Hàng trăm feet dưới Tronjheim, tảng đá mở ra 1 cái hang động sâu hàng nghìn feet dẫn tới 1 hồ màu đen tĩnh lặng 1 bên không biết sâu bao nhiêu,bờ bên kia là đá cẩm thạch. Những nhũ đá màu nâu, hơi ngà ngà nhỏ giọt trên trần hang, trong khi những nhũ đã khác mọc lên từ nền hang, tạo thành cột hình trụ phình to, dày hơn cả những cây lớn nhất ở Du Weldenvarden. Rải rác trên các cột nhũ là những ụ nấm to như những cái lều đá loại thấp cho từ 3 đến 20 người ở.ngọn lửa không bao jờ tắt từ những chiếc đèn chihếu ánh sáng đỏ rực của sắt lên mỗi cánh cửa gần đó.bóng tối phủ kín khoảng đất đằng sau mấy cái đèn. Bên trong 1 cái lều, Eragon ngồi trên cái ghế dường như quá nhỏ cho nó, bên cạnh cái bàn bằng đá granite cũng không cao hơn đầu của nó. Mùi của phó-mát dê loại mềm, những miếng nấm mỏng, men rượu, thịt hầm, trứng chim bồ câu, bụi than tràn ngập trong không khí. Ngồi đối diện nó, Glûmra, 1 phụ nữ người lùn thuộc Gia Đình Mord, bà ta là mẹ của Kvîstor, cận vệ thân cận của Eragon, đang rên rỉ và lấy nắm tay đấm vào ngực mà than khóc. Nước mắt của bà sáng long lanh trên khuôn mặt tròn trĩnh. 2 người bọn nó ngồi 1 mình trong lều. 4 cận vệ mới của Eragon- được Thrand bổ sung, bao gồm 1 chiến binh từ đoàn tùy tùng của Orik- đang đợi bên ngoài, cùng với Hûndfast, thông dịch viên, người mà Eragon đã cho ra ngoài lều khi nó biết là Glûmra có thể nói tiếng của nó. Ngay sau vụ mưu hại nó, Eragon đã liên lạc với Orik bằng tinh thần, và rồi Orik nài nỉ nó chạy thật nhanh đến những căn phòng dưới Ingeitum, nơi mà nó thật sự an toàn tránh khỏi bất kì vụ ám sát nào khác. Eragon nghe theo, và hiện jờ nó vẫn đang ở đây, trong khi Orik ra lệnh hoãn cuộc họp bộ tộc lại đến sáng ngày mai, trên mặt đất tình trạng khẩn cấp được ban bố nên sự quyết định nhanh chóng của ông là cần thiết. Sau đó Orik cùng với những chiến binh dũng mãnh nhất và những phù thủy lão luyện nhất, đến địa điểm phuc kích, rồi bọn họ xem xét và ghi chép lại bằng cả 2 cách, phép thuật và phi phép thuật. Sau khi đã hài lòng về những jì tìm hiểu được, Orik nhanh chóng chạy về căn hầm của nó, và nói với Eragon, “Chúng tôi có nhiều việc để làm nhưng có wá ít thời gian để hoàn thành chúng. Trước khi buổi họp bộ tộc bắt đầu lại vào giờ thứ 3 của buổi sáng ngày mai, chúng ta phải tìm ra tất cả sự nghi ngờ về kẻ đã ra lệnh ám sát. Nếu chúng ta làm được, chúng ta sẽ có thể sử dụng chúng để chống lại kẻ thù, Nếu không, chúng ta sẽ bị động trong bóng tối, đối với kẻ địch. Chúng ta chỉ có thể giữ bí mật vụ ám sát đến cuộc họp bộ tộc, không thể lâu hơn. Knurlan đã nghe được tiếng đánh nhau của ngài vang khắp đường hầm dưới Tronjheim, mặc dù thế, tôi biết bọn họ sẽ tìm khiếm nguyên nhân của sự náo loạn, e rằng có thể có sự sụp đổ, hoặc những tai họa tương tự vậy xảy ra, tàn phá thành phố ngay trên đầu chúng ta”. Orik giậm đôi chân và nguyền rủa tổ tiên bất cứ người nào đã gửi tên thích khách đến, rồi ông chống tay lên hông và nói: “Một cuộc chiến tranh giữa các bộ tộc đã đang đe dọa chúng tôi rồi, nó đang đứng trước ngưỡng cửa. chúng ta phải nhanh chóng