Điệu Sáo Mê Hồn

Chương 53 : Mười dặm đồng hoang - một sông máu đỏ

Thượng Quan Kỳ vung tay đá chân càng lâu, càng mau lẹ càng thuần thục. Viên Hiếu hai mắt đỏ ngầu, càng suy nghĩ càng thấy nguy nan. Gã không nhẫn nại được nữa, lẩm bẩm: ta dùng sức mạnh ôm chặt đại ca lại, xem y còn múa may quay cuồng được nữa thôi. Gã nghĩ sao là làm vậy ngay, khoa chân bước đến gần né người đi xông vào, hai tay giơ ra rất mau toan ôm lưng Thượng Quan Kỳ. Bóng người lạng đi một cái, Thượng Quan Kỳ vung quyền rất lẹ như chớp đánh trúng vào vai Viên Hiếu. Quyền này mãnh liệt vô cùng, khiến cho Viên Hiếu phải loạng choạng lùi ra xa bốn năm bước mới đứng vững. Thượng Quan Kỳ là người gã kính yêu nhất hiện nay mà lại vung quyền đánh gã, khiến gã vô cùng kinh dị, giương hai mắt tròn xoe tự hỏi: “Sao đại ca lại đánh mình?” Gã bối rối mê man, gào lên: – Đại ca, đại ca! Thượng Quan Kỳ bao nhiêu tâm trí để cả vào chuyện vung quyền đá cước. Tuy Viên Hiếu quát lên mà tựa hồ chàng vẫn không nghe tiếng. Viên Hiếu ngẩng mặt trông mây nổi bên trời, đột nhiên nhảy vọt lên cao nhằm Thượng Quan Kỳ bay tới. Đến đỉnh đầu Thượng Quan Kỳ, gã hạ mình xuống rất lẹ vừa trúng sau lưng chàng. Đồng thời gã vận toàn thể nội lực vào hai tay ôm chặt được lưng Thượng Quan Kỳ. Gã được trời phú cho sức khỏe dị thường đấm chết cả hổ, giờ ôm được lưng Thượng Quan Kỳ nhấc bổng lên, nhất định không buông ra nữa. Thượng Quan Kỳ bị gã nhấc bổng người lên, toan day qua để gỡ ra thì bên tai nghe tiếng Viên Hiếu hoảng hốt gọi vang lên. Chàng đã tỉnh lại vội gọi: – Viên đệ, buông ta ra. Viên Hiếu cố sức ghì thật chặt nói: – Em không buông! Thượng Quan Kỳ vội quát lên: – Buông ta ra rồi ta nói cho em nghe! Viên Hiếu rất kính trọng Thượng Quan Kỳ. Chàng đã nói gì và biểu làm sao gã cũng tuân theo. Nghe lời chàng quát gã lập tức buông tay, mắt trừng trừng nhìn chàng hỏi: – Đại ca, đại ca làm sao vậy? Thượng Quan Kỳ vui mừng đáp: – Viên đệ! Ta hiểu rồi, ta hiểu rồi. Ngừng một lát chàng lại cười nói: – Ta đang gặp lúc cao hứng. Viên Hiếu nghe không hiểu chàng nói gì, hai mắt gã vẫn nhìn chàng chằm chặp. Thượng Quan Kỳ nhân nghe tiếng tiêu dần dần lĩnh hội được chỗ cao thâm về võ học, chàng xuất thần luyện tập, nhận thức được chỗ ảo diệu về võ học, trong lòng khoan khoái vô cùng. Chàng thấy vẻ mặt Viên Hiếu đang ngớ ngẩn nhìn mình, biết rằng gã chưa hiểu. Chàng muốn nói rõ cho gã biết, nhưng việc này khó lòng diễn giảng cho gã hiểu được. Ngẫm nghĩ một lúc chàng bảo: – Những lời sư phụ dặn dò ta hiểu cả rồi. Viên Hiếu gật đầu mấy cái nói: – Thảo nào... Gã nghĩ một lúc lâu rồi mới chịu nói thêm: – Thảo nào đại ca vui sướng quá! Gã nói câu này tuy còn cứng nhắc mà mặt đã đỏ lên lấy làm đắc ý phát ra được một câu đặc thể, rồi gã cũng sung sướng, toét miệng ra cười với Thượng Quan Kỳ. Thượng Quan Kỳ lại đem những điều vừa lãnh hội được ôn lại trong chớp nhoáng để ghi nhớ. Chàng nhớ đến lời Liên Tuyết Kiều đinh ninh dặn bảo lúc ra đi, nghĩ thầm trong bụng: “Coi vẻ mặt lúc nàng nói mấy câu đó tuyệt không có ý lừa dối ta, huống chi việc này có quan hệ lớn đến các phái võ. Ta phải chuyển đạt những câu đó đến Cùng Gia Bang Chủ ý đã định, Thượng Quan Kỳ dắt tay Viên Hiếu cười nói: – Viên đệ! Chúng ta đi thôi. Viên Hiếu giương đôi mất thao láo hỏi: – Đại ca? Chúng ta đi đâu? Thượng Quan Kỳ giật mình lẩm bẩm: “ừ nhỉ! ừ nhỉ! Biết đi đâu tìm Bang chúa Cùng Gia Bang bây giờ?” Chàng đưa mắt nhìn làn cỏ rậm, một cảnh bình nguyên bát ngát, không biết nên đi về phương nào. Viên Hiếu thốt nhiên kéo áo Thượng Quan Kỳ nói: – Đại ca! Có người tới. Thượng Quan Kỳ đã biết gã mắt tinh tai thính hơn người, liền kéo gã núp vào trong bụi cỏ rậm. Một lát, từ mé Nam quả có hai bóng người đi tới. Thượng Quan Kỳ cùng Viên Hiếu núp trong bụi cỏ ngó trộm thấy hai người này sóng vai mà đi. Người bên trái thân hình nhỏ bé và cao lêu nghêu, thân thể gầy còm, trên đầu có búi tóc to bằng vải đỏ, tay phải cầm cây xà đầu trượng, mặt mũi hốc hác như người bị bệnh, cặp mắt sâu hoắm như mắt chim ưng, tướng mạo có vẻ thâm độc. Người bên hữu tuổi chừng ngoài sáu mươi, đầu nhẵn thín, dưới cằm không một sợi râu, người lão thấp lủn thun mà béo trùng béo trục, sắc mặt hồng hào, mình mặc áo đại hồng bào, lưng giắt đôi vòng nhật nguyệt luân. Viên Hiếu trông tướng hai người kỳ dị này, nhe răng ra cười nói: – Hai lão này coi hay đấy! Thượng Quan Kỳ toan ngăn trở thì đã không kịp nữa. May mà hai người tựa hồ mải miết đi nhanh, thoáng cái đã qua rồi họ cứ nhằm hướng bắc mà tiến. Thượng Quan Kỳ cùng Viên Hiếu chờ một lúc nữa cho hai người đi thật xa rồi định đứng lên thì lại nghe phía Đông Nam cũng có tiếng chân người vang lên. Chàng nghếch mắt nhìn ra thì thấy tám nhà sư mặc áo trắng, phía trước ba, phía sau năm, đi hộ vệ một vị hòa thượng thân thể cao lớn mình mặc áo cà sa đỏ, vai vác cây thiền trượng đi về hướng bắc. Ở chốn hoang dã bát ngát này đột nhiên xuất hiện hai người tướng mạo kỳ dị, cùng chín nhà sư, đồng thời đi về phía bắc thì đúng không phải là việc tầm thường. Hai người nán lại lúc nữa rồi mới bước ra khỏi bụi rậm. Thượng Quan Kỳ không nén được tính hiếu kỳ, dắt Viên Hiếu đi về phía bắc để theo hút bọn kia. Đi chừng được ba dặm, đột nhiên lại nghe tiếng vó ngựa dồn dập từ phía tây đi tới. Hai người lại nhảy núp vào bụi rậm, nằm phục xuống đất trông ra thấy cát bụi bay mù, một con ngựa vàng rầm rập chạy đến. Người cưỡi trên lưng ngựa là một đại hán đứng tuổi mặc võ trang sắc đen, trán đẫm mồ hôi, tay không ngớt ra roi quất vào hông ngựa, vẻ mặt nóng nảy hoang mang vô cùng. Con ngựa vàng này dường như đã đi rất nhiều đường đất, miệng nhỏ dãi trắng, mình toát mồ hôi ướt đẫm. Viên Hiếu ở nơi sơn dã lâu ngày, hiểu rõ tính chất cầm thú. Gã vừa nhìn ngựa đã bảo ngay với Thượng Quan Kỳ: – Đại ca ơi! Con ngựa này chết đến nơi rồi. Chưa dứt lời, ngựa đã đi qua năm bảy trượng. Bỗng nghe nó hí vang lên rồi đánh huỵch một tiếng. Viên Hiếu chau mày buồn rầu nói: – Thế là con ngựa chết rồi. Chưa dứt lời lại thấy cát bụi bay mù, bốn con tuấn mã chạy tới. Những người cưỡi ngựa toàn là đại hán võ trang áo đen. Thượng Quan Kỳ cùng Viên Hiếu hết mục lực nhìn ra quả thấy con ngựa vàng chết lăn kềnh dưới đất. Đại hán áo đen cưỡi con ngựa này toan nhảy vào bụi cỏ để lẩn tránh thì thấy phía sau bốn người đuổi tới. Đại hán ngẩng mặt nhìn trời hú một tiếