái và anh chịu trách nhiệm một phần khá lớn trong số đó. Người ta sẽ muốn tìm ra những gì mà anh biết về thị trường.” “Các công ty khác thực sự làm điều đó?” Jeanne đã hỏi như vậy. “Em không bao giờ thực sự hiểu về lòng người.” Đó là câu trả lời của anh ấy. Và Jeanne Starke, với vết sẹo in hằn trên cánh tay - chỗ một vỏ chai whisky cắt một vài năm trước, đã nghĩ: Thật sự mình chưa bao giờ hiểu. Cô lau tay mình lên tấm tạp dề, bước về tấm rèm cửa và nhìn ra bên ngoài. Người đàn ông đã biến mất. Được rồi. Đừng có tự hù dọa mình nữa. Chỉ là... Nhưng khoan... Cô nhìn thấy chuyển động ở bậc thang trước cửa. Và tin rằng mình đã nhìn thấy góc của một chiếc túi - một chiếc túi đựng đồ mua sắm - nằm trên hành lang. Người đàn ông đó đang ở đây! Chuyện gì xảy ra vậy? Cô có nên gọi ngay cho bạn trai không? Hay là nên gọi cảnh sát? Nhưng họ phải mất mười phút để có thể tới đây. “Có ai đó ở ngoài cửa, mẹ ơi.” Britney gọi. Jeanne bước nhanh về phía trước. “Brit, con ở yên trong phòng đi. Mẹ sẽ ra xem Nhưng cô bé đang mở cánh cửa mất rồi. “Không!” Jeanne hét lên. Và nghe thấy: “Cảm ơn, con yêu”. Thompson Boyd nói với giọng lè nhè thân thiện khi bước vào trong ngôi nhà, tay cầm chiếc túi mà cô đã nhìn thấy. “Anh làm em sợ”, Jeanne nói. Cô ôm chầm lấy hắn và rồi hắn hôn cô. “Anh không tìm thấy chìa khóa.” “Anh về nhà sớm.” Hắn nhăn mặt. “Một vài vấn đề với cuộc thảo luận sáng hôm nay. Họ hoãn đến ngày mai. Anh đã nghĩ rằng mình cần về nhà và làm chút việc.” Đứa con gái khác của Jeaime, Lucy, tám tuổi, chạy vào hành lang. “Bố! Chúng con có thể xem Thẩm phán Judy không?” “Không phải hôm nay!” “Ứ ừ, đi mà. Cái gì trong túi vậy ạ?” “Đó là công việc bố cần phải làm. Và bố cần các con giúp.” Hắn đặt chiếc túi lên sàn nhà ở hành lang, nhìn hai cô bé một cách trịnh trọng và nói: “Các con sẵn sàng chưa?” “Rồi ạ!” Lucy nói. Brit, đứa lớn hơn, không nói gì, nhưng đó là vì sẽ chẳng hay nếu cũng đồng ý với em gái mình; cô bé hoàn toàn sẵn sàng giúp đỡ. “Sau khi chúng ta hoãn cuộc gặp lại, anh đi ra ngoài và mua những thứ này. Anh đã đọc kỹ hướng dẫn suốt cả buổi sáng hôm nay.” Thompson đưa tay vào trong tài và lấy ra vài hộp sơn, bọt biển, con lăn và bàn chải. Rồi hắn giơ quyển sách đầy những tấm dấu trang màu vàng: Trang trí nhà một cách dễ dàng. Tập 3: Trang trí phòng lũ trẻ. “Bố!” Britney nói. “Cho phòng chúng con ạ?” “Ừ”, hắn lè nhè. “Mẹ các con và ta chắc chắn không muốn Dumbo trên những bức tường.” “Bố định sơn Dumbo?” Lucy cau mày. “Con không muốn hình Dumbo.” Britney cũng vậy. “Bố sẽ vẽ bất cứ ai các con muốn.” “Để con xem trước!” Lucy lấy quyển sách từ tay hắn. “Không, con!” “Chúng ta sẽ xem cùng nhau”, Thompson nói. “Để bố treo áo khoác lên đã và cất va li đi nào.” Hắn bước về phòng làm việc của mình, ở phía trước của ngôi nhà. Quay trở lại căn bếp, Jeanne Starke nghĩ rằng mặc dù những chuyến đi dài liên miên, nỗi ám ảnh về công việc, có một sự thật là trái tim anh ấy không hề hòa chung với cả niềm vui hay nỗi buồn của anh ấy, sự thật là anh ấy không phải một người bạn trai lý tưởng, chà, cô biết rằng mình có thể làm rất nhiều những việc tồi tệ hơn trong căn hộ của người bạn trai. Chạy thoát khỏi cảnh sát từ căn hẻm ở gần sân trường Langston Hughes, Jax nhảy lên một chiếc taxi và nói với người lái xe hướng về phía nam, thật nhanh, thêm mười đô để vượt đèn đỏ. Rồi năm phút sau hắn lại bảo người lái xe vòng lại, thả hắn xuống không xa ngôi trường. Hắn đã may mắn trốn thoát. Cảnh sát rõ ràng là đang làm bất cứ điều gì cần thiết để ngăn những người khác tiếp cận cô bé. Jax cảm thấy không thoải mái, họ gần như đã biết về hắn. Liệu có phải thằng khốn nạn Ralph đã chơi xỏ hắn không? Chà, Jax cần phải khôn ngoan hơn một chút. Đó là điều mà hắn cần phải cố gắng làm lúc này. Giống như lúc ở trong tù - không bao giờ manh động cho tới khi kiểm tra hết mọi thứ. Và Jax biết cần phải tìm hỗ trợ ở đâu. Những gã đàn ông sống ở thành phố luôn luôn tập trung lại với nhau, dù trẻ hay già, đen hay trắng hoặc nói tiếng Tây Ban Nha, sống ở phía đông New York, Bay Ridge hay Astoria. Ở Harlem, họ sẽ tụ tập ở các nhà thờ, quán bar, các câu lạc bộ Rap hoặc Jazz và các quán cà phê, trong các phòng khách, trên ghế công viên và những bậc thềm. Họ sẽ ở trên những bậc thềm trước cửa và lối thoát hiểm vào mùa hè, quây quần xung quanh những thùng rác cháy vào mùa đông. Các tiệm cắt tóc nữa - giống như bộ phim một vài năm trước. (Tên thật của Jax, Alonzo, thực ra bắt nguồn từ Alonzo Henderson, cựu nô lệ ở bang Georgia đã trở thành triệu phú bằng việc gây dựng một chuỗi tiệm cắt tóc nổi tiếng - bố của Jax đã hy vọng động lực và tài năng của mình sẽ có ở đứa con trai, và đó hóa ra chỉ là một hy vọng hão huyền mà thôi). Nhưng địa điểm phổ biến nhất cho những người đàn ông tụ tập ở Harlem là sân bóng rổ. Họ đến đó để chơi bóng. Nhưng cũng đến chỉ để làm những việc linh tinh, giải quyết những vấn đề của thế giới, nói về điểm tốt và xấu của phụ nữ, tranh luận về thể thao, chửi nhau và chém gió - một phiên bản hiện đại và có tính chất kế thừa: Nghĩa là văn hóa truyền thống của người da đen, kể về những câu chuyện của các nhân vật huyền thoại giống như tên tội phạm Stackolee hay câu chuyện về người đốt lò trên tàu Titanic đã sống sót sau thảm họa đâm vào núi băng bằng cách bơi đến nơi an toàn. Jax đã tìm thấy công viên gần Langston Hughes nhất có một sân bóng rổ. Mặc dù không khí lạnh lẽo của mùa thu và mặt trời thấp lờ mờ, sân bóng rổ vẫn đầy người. Hắn trườn đến cái sân gần nhất và cởi chiếc áo khoác dã chiến ra, bọn cớm chắc hẳn là đã chú ý đến, xoay mặt trong ra ngoài và choàng nó qua cánh tay. Hắn dựa vào hàng rào sắt, hút thuốc và nhìn như một phiên bản lớn của Pharaoh Ralph. Hắn kéo cái khăn trùm xuống và chải chải cái đầu xù bằng những ngón tay. Khi quay đầu ra nhìn, hắn thấy một chiếc xe cảnh sát đi qua, chậm rãi, dọc con phố bên kia đường với sân chơi. Jax đứng yên chỗ cũ. Không có gì thu hút sự chú ý của lũ cớm nhanh hơn việc quay lưng bỏ đi khi thấy chúng (hắn đã bị chặn lại hàng chục lần vì vi phạm cái tội đi bộ và là người da đen). Ở sân bóng phía trước, một nhóm những cậu nhóc học sinh trung học đang chuyển động một cách khéo léo qua nửa sân trải nhựa màu xám, trong khi nhóm khác đang đứng nhìn. Jax nhìn quả bóng rổ màu nâu bụi bẩn đập xuống nền, rồi nghe thấy âm thanh nó chạm đất. Hắn nhìn những bàn tay tóm chặt, những thân thể lao vào nhau, nhìn quả bóng hướng về phía rổ. Chiếc xe cảnh sát biến mất, Jax nhổm ra khỏi hàng rào và tiến đến gần chỗ những cậu trai đứng ở rìa sân. Tên cựu phạm nhân nhìn lũ trẻ. Không có một tay anh chị nào, không một gã gangster với khẩu Glock. Chỉ là một túm học sinh trung học - một vài đứa có hình xăm, một vài đứa không, vài đứa thì đeo những sợi xích, vài đứa chỉ đeo đơn giản một cây thánh giá, vài đứa có ý đồ xấu, vài đứa thì tốt. Nhìn và trêu chọc những đứa con gái, bắt nạt và làm đại ca những đứa nhóc nhỏ hơn. Nói chuyện, tán gẫu, hút thuốc. Tận hưởng tuổi trẻ. Quan sát chúng, Jax lại chìm vào một giai điệu. Hắn đã từng mong muốn có một gia đình thật lớn, giống như rất nhiều những thứ khác, nhưng giấc mơ đó không bao giờ thành hiện thực. Hắn đã từng mất một đứa con vào trung tâm giáo dưỡng và một đứa trong chuyến đi định mệnh của bạn gái tới một phòng khá trên phố 125. Đó là tháng Một của một năm rất lâu rồi, với niềm hân hoan của Jax, cô ấy thông báo rằng mình đã có bầu. Đến tháng Ba, cô ấy cảm thấy đau và họ đã tới một phòng khám miễn phí, đó là lựa chọn duy nhất cho dịch vụ y tế của họ. Họ đã mất hàng tiếng đồng hồ trong căn phòng chờ bẩn thỉu, đông đúc và chật chội. Cho đến khi gặp được bác sĩ thì cô ấy đã bị sảy thai. Jax đã túm lấy và gần như đánh ông ấy một cách dã man. “Đó không phải lỗi của tôi”, người đàn ông Ấn Độ nhò bé nói, co rúm bên cạnh cái xe đẩy bệnh nhân. “Họ cắt bớt ngân sách của chúng tôi. Chính quyền thành phố đã làm điều đó. Nghe tôi nói đã.” Jax bị nhấn chìm trong giận dữ và tuyệt vọng. Hắn cần phải trả thù một kẻ nào đó, để bào đảm rằng điều này sẽ không xảy ra một lần nữa - với cô ấy và với bất cứ ai khác. Chẳng có sự an ủi nào khi ông bác sĩ giải thích rằng ít nhất họ đã giữ được mạng sống của cô bạn gái - một điều mà có thể không thể xảy ra nếu như kế hoạch về cắt giảm ngân sách cho việc chăm sóc sức khỏe dành cho người nghèo được thông qua. Chính quyền kiểu gì mà lại làm điều đó với nhân dân? Chẳng phải nhiệm vụ của Tòa thị chính thành phố và chính quyền bang là vì lợi ích của công dân đó sao? Làm thế nào mà họ có thể để một đứa bé chết như vậy chứ? Cả bác sĩ, lẫn cảnh sát dẫn hắn ra khỏi cái bệnh viện đêm hôm đó trong chiếc còng tay, đều không trả lời được cho những câu hỏi ấy. Nỗi đau và sự tức giận tột cùng của ký ức ấy càng khiến hắn quyết tâm hơn để vượt qua cái hắn đang làm lúc này. Khuôn mặt nghiêm trọng, Jax quan sát lũ trẻ trên sân bóng và hất đầu về phía cậu trai mà hắn cho là thủ lĩnh hoặc cầm đầu. Mặc chiếc quần hộp lửng nhiều túi, đôi giày ống cao và áo thun thể thao. Tóc để kiểu gumby - mỏng ở một bên, rồi chải phồng cao lên ở bên kia. Cậu nhóc nhìn hắn. “Gì thế lão già?” Tiếng cười ha hả từ những đứa khác. Lão già. Ở Harlem trước đây - chà, có lẽ là người già ở bất cứ đâu - là một người trưởng thành cần có được sự tôn trọng. Giờ thì nó khiến ta cảm thấy khó chịu. Một dân chơi có thể đã rút súng ra khỏi tất và làm cho thằng nhóc kia nhảy dựng lên. Nhưng Jax đã được dùi mài qua nhiều năm sống đường phố, hằng năm trời ngồi bóc lịch và biết rằng đó không phải là cách để giải quyết, không phải ở đây. Hắn cười. Rồi thì thầm: “Có thích vài trăm đô không?”. “Ông muốn à?” “Ta muốn đưa cho cậu vài tờ. Nếu cậu muốn, đồ khỉ.” Jax vỗ vỗ túi áo, chỗ tập tiền đang phồng lên. “Tôi chẳng buôn bán cái gì cả.” “Tôi chẳng mua cái mà cậu nghĩ đâu. Nào. Lại đây xem nào.” Cậu nhóc gật đầu và họ đi khỏi sân bóng. Khi bước đi, Jax cảm thấy cậu ta đang quan sát hắn, để ý thấy cái chân khập khiễng. Chà, đó là cái chân tôi bị bắn nhưng cũng có thể là một cái chân của một tay anh chị thứ thiệt. Rồi cậu ta nhìn vào đôi mắt của Jax, lạnh lùng như bụi bần, rồi cơ bắp và những hình xăm tù. Có thể đang nghĩ: Với tầm tuổi của Jax có thể đã khiến hắn trờ thành một thủ lĩnh cao trong các băng đảng - người mà ta dây dưa thì chỉ đem lại hiểm họa và phiền toái. Những thủ lĩnh trong các băng đảng có vũ khí AK và Uzis cộng với Hummers cũng như cả tá côn đồ vây xung quanh. Họ sử dụng những đứa nhóc mười hai tuổi để bắn các nhân chứng và các tay buôn ma túy kình địch bởi pháp luật không thể giam giữ chúng suốt đời, trừ khi chúng mười bảy hay mười tám tuổi. Một dân anh chị thứ thiệt có thể đập bạn một trận bầm giập nếu bạn gọi ông ta là “lão già”. Thằng nhóc bắt đầu nhìn có vẻ e dè. “Chà, vậy chính xác thì ông muốn gì? Chúng ta đi đâu đây?” “Chỉ đến kia thôi. Tao không muốn nói chuyện trước cả lũ nhóc.” Jax dừng lại sau vài bụi cây. Đôi mắt thằng bé liếc quanh. Jax cười to. “Tao không làm gì mày đâu, nhóc.” Thằng bé cười theo. Nhưng dè dặt. “Được rồi.” “Tao cần phải tìm địa chỉ một đứa. Một đứa học ở Langston Hughes. Mày học ở đấy hả?” “Vâng, phần lớn chúng tôi.” Thằng nhóc hất đầu về phía sân bóng. “Tao đang tìm con bé trên bản tin thời sự sáng nay.” “Con bé ấy á? Geneva? Nó nhìn thấy ai đó bị bắn hay gì đó? Con đĩ toàn điểm A đấy á?” “Tao không biết. Nó toàn được điểm A?” “Đúng. Nó thông minh.” “Nó sống ở đâu?” Thằng bé im lặng, dò xét thận trọng. Tranh đấu. Liệu nó có bị đập một trận nếu hỏi thứ mà nó muốn không nhỉ? Nó quyết định, chắc là không, “Ông vừa nói về tiền?” Jax đưa cho nó vài tờ đô la. “Tôi không biết con điếm ấy. Nhưng tôi có thể liên lạc với một người anh em biết rõ điều đó. Tên người anh em của tôi là Kevin. Muốn tôi gọi cho nó chứ?” “Được.” Một chiếc điện thoại bé xíu được lôi ra từ tủi quần của thằng nhóc. “Này, tao, Willy đây... Sân bóng rổ... Ừ, nghe này, có một ông già ở đây với một đống tiền, đang tìm con điếm của mày đấy... Geneva. Con chó nhà Settle... Này, đùa thôi mà, mày biết tao đang nói gì chứ?... Được rổi. Giờ thì ông này muốn...” Jax giật lấy cái điện thoại từ tay thằng nhóc và nói: “Hai trăm đô, đưa địa chỉ con bé đây cho tao”. Do dự một chút. “Tiền mặt?”, Kevin hỏi. “Không”, Jax đùa cợt: “Chuyển phát chậm America. Ừ, tiền mặt”. “Tôi sẽ đi tới sân bóng, ông có tiền sẵn đấy rồi chứ?” “Ừ. Nó đang nằm ngay cạnh khẩu côn của tao, nếu mày thích. Và khi nói ‘côn’,tao không ám chỉ cái chai bia bốn mươi độ[37] đâu.” [37] Nguyên văn: “malt in a forty” - một loại bia malt liquor có tên là Colt 45; giống với cách gọi khẩu súng côn. “Được rồi. Chỉ hỏi vậy thôi. Tôi không phải một mình đi vòng quanh để kiếm người đâu.” “Tao sẽ đi với đội của mình”, Jax nói, cười nhăn nhở với Willy đang lóng cóng. Hắn tắt điện thoại và quăng nó cho thằng nhóc rồi đi về phía hàng rào và dựa vào nó, nhìn trận bóng. Mười phút sau Kevin đến - khác với Willy, nó là một tay chơi thực sự, cao, đẹp trai, hiên ngang. Nhìn giống như một diễn viên nào đó mà Jax không nhớ ra tên. Để biểu diễn với bạn bè, cho thấy nó chả háo hức gì lắm với việc kiếm vài tờ một trăm đô - và tất nhiên, cũng để gây ấn tượng với một vài đứa con gái - Kevin rất chậm rãi. Dừng lại, chạm những nắm đấm vào nhau, ôm lấy một hay hai thằng nhóc. Thốt lên cái câu “Chà chà, người anh em” một vài lần, rồi bước vào sân, lấy trái bóng và thực hiện một vài cú úp rổ khá ấn tượng. Hắn cũng có thể thực hiện cú nhảy úp bóng vào rổ, chẳng có gì thắc mắc hết. Cuối cùng Kevin nhảy về phía Jax và quan sát hắn, bởi đó là điều mà ta làm khi một kẻ lạ mặt bước vào giữa một đám đông - dù cho đó là trên một sân bóng rổ hay là trong một quán bar hoặc thậm chí là một tiệm cắt tóc của Alonzo Henderson thời Victoria, Jax đoán vậy. Kevin đang cố gắng tìm xem Jax giấu khẩu súng ở đâu, liệu Jax có được bao nhiêu tiền và hắn định làm gì. Jax hỏi: “Nói tao biết xem mày định dò xét tao bao lâu nữa nào? Nó làm tao phát ngán rồi đấy”. Kevin không cười. “Tiền đâu?” Jax đưa nó tiền. “Con nhãi đó ở đâu?” “Đợi nào. Tôi sẽ chỉ cho ông.” “Chỉ cần đọc địa chỉ đây.” “Ông sợ tôi à?” “Chỉ cần đưa địa chỉ đây.” Đôi mắt nhìn không hề nao núng. Kevin cười nhe răng. “Tôi không biết số nhà. Tôi biết ngôi nhà nào thôi. Tôi đã đưa con bé về nhà mùa xuân vừa rồi. Tôi sẽ chỉ nó cho ông.” Jax gật đầu. Họ bắt đầu bước về phía tây rồi hướng xuống phía nam, khiến Jax rất ngạc nhiên; hắn cứ nghĩ rằng cô phải sống ở một trong những khu ổ chuột khó khăn - xa hơn về phía bắc theo dòng Harlem, hoặc phía đông. Những con phố ở đây không rực rỡ nhưng rất sạch sẽ và có vẻ như rất nhiều căn nhà ở đây mới được xây dựng lại. Và cũng có rất nhiều công trình mới đang được thực hiện. Jax cau mày, nhìn quanh khu phố xinh đẹp. “Mày có chắc là ta đang nói về “Đó là con nhãi mà ông hỏi. Đó là ngôi nhà mà tôi muốn chỉ cho ông thấy... Chà, ông có muốn mua một ít cỏ, hay là đá không? “Không.” “Ông chắc chứ? Tôi có vài cái tốt lắm.” “Thật đáng xấu hổ, mày sẽ sớm điếc và mất hết khi chưa già con ạ.” Kevin nhún vai. Họ bước tới một dãy phố gần công viên Momingside. Trên đỉnh một con dốc lát đá là khuôn viên trường Đại học Columbia, một địa điểm thường xuyên bị hắn đánh bom với dòng chữ Jax 157 nhiều năm về trước. Họ bắt đầu rẽ về góc đường nhưng cả hai dừng lại nhanh. “Này, nhìn đi”, Kevin thì thầm. Có một chiếc Crown Vic - rõ ràng là một xe cảnh sát ngầm - đỗ song song với một hàng xe khác phía trước một tòa nhà cũ kỹ. “Đó là nhà nó hả? Chỗ cái xe đậu phía trước kia?” “Không. Nhà của nó cách đấy hai căn về phía chúng ta. Kia kìa.” Cậu nhóc chỉ. Đó là một ngôi nhà cũ nhưng vẫn còn khá đẹp và chắc chắn. Những bông hoa trrên các cửa sổ, mọi thứ đều sạch sẽ. Rèm cửa xinh xắn. Nước sơn nhìn có vẻ mới. Kevin hỏi: “Ông sẽ cho nó một trận hả?”, rồi nhìn Jax dò xét từ đầu đến chân. “Định làm gì là việc của tao.” “Việc của ông... Hẳn nhiên là thế rồi.” Kevin nói với một giọng nhỏ nhẹ. “Chỉ là... Lý do tôi hỏi là, bởi vì nếu như nó sắp gặp rắc rối với ông - mà tôi thì chả vấn đề gì với việc đó cả, ý tôi đang nói là - nếu có chuyện gì xảy ra với nó, chà, nghĩ thử xem: Tôi sẽ biết đó là ông. Và có thể sẽ có ai đó đến và nói chuyện với tôi về điều này. Nên, tôi đang nghĩ, với cả đống tiền ông nhét trong túi áo mình kia, có lẽ nên san sẻ cho tôi một ít nữa, tôi thậm chí có thể sẽ quên là đã từng gặp ông luôn. Mặt khác, cũng có khả năng là tôi sẽ nhớ rất nhiều về ông cũng như việc ông hỏi về con đĩ con này.” Jax là một tay giang hồ từng trải. Từng là vua Graffiti, từng là một người lính trong ến dịch Bão Cát Sa Mạc, biết những tay anh chị trong tù và bên ngoài, đã từng bị bắn vào... Nếu như có một luật lệ trong cái thế giới điên khùng này thì chính là dù ta cho rằng mọi người ngu ngốc đến thế nào đi nữa, thậm chí họ vẫn luôn vui vẻ nếu là những kẻ ngốc. Trong một phần triệu giây, Jax chộp lấy cổ áo thằng bé với bàn tay trái và vung nắm đấm thật mạnh vào bụng nó, ba lần, bốn, năm... “Mẹ kiếp…” Đó là tất cả những gì thằng nhóc kịp thốt ra. Cách ta chiến đấu trong tù. Đừng bao giờ cho chúng nó cơ hội để lấy lại thế. Một lần nữa, một lần nữa, một lần nữa... Jax thả nó ra và thằng nhóc chuồn thật nhanh vào con hẻm, rên rỉ đau đớn. Thận trọng và chậm rãi như một vận động viên bóng chày nhấc cây gậy lên, Jax cúi thật thấp và lôi khẩu súng ra khỏi tất. Trong khi Kevin nhìn theo một cách bất lực, tên cựu phạm nhân nhét một viên đạn vào trong khẩu súng rồi quấn chiếc khăn trùm của hắn quanh súng nhiều vòng. Jax đã học điều này từ DeLisle Marshall ở nhà S, là một trong những cách tốt nhất và tiết kiệm nhất để bịt tiếng súng nổ.