di chuyển nếu chúng ta muốn ngăn chặn định mệnh nghiệt ngã này. Knurlan đang tìm kiếm chúng ta, câu hỏi cần được trả lời, lời đe dọa phải đáp trả, vật hối lộ cần cung cấp, và cuộn giấy phải đánh cắp – và tất cả phải làm trước buổi sáng ngày mai!” “Còn tôi thì sao?” Eragon hỏi. “Ngài vẫn nên ở đây cho đến khi chúng ta biết Az Sweldn rak Anhûin hay các bộ tộc khác có 1 lực lượng lớn ở đâu đó muốn giết ngài. Hơn nữa, chúng ta giấu kín vụ mưu sát ngài và chuyện ngài còn sống đã chết hay bị thương càng lâu, thì kẻ tấn công càng không chắc chắn lắm về sự an toàn của hắn”. Ban đầu, Eragon đồng ý với đề xuất của Orik, nhưng sau khi nhìn những người lùn hối hả bàn tán, nó cảm thấy sự khó khăn và bất lực tăng dần lên. Cuối cùng, nó chộp lấy Orik và nói : “Nếu tôi phải ngồi đây, nhìn chòng chọc vào bức tường này trong khi các ông tìm kẻ gây ra zụ này, thì tôi sẽ nghiến răng trèo trẹo mất.” Phải có cái jì đó để tôi làm giúp các ông chứ… còn Kvîstor thì sao? chúng ta phải làm jì đó cho gia đình của anh ta ở Tronjheim này chứ? Có ai nói cho bọn họ về cái chết của anh ta chưa? Bởi vì nếu chưa, tôi sẽ là người đưa tin tức đó, vì bảo vệ tôi, anh ấy đã chết.” Orik hỏi cận vệ của ông, và từ bọn họ, ông biết là quả thực ở Tronjheim, Kvîstor có gia đình , và chính xác hơn là ở bên dưới Tronjheim. Nghe xong, Orik cau mày và lẩm bẩm 1 từ kì quặc với Dwarvish. “Bọn họ là những người rất khó hiểu”, ông nói, “ Knurlan là người đã từ bỏ mặt đất để xuống thế giới dưới lòng đất, ngoại trừ 1 vài lần cướp bóc trên mặt đất. Rất nhiều người trong số bọn họ sống ở đây, dưới Tronjheim và Farthen Dûr hơn bất kì nơi bào khác, bởi vì bọn họ có thể thoát ra khỏi Farthen Dûr và không thể chắc chắn rằng bọn họ có ở bên ngoài hay ko, vì hầu hết bọn họ không thể sinh sản, bọn họ đã làm quen với việc giảm không gian sinh sống. Tôi không biết là Kvîstor cũng thuộc số đó.” “Ông có phiền nếu tôi đi thăm gia đình của anh ta ko?” Eragon hỏi.” trong những phòng này, có những bậc thang dẫn xuống dưới, đúng ko? Chúng ta có thể đi mà không bị ai phát hiện.” Orik suy nghĩ trong giây lát, rồi gật đầu”. Ngài nói đúng. Con đường đủ an toàn, và không 1 ai sẽ nghĩ rằng sẽ tìm thấy ngài giữa những người kì bí đó.bọn chúng sẽ đến đây đầu tiên, rồi từ đây chúng sẽ phải tìm cách khác để truy tìm ngài… Hãy đi, và đừng way trở lại cho đến khi tôi gửi thông điệp tới ngài, cho dù Gia Đình Của Mord có xua đuổi ngài đi chăng nữa, thì ngài cũng phải ngồi trên 1 tảng măng đá cho đến khi trời sáng. Nhưng, Eragon, ngài phải cẩn thận; những người kì bí đó giữ kín lòng họ, và bọn họ rất coi trọng danh dự của bộ tộc, và bọn họ có những phong tục riêng rất kì lạ. Bước đi cẩn thận, bởi vì ngài đang đứng trên những tảng đá phiến sét mục,eh?” Và vì thế, cùng với cận vệ Thrand bổ sung, và Hûndfast đi cùng, Eragon- với 1 cây kiếm của người lùn dắt vào thắt lưng-tiến đến cầu thang dẫn xuống dưới gần nó nhất, và đi vào đó, nó tiến xuống sâu hơn vào lòng đất mà trước jờ nó chưa từng đặt chân đến. và đến đúng lúc thích hợp, nó báo tin cho Glûmra về cái chết của Kvîstor, vá nó ngồi xuống lắng nghe bà than khóc về đứa con xấu số của mình, xen lẫn trong đó là tiếng gào thét đứt đoạn, không rõ tiếng của Dwarvish, âm điệu rất chói tai và rùng rợn. Lúng túng vì cường độ nỗi đau của bà ta, Eragon liếc mắt ra khỏi khuôn mặt bà. Nó nhìn cái bếp lò bằng đá màu lục đứng dựa vào một bức tường và những vết khắc mòn vẹt mô tả các mẫu hình vẽ trang trí các cạnh. Nó xem xét tấm thảm màu nâu và lục trải trước lò sưởi, thùng đánh kem ở góc, và thực phẩm dự trữ treo thòng xuống từ xà nhà. Nó nhìn chằm chằm một khung dệt vải bằng gỗ nặng đứng dưới một cửa sổ tròn với kính bằng thủy tinh màu hoa oải hương. Rồi, than khóc đến đỉnh điểm, Glûmra lôi kéo ánh mắt Eragon khi bà đứng dậy khỏi cái bàn, đến chỗ bàn bếp, và đặt bàn tay trái lên cái thớt. Trước khi Eragon kịp ngăn lại, bà ta lấy ra một con dao lạng thịt và cắt đứt một lóng ngón tay út của mình. Bà ta rên rỉ và kêu to gấp đôi. Eragon bật dậy nửa chừng với một tiếng kêu không chủ ý. Nó thắc mắc cơn loạn trí nào đã khiến bà lùn mất tự chủ và liệu nó có nên cố kìm nén bà ta không, sợ rằng bà ta sẽ tự gây thêm thương tích cho bản thân. Nó mở miệng định hỏi liệu bà ta có muốn nó chữa trị vết thương không, nhưng rồi nó đổi ý, nhớ lại những lời cảnh báo của Orik về những tục lệ kỳ quặc của những cư dân dưới lòng đất và ý thức mạnh mẽ về danh dự. Bà ta có thể sẽ coi lời đề nghị là một sự sỉ nhục, nó nhận ra. Ngậm miệng lại, nó lại ngồi xuống cái ghế nhỏ quá cỡ của mình. Sau một lát, Glûmra ngồi thẳng lại, hít sâu một hơi, rồi lặng lẽ và điềm tĩnh rửa sạch đầu ngón tay chảy máu của mình bằng rượu mạnh, bôi lên đó một thứ thuốc mỡ màu vàng, và băng bó vết thương. Khuôn mặt tròn vành vạnh vẫn còn tái nhợt vì cú sốc, bà ngồi vào cái ghế đối diện Eragon. “Tôi cảm ơn cậu, Khắc-tinh của Tà-thần, vì đã đích thân mang đến cho tôi tin tức về số phận đứa con tôi. Tôi mừng vì biết nó đã chết một cách kiêu hãnh, một chiến binh cần phải vậy.” “Ông ấy là người can đảm nhất,” Eragon nói. “Ông ấy có thấy rằng kẻ thù nhanh nhẹn như thần tiên, nhưng ông ấy vẫn xông tới để bảo vệ tôi. Sự hi sinh của ông ấy cho tôi thời gian để tránh những lưỡi dao, đồng thời để lộ sự nguy hiểm của bùa phép mà chúng yểm lên vũ khí. Nếu không có hành động của ông, tôi không nghĩ hiện giờ tôi có thể ở đây.” Glûmra chậm rãi gật đầu, mắt nhìn xuống, vuốt phẳng mặt trước áo váy. “Cậu có biết ai đứng sau cuộc tấn công này không, Khắc-tinh của Tà-thần?” “Chúng tôi chỉ nghi ngờ thôi. Grimstborith Orik đang cố xác minh sự thật ngay lúc chúng ta trò chuyện.” “Có phải là Az Sweldn rak Anhûin?” Glûmra hỏi, phỏng đoán sắc sảo của bà khiến Eragon ngạc nhiên. Nó cố hết sức che đậy phản ứng của mình. Trong lúc nó im lặng, bà nói, “Tất cả chúng tôi đều biết mối huyết thù của chúng đối với cậu, Argetlam; mọi knurla trong dãy núi này đều biết. Vài người trong chúng tôi đã ủng hộ sự chống đối của chúng, nhưng nếu chúng thực sự tính đến chuyện giết cậu, thì chúng đã tính lầm hướng của đá và đã tự kết tội mình vì điều đó.” Eragon nhướn một bên lông mày, chăm chú. “Kết tội? Như thế nào?” “Chính là cậu, Khắc-tinh của Tà-thần, đã kết liễu Durza, do đó giúp chúng tôi bảo vệ Tronjheim và sự sống bên dưới thoát khỏi nanh vuốt của Galbatorix. Chủng tộc chúng tôi sẽ không bao giờ quên điều đó khi mà Tronjheim vẫn còn đứng vững. Và có lời đồn từ các đường hầm rằng rồng của cậu sẽ khôi phục lại Isidar Mithrim?” Eragon gật đầu. “Cậu thật tốt, Khắc-tinh của Tà-thần. Cậu đã làm nhiều điều cho chủng tộc chúng tôi, và dù bất cứ tộc nào đã tấn công cậu, chúng tôi sẽ chống lại chúng và báo thù.” “Tôi đã thề trước các nhân chứng,” Eragon nói, “và tôi thề với bà nữa, rằng tôi sẽ trừng trị bất cứ kẻ nào đã phái những tên sát nhân đâm sau lưng đó tới và tôi sẽ buộc chúng phải ước chưa bao giờ nghĩ ra một việc làm bẩn thỉu đến vậy. Tuy nhiên –” “Cảm ơn cậu, Khắc-tinh của Tà-thần.” Eragon lưỡng lự, rồi cúi đầu. “Tuy nhiên chúng tôi không được phép làm bất cứ điều gì có thể dẫn động chiến tranh thị tộc. Không phải lúc này. Nếu phải dùng đến vũ lực, chính Grimstborith Orik sẽ quyết định khi nào và ở đâu chúng tôi phải rút kiếm, bà đồng ý chứ?” “Tôi sẽ nghĩ về những điều cậu nói, Khắc-tinh của Tà-thần,” Glûmra đáp. “Orik…” Điều bà ta định nói tiếp nghẹn lại trong miệng bà. Mí mắt dày của bà ta sụp xuống và bà ta nghiêng ra trước một lát, nhấn bàn tay thương tật lên bụng. Khi cơn đau qua đi, bà đứng thẳng dậy và áp mu bàn tay lên má bên kia và lắc lư sang hai bên, than van, “Ôi, con trai tôi… con trai đẹp đẽ của tôi.” Đứng dậy, bà lảo đảo đi vòng qua cái bàn, hướng về phía một bộ sưu tập nhỏ gồm kiếm và rìu gắn trên tường sau lưng Eragon, bên cạnh là một hốc tường phủ một tấm màn lụa đỏ. Sợ bà ta định gây thêm thương tích cho bản thân, Eragon bật dậy, hất đổ nhào cái ghế gỗ sồi trong cơn hấp tấp. Nó với đến chỗ bà ta, rồi nhận ra bà ta đang đi về phía hốc tường phủ vải, chứ không phải đám vũ khí, và nó giật tay mình về trước khi mạo phạm. Những cái khoen bằng đồng thau khâu ở mép trên mảnh lụa va vào nhau lách cách khi Glûmra dẹp mảnh lụa sang một bên, làm lộ ra một cái kệ sâu, bị che khuất, chạm khắc những dấu hiệu và hình thù chi tiết đến kinh ngạc, Eragon nghĩ nó có thể ngắm nhìn hàng giờ mà vẫn không thể nắm bắt được chúng trọn vẹn. Trên cái kệ thấp là tượng sáu vị thần lớn của người lùn, cùng với chín thực thể khác mà Eragon không nhận ra, tất cả được chạm trổ với những đường nét và tư thế được cường điệu hóa nhằm truyền đạt hiệu quả hơn những đặc tính của hình tượng được miêu tả. Glûmra lấy ra một cái bùa bằng vàng và bạc từ lớp áo lót, hôn lên nó rồi áp nó vào chỗ hõm ở cổ họng mình khi bà quỳ xuống trước hốc tường. Giọng thăng giáng trong những đoạn nhạc kì lạ của người lùn, bà bắt đầu ngâm nga một khúc ai ca bằng ngôn ngữ của mình. Giai điệu làm mắt Eragon nhỏ lệ. Trong vài phút, Glûmra hát, rồi chìm vào im lặng và tiếp tục nhìn chằm chằm những bức tượng nhỏ, và khi bà nhìn chúng, những đường nét trên khuôn mặt bị đau buồn tàn phá của bà dịu đi. Và nếu trước đó trên mặt bà Eragon chỉ thấy có giận dữ, đau khổ, và tuyệt vọng, thì giờ đây lại mang một khí sắc chấp nhận điềm tĩnh, sự thanh thản, cùng một vẻ siêu nghiệm uy nghi. Một ánh sáng êm dịu dường như tỏa ra từ nét mặt bà. Khi sự biến đổi của Glûmra hoàn tất, Eragon gần như không nhận ra bà ta. Bà nói, “Tối nay Kvîstor sẽ dùng bữa trong lâu đài của Morgothal. Tôi biết điều đó.” Bà hôn cái bùa một lần nữa. “Tôi ước tôi có thể ăn cùng nó, cùng với chồng tôi, Bauden, nhưng mà vẫn chưa đến lúc tôi được nghỉ ngơi trong hầm mộ của Tronjheim, và Morgothal từ chối cho những ai đẩy nhanh hành trình của mình vào lâu đài của ngài. Nhưng dù sớm hay muộn, gia đình tôi sẽ lại đoàn tụ, cùng với tất cả những tổ tiên của chúng tôi từ khi Gûntera sáng tạo ra thế giới từ bóng tối. Tôi biết điều đó.” Eragon quỳ xuống cạnh bà, giọng khàn khàn, nó hỏi, “Làm sao bà biết?” “Tôi biết vì nó là như thế.” Cử động chậm rãi và kính cẩn, Glûmra chạm đầu ngón tay vào những bàn chân chạm trổ của những ông thần. “Làm sao có thể khác được? Bởi vì thế giới, cũng như một lưỡi gươm hay một chiếc mũ giáp, không thể tự tạo ra nó, và bởi những đấng duy nhất đủ năng lực để tạo hình cho cõi trần và thiên đường là những đấng quyền năng siêu phàm, cho nên chúng ta phải tìm kiếm câu trả lời ở những vị thần. Tôi tin tưởng giao phó cho họ sự công bằng của thế giới, và nhờ niềm tin của tôi, tôi giải phóng con người tôi khỏi gánh nặng của xác thịt tôi.” Bà nói với một sự tin tưởng đến mức, Eragon đột nhiên cảm thấy muốn được chia sẻ niềm tin với bà ta. Nó ao ước được quẳng sang một bên những ngờ vực và sợ hãi của mình để biết rằng, đôi lúc dù thế giới có thể xấu xa đến đâu, cuộc sống cũng không phải chỉ đơn thuần là hỗn loạn. Nó ao ước được biết chắc rằng cuộc đời nó sẽ không chấm dứt ngay cả khi một thanh kiếm chặt lìa đầu nó và rằng một ngày nó sẽ được gặp lại ông Brom, cậu Garrow, và mọi người khác mà nó đã quan tâm và đã đánh mất. Một khát khao dữ dội được hy vọng và an ủi tràn ngập trong nó, khiến nó rối loạn, để lại nó chấp chới trên bề mặt quả đất. Còn lúc này. Một phần trong nó do dự không cho phép nó tự giao mình cho những vị thần người lùn và trói buộc nhân dạng và ý thức về phúc lợi của mình vào một thứ mà nó không hiểu. Nó cũng thấy khó khăn khi phải thừa nhận rằng nếu các vị thần thực sự tồn tại, thì những vị thần người lùn là duy nhất. Eragon chắc chắn là nếu nó hỏi Nar Garzhvog hay một thành viên của những bộ lạc du mục, hay thậm chí là những linh mục áo đen của Helgrind, rằng thần của họ có thật hay không, họ cũng sẽ tán dương uy thế những vị thần của họ một cách sôi nổi y như Glûmra vậy. Mình phải làm sao để biết tín ngưỡng nào là tín ngưỡng đích thực? nó tự hỏi. Chỉ vì một ai đó theo một đức tin nào đó không nhất thiết có nghĩa đó là con đường đúng…. Có lẽ không một tín ngưỡng nào chứa đựng toàn bộ sự thực về vạn vật. Có lẽ mỗi tín ngưỡng chứa đựng một mảnh rời của sự thực và trách nhiệm của chúng ta là nhận biết những mảnh rời đó và hợp nhất chúng lại. Hoặc có lẽ những thần tiên đã đúng và không hề có thần. Nhưng làm sao mình biết chắc? Thở dài thật dài, Glûmra lẩm nhẩm mấy từ bằng tiếng Người lùn, rồi đứng dậy và kéo tầm màn lụa phủ lên hốc tường. Eragon cũng đứng dậy, nhăn mặt khi những cơ bắp đau nhức vì trận chiến giãn ra. Nó theo bà đến chỗ cái bàn, rồi ngồi lại vào ghế. Từ một tủ đá đặt trong tường, bà lùn lấy ra hai cái vại thiếc, rồi lấy ra hai túi đầy rượu treo trên trần và rót ra cho cả bà và Eragon. Bà đưa vại của mình lên và phát biểu một lời nâng cốc uống mừng bằng tiếng Người lùn, mà Eragon cố gắng bắt chước, rồi họ uống. “Thật là tốt,” Glûmra nói, “khi biết rằng Kvîstor vẫn sống tiếp, khi biết rằng ngay lúc này nó được khoác áo choàng hợp với một ông vua trong khi hưởng thụ bữa tiệc tối trong lâu đài của Morgothal. Cầu mong nó giành được nhiều vinh quang khi phục vụ các vị thần!” và bà lại uống. Khi nó đã uống cạn, Eragon định chào từ biệt Glûmra, nhưng bà khoát tay ngăn nó. “Cậu có chỗ ở chưa, Khắc-tinh của Tà-thần, an toàn khỏi những kẻ muốn giết cậu?” Eragon liền nói với bà việc nó phải ẩn mình bên dưới Tronjheim cho đến khi Orik gửi người đưa tin đến. Glûmra gật đầu với một cái giật cằm gọn và dứt khoát, nói, “Vậy thì cậu và người của cậu phải đợi ở đây cho đến khi sứ giả đến, Khắc-tinh của Tà-thần à. Tôi nhất quyết như thế.” Eragon bắt đầu phản đối, nhưng bà lắc đầu. “Tôi không thể để những người đã chiến đấu cùng con trai tôi phải chờ mòn mỏi trong mấy cái hang vừa ẩm vừa tối khi mà tôi vẫn còn sự sống trong xương của tôi. Cho gọi người của cậu đi, chúng ta sẽ ăn và vui vẻ trong buổi tối ảm đạm này.” Eragon nhận ra nó không thể rời đi mà không làm Glûmra phật ý, nên nó gọi mấy người lính và người phiên dịch của nó. Họ cùng nhau giúp Glûmra chuẩn bị bữa tối gồm bánh mì, thịt, bánh nướng, và khi mọi thứ đã xong, bọn họ cùng ăn uống và nói chuyện đến tối muộn. Glûmra đặc biệt sôi nổi; bà uống nhiều nhất, cười lớn nhất, và luôn luôn là người đầu tiên đưa ra những nhận xét hóm hỉnh. Ban đầu Eragon bị sốc vì cách cư xử của bà, nhưng rồi nó nhận thấy những nụ cười của bà không bao giờ với tới đôi mắt bà, và khi bà nghĩ không có ai nhìn, niềm vui rút khỏi gương mặt bà và biểu hiện của bà lại trở nên u sầu và tĩnh lặng. Làm cho họ vui lòng, nó nghĩ, là cách mà bà tổ chức kỷ niệm cho ký ức về con trai bà, cũng như để chống đỡ nỗi thương tiếc trước cái chết của Kvîstor. Tôi chưa bao giờ gặp ai giống như bà trước đây, nó nghĩ khi nó quan sát bà ta. Rất lâu sau nửa đêm, ai đó gõ cửa căn chòi. Hûndfast mở ra một người lùn giáp trụ đầy đủ có vẻ cáu kỉnh và không thoải mái; ông ta cứ liếc về phía các cửa chính và cửa sổ và các góc tối. Với một tràng từ bằng cổ ngữ, ông ta thuyết phục Eragon rằng ông ta là người đưa tin của Orik, và ông ta nói, “Tôi là Farn, con trai của Flosi…. Thưa Argetlam, Orik yêu cầu cậu trở về với tất cả sự khẩn trương có thể. Ông ấy có những thông tin quan trọng nhất liên quan đến những sự kiện ngày hôm nay.” Ở ngưỡng cửa, Glûmra tóm lấy cẳng tay trái của Eragon với những ngón tay như thép, và khi nó nhìn xuống đôi mắt cứng rắn của bà, bà nói, “Hãy nhớ lời thề của cậu, Khắc-tinh của Tà-thần, và đừng để những tên sát hại con trai tôi thoát khỏi sự trừng phạt!” “Tôi sẽ không quên,” nó hứa.