Cao Hoằng Lãng bưng chén uống cạn nước trà đã nguội đi non nửa, bấy giờ mới buông chén, cười nói: “Những chuyện thế này ai dám chắc được? Có điều từ sau khi phụ hoàng hạ lệnh giới nghiêm ra vào hoàng thành thì rõ ràng không tăng thêm ca bệnh nào, chắc có lẽ sẽ không chuyển biến xấu nữa đâu.” Cả căn phòng yên yên ắng trong chốc lát, dường như đứa nhỏ đã say giấc, sợ làm ồn tới nó nên Tề vương phi khẽ khàng vỗ về, nhún người thi lễ rồi ôm đứa nhỏ đi xuống trước. Cao Yển tiếp lời: “Nói cũng đúng, dịch bệnh lần này có hơn hai mươi người bị nhiễm, hẳn sẽ không quá nghiêm trọng.” “Nên vừa nãy ta mới khuyên chuyện của đệ với biểu muội ta.” Cao Hoằng Lãng hết sức tự nhiên trở về đề tài ban đầu: “Hai người cứ xác định, tìm hiểu qua lại cái đã, chờ dịch bệnh qua đi thì lo liệu luôn, coi như là góp thêm chút không khí vui mừng cho hoàng thành.” Nếu Cao Hoằng Lãng đổi nghề thì ắt sẽ trở thành bà mối cực mát tay, ta nhìn dáng vẻ nhiệt tình hết sức của hắn ta, kìm lòng không đậu mà khẽ buông tiếng thở dài cảm khái. Mà Cao Yển vẫn giữ nguyên vẻ thờ ơ chẳng buồn để tâm, một lần nữa lái sang chủ đề khác: “Tuy dịch bệnh không lây lan rộng nhưng phía dân chúng và triều đình vô cùng xôn xao, nhất là Nhị ca, khoảng thời gian này những oán trách của quan viên và dân chúng với huynh ấy rất nặng nề. Hôm nay ta đến thăm, huynh ấy vẫn không được tự tiện đi lại, chỉ có thể nhờ ta chuyển tới huynh quà mừng của tiểu hoàng tôn.” Cao Hoằng Lãng hơi sa sầm mặt, như có phần ảo não muộn phiền: “Nói ra ta cũng thấy hổ thẹn, lúc trước giận quá mất khôn, chẳng phải cũng vì chuyện của An Nhi mà trách móc nó sao? Chỉ e hiện giờ tâm trạng của quan viên dân chúng cũng giống như tâm trạng ta lúc ấy, vì sợ hãi bệnh tật mà đánh mất đầu óc phán đoán. Chờ dịch bệnh hết rồi, chắc bên thái tử cũng có thể khôi phục như trước. Dù rằng dịch bệnh không hoành hành trên diện rộng nhưng người chịu khổ vẫn nhiều lắm, sau khi hoàng thành treo lệnh cấm ta thấy không ít dân gói ghém đồ chạy nạn.” Nghe Cao Hoằng Lãng nói, ta nhướng mày, không nhịn được liếc mắt nhìn hắn ta, chỉ thấy gương mặt hắn tràn ngập nỗi lo lắng chân thành. Cao Yến trầm ngâm một lúc, không nhắc chuyện của Cao Giới nữa, y nhìn sắc trời bên ngoài, đứng dậy mở miệng: “Đã trễ rồi, giờ giới nghiêm ban đêm bị dời lại, ta cũng phải về sớm đây.” Cao Hoằng Lãng không giữ người, lúc đứng dậy tiễn vẫn cố nói thêm: “Chuyện hôm nay ta nói đệ cứ cân nhắc cho kỹ, đệ cũng biết tính tình của ta rồi đấy, nếu không phải thấy biểu muội ta một lòng một dạ thì ta cũng chẳng nhắc đi nhắc lại hoài thế này.” Lần này Cao Yển không né tránh nữa mà cất giọng áy náy: “Hiện giờ tình hình trong hoàng thành chưa ổn định, tình cảnh của Nhị ca không được lạc quan là bao, ta thật sự không còn tâm trạng nói chuyện này, chờ thêm thời gian nữa hãy tính sau.” Nghe được lời ấy, Cao Hoàng Lãng bật cười sảng khoái, nói: “Thế cũng được, lòng Ngũ đệ có tính toán là tốt rồi.” Cao Yển gật gật đầu, mắt Cao Hoằng Lãng đảo qua ta đứng đằng sau, hơi dừng lại rồi đột nhiên lên tiếng: “Đây là nha hoàn chơi rất thân với Trường An trước đây phải không?” Cao Yển nhìn ta, trả lời không chút do dự: “Chính là cô ấy.” Chợt Cao Hoằng Lãng ngửa mặt lên trời cười ha hả, tay vỗ vỗ vào vai Cao Yển, nói giọng hàm súc thâm sâu: “Giờ Ngũ đệ vẫn chưa lập chính phi trắc phi, vẫn nên chú ý đôi chút mới thỏa đáng, đừng có gây ra chuyện gì tày trời.” Mặt Cao Yển lạnh tanh, y đáp: “Ta đương nhiên là hiểu.” Cuộc đối thoại khiến mày ta cau tít, chắc Cao Hoằng Lãng đang hiểu lầm mối quan hệ giữa ta và Cao Yển, có điều hình như y cảm thấy không cần thiết phải giải thích làm gì. Cao Hoằng Lãng không nói gì thêm, đích thân đưa chúng ta tới cửa, mỉm cười niềm nở tiễn chúng ta ra về. Trên đường về Cao Yển im ỉm chẳng nói câu nào, gương mặt với vẻ thoải mái hiền lành như khi trò chuyện với Cao Hoằng Lãng đã chả thấy tăm hơi. Ngày xưa chỉ biết Cao Yển thân với Cao Giới, mà quan hệ của Cao Hoằng Lãng với bọn họ cũng coi như khá tốt đẹp, hôm nay nghe hắn ta nói thế, nhất thời có thể thấy ngay. Vài lần Cao Yển định bụng hỏi Cao Hoằng Lãng chuyện của thái tử nên xử lý thế nào, tuy nhiên không biết có phải hắn ta thực sự không nghe hay là đang lẩn tránh. Vô số lần Cao Yển nói thời cuộc căng thẳng, thái tử gặp rủi ro, y chả còn lòng dạ nào để ý việc riêng tư, thế mà Cao Hoằng Lãng lại chẳng hề bận tâm, không những ôm con mình vô tư nô đùa mà còn thúc giục việc tư của Cao Yển. Con người hắn ta luôn hưởng tiếng tốt, những chuyện nhỏ nhặt thế này cũng không nhận ra được sao? Hay là bởi Cao Giới nay đã đứng bên bờ vực rớt đài, hắn ta bắt đầu khinh thường không thèm ngụy trang nữa rồi? Về tới phủ, Cao Yển vẫn trầm mặc như mọi khi, sau khi đấu trí một phen với Cao Hoằng Lãng, trông y chẳng biết là đang tức giận hay muộn phiền. Tâm tư của chủ tử là thứ khó nắm bắt nhất, cuộc gặp của y và Cao Hoằng Lãng hôm nay, không biết là người nào gài bẫy, người nào trúng chiêu. Qua hai ngày, biệt viện hoàng gia truyền đến tin, nói là thái y đã chạy qua xác nhận, cái thai trong bụng Tương Nhã Đồng là một tiểu hoàng tử. Tương đại tướng quân - cha Tương Nhã Đồng - nhân cơ hội đó viết một phong thư, rằng con gái mình giờ đây mang thai đã 6 tháng, cơ thể nặng nề, sau này sợ không đi lại nhiều được, tốt xấu gì thì trong bụng nàng ta cũng là hoàng tôn con vợ cả, sao có thể sinh ở biệt viện? Viết không quá kỹ nhưng nội dung ám chỉ để Tương Nhã Đồng quay về Đông cung đã quá rõ ràng, dầu gì nếu nàng ta về, tự nhiên Đông cung sẽ không bị treo lệnh cấm nữa, coi như là gián tiếp nói giúp cho Cao Giới. Chẳng qua Tương đại tướng quân sáng suốt không nhắc nửa câu về Cao Giới mà chỉ bày tỏ lòng yêu thương muôn vàn đến con gái của mình, khiến những quan viên khác tuy lòng bất mãn nhưng cũng chẳng thể thẳng thừng bác bỏ. Chung quy vẫn là thái tử một nước, trước đó vì an ủi lòng dân đã niêm phong Đông cung gần cả hai tháng, trừng phạt cảnh cáo nhiêu đó là nhiều lắm rồi, thế nên hoàng đế rốt cuộc cũng cho phép. Mặc dù không nói rõ là bảo cấm vệ quân rút khỏi Đông cung, nhưng khi Tương Nhã Đồng trở về cũng là lúc Đông cung được khôi phục lại như xưa. Tin tức thái tử phi hồi cung truyền đến tai dân chúng không hề vấp phải bất kỳ phản đối nào, bởi lẽ họ đã hoàn toàn dồn hết sự chú ý vào một tin tức khác - đó chính là phó viện Vương Trác của thái y viện tự tiến hành thí nghiệm trên người mình, cuối cùng đã nghiên cứu và bào chế ra thảo dược chữa bệnh dịch. Sức khỏe vừa mới tốt lên, ông ta đã không màng vất vả tự mình đưa thuốc đến các quý phủ có ca bệnh, hiện giờ chỉ chờ người nhiễm bệnh ở các quý phủ khác khỏi hẳn thì sẽ lập tức lấy lại quyền kiểm soát hoàng thành, gỡ bỏ tất cả lệnh cấm. Tin tức này vừa truyền đi, dân chúng ngoài kia thiếu điều xuống phố mở tiệc ăn mừng. Bệnh tật từ trước đến nay luôn khiến con người ta sợ hãi bất an đủ đường, dịch bệnh lần này chẳng những được ngăn chặn kịp thời không bùng phát mà còn nghiên cứu ra thảo dược chữa trị chỉ trong vòng một thời gian ngắn. Thế là, cả hoàng thành không hẹn mà cùng giăng đèn kết hoa, một tháng lễ mừng năm mới vì sự ra đi của Cao Thừa An nên không được châm ngòi đốt pháo. Dân chúng bứt rứt khôn nguôi, may thay cũng sắp được giải tỏa trong niềm hân hoan sung sướng. Bấy giờ chẳng ai để ý Tương Nhã Đồng làm gì, tất cả mọi người đều đang chìm đắm trong mừng vui, cũng không tiếp tục oán trách Đông cung nữa. Dù sao nếu dịch bệnh được dập tắt, Đông cung có bị niêm phong tiếp hay không cũng có liên quan gì tới bọn họ đâu? Vương Trác nghiên cứu ra thuốc giải quá đúng lúc, vô tình lại giúp Tương Nhã Đồng được trở về hoàng cung. Khi mọi người chung quanh ăn mừng tưng bừng thì Cao Yển không hề thả lỏng cảnh giác. Những người nhiễm bệnh khác còn chưa khỏi hẳn, hoàng đế cũng chưa ra lệnh cho cấm vệ quân rút khỏi Đông cung, nên Cao Giới đành nhờ Cao Yển hộ tống Tương Nhã Đồng về Đông cung. Đến biệt viện, rất nhiều nô bộc đi tới đi lui thu xếp hành lý, vì tránh hiềm nghi nên sau khi chào hỏi y liền vòng ra hậu viện giám sát nô tài khuân vác đồ. Có điều lúc y gần đi, mặc kệ ánh nhìn đăm đăm ngập tràn phẫn hận của ta, y một mực giữ ta lại. Thấy ta không muốn, y cất giọng giải thích bên tai ta: “Ta không thể ở đây lâu được, thái tử phi giao cho ngươi, bây giờ ngươi là người của ta, cô ấy sẽ không làm gì ngươi đâu.” Đương nhiên là y sẽ thấy chẳng vấn đề gì cả, cái tát lúc trước có giáng vào mặt y đâu chứ! Nhìn Tương Nhã Đồng dồi dào sức sống và đám nô bộc bu xung quanh nàng ta, cần ta làm gì không biết? Thế nên sau khi Cao Yển đi ta chỉ đứng trong sân trông coi chứ không vào hầu hạ. Thời gian vừa hết nửa chén trà nhỏ đã thấy đoàn người Tương Nhã Đồng đi ra khỏi phòng, có vẻ đã thay quần áo để tiện việc đi xa. Bọn họ lướt ngang qua ta như muốn khởi hành ngay, ta không nhịn được cất giọng: “Thái tử phi tính ra ngoài sao? Có cần nô tỳ thông báo cho Ngũ gia một tiếng không?” Tương Nhã Đồng liếc nhìn ta, mặt hờ hững, nói: “Không phải làm phiền Ngũ đệ, bổn cung chỉ muốn đi thăm An Nhi trước khi hồi cung thôi.” Muốn đến lăng mộ của Cao Thừa An? Chỗ đó cách biệt viện tầm khoảng hơn mười phút đi xe, tức thì ta mở miệng bảo: “Vậy để nô tỳ đi tìm Ngũ gia phái vài thị vệ tới.” Nàng ta giơ tay sai người ngăn ta lại, cau mày bảo: “Bổn cung có dẫn thị vệ theo, đồ đạc ở hậu viện nhiều không thể dọn xong liền được, lúc về bản cung cũng không muốn làm rùm beng lên đâu.” Ban nãy Cao Yển Yển để ta lại chắc chắn là mong ta sẽ chăm sóc Tương Nhã Đồng, giờ mà nàng ta đi thì chẳng phải ta sẽ mang tiếng phục vụ không đến nơi đến chốn sao? Vậy là ta bèn mặt dày tiếp tục tận tình khuyên bảo: “Giờ sức khỏe của thái tử phi là quý nhất, theo nô tỳ thấy vẫn nên cẩn thận coi chừng mới được. Nếu thái tử phi nhất quyết không để Ngũ gia đi cùng, thế chẳng bằng hôm nay về Đông cung trước, hôm khác bảo thái tử điện hạ đưa người đi.” Ánh mắt Tương Nhã Đồng nhìn ta mỗi lúc một khó chịu: “Bổn cung nói mấy lần rồi, ngươi nghe không hiểu à? Ngươi tưởng về Đông cung rồi thì được ra vào tự do nữa chắc?” Ta nghẹn họng, sao ta không biết sau khi về Đông cung thì hành động của nàng ta chắc chắn sẽ bị hạn chế dưới vô vàn con mắt trông coi, nhưng chẳng phải là vì ta suy nghĩ cho an toàn của nàng ta ư? “Ở trong đây bao lâu rồi, bổn cung tới mộ của An Nhi ít nhất mười lần mà cũng có xảy ra chuyện gì đâu, vậy mà sao vào miệng của ngươi lại hóa một đống chuyện thế? Có phải ngươi rất muốn nhìn thấy bổn cung gặp chuyện không may phải không?” Giọng Tương Nhã Đồng càng ngày càng lạnh lẽo. Ta vội vàng cúi đầu: “Nô tỳ không dám.” Bỏ đi, tính tình nóng nảy thế này còn lâu mới khuyên nổi, ta vẫn nên chờ nàng ta đi rồi chạy tới báo với Cao Yển là được. “Thái tử phi chậm đã.” Tương Nhã Đồng đang chuẩn bị lên đường, bỗng Tống ma ma cạnh nàng ta mở miệng: “Lần này thái tử phi xuất hành ít ai biết, nha hoàn này cứ khăng khăng đòi đi tìm người, ai biết cô ta ấp ủ mưu mô gì. Lão nô thấy đưa cô ta theo luôn đi, để trên đường lão nô trông chừng cũng ổn.” Không có bực nhất, chỉ có bực hơn! Cảm giác lòng tốt bị coi là lòng lang dạ thú hóa ra là như vậy! Tương Nhã Đồng không phản đối, ngầm đồng ý cho Tống ma ma lôi ta đi. Bị kéo lên xe ngựa, thị vệ đi cùng trông có hơi quen quen, hắn ta nhìn vẻ cắn răng cam chịu của ta, miệng mấp máy nhưng không nói gì. Ta cũng phát hiện chuyến đi này thực sự giản đơn, Tương Nhã Đồng và cô nha hoàn dáng cao thô - hình như tên là Hương Liễu - ngồi ở sau xe ngựa, ta bị bắt ngồi trước xe cùng với Tống ma ma. Hơn nữa phu xe và thị vệ cũng không đến ba mươi người. Từng đọc nhiều “sách” ở xã hội hiện đại, trực giác mách bảo, “nô tài có lòng nhắc nhở” chính là tình tiết kinh điển điển hình trước khi xảy ra những vụ tập kích trong tiểu thuyết, chủ tử tự cao tự đại cố chấp không nghe… Tương Nhã Đồng đúng là ngang ngược lạ lùng, không màng tính mạng mình mà cứ thể thúc đẩy tình tiết phát triển à? Ngồi trên xe ngựa, ta phớt lờ Tống ma ma bên cạnh như hổ rình mồi, chăm chăm nghĩ cách làm sao để báo tin đến chỗ Cao Yển, dù sao bụng dạ ta thực sự không yên. Từ khe hở trên cửa sổ, khóe mắt nhác thấy có bóng người đỏ rực cưỡi ngựa phi ngang qua, tức khắc ta xốc màn xe lên phấn khích vẫy vẫy tay với bóng người kia. “Vương gia, vương gia, tiểu Yến vương…” Nếu được hắn hộ tống, mức độ nguy hiểm sẽ được giảm xuống đáng kể. Tống ma ma trong xe trông có vẻ như muốn xem ta lại bắt đầu giở trò gì nên chẳng hề ngăn cản. Hồ Nguyên Ly nghe tiếng quay đầu, hắn ngồi trên ngựa lia đường nhìn qua đoàn người rồi sau đó ánh mắt trịch thượng chiếu vào ta. Tuy nhiên trong tích tắc hắn đã quay đi như là không quen không biết. Vừa khéo lúc này xe ngựa chạy tới cạnh hắn, ta thừa cơ mở miệng: “Vương gia muốn đi đâu…” Lời chưa nói hết thì chiếc xe ngựa đang chạy và Hồ Nguyên Ly đang nhìn đằng trước không chớp mắt đã lướt ngang qua nhau. Ta sửng sốt, vội vàng ghé vào cửa sổ ló đầu ra nhìn, Hồ Nguyên Ly ung dung ngồi trên lưng ngựa chẳng buồn để ý tới ta. “Tiểu Yến vương, tiểu Yến vương…” Gọi mấy bận vẫn không thấy hắn có động tĩnh gì, mắt thấy khoảng cách giữa xe ngựa và hắn càng lúc càng xa, ta lập tức hét to một tiếng: “Hồ Nguyên Ly!” Nhất thời bóng người màu đỏ quay phắt đầu lại như bị điện giật, đôi mắt mở trừng trừng như muốn ăn tươi nuốt sống ta. Tốt xấu gì cũng có phản ứng rồi, đang định mở miệng thì người đã bị Tống ma ma túm vào bên trong. Bà ta lườm nguýt ta, nói giọng đầy mỉa mai: “Đang trên đường cái đấy, giữ lại tí mặt mũi đi, đừng có sốt ruột đi dụ dỗ đến ông như thế.” Ác ý của bà ma ma này với ta lớn quá thể đấy? Chỉ vì mấy lời ở Đông cung lúc trước ta nói với Cao Giới thôi ư? Không có tâm trạng đoái hoài đến bà ta, tính ngó ra ngoài thăm dò tiếp nhưng Tống ma ma cứ đè tay ta lại chẳng chịu buông: “Ngồi yên vào cho ta, đang ở trên xe ngựa của thái tử phi đấy, ngươi không cần mặt mũi nhưng thái tử phi vẫn cần thể diện.” Lúc hai chúng ta đang tranh cãi, đột nhiên màn xe bị người bên ngoài xốc lên, gương mặt đầy giận dữ của Hồ Nguyên Ly bất thình lình xuất hiện. Nhìn thấy Tống ma ma, hắn ngẩn người, có lẽ đã nhận ra điều gì nên nhanh chóng thu lại vẻ phẫn nộ. “Các người…?” Hồ Nguyên Ly cất tiếng, như không ngờ rằng hai người chúng ta ở cùng nhau. (còn tiếp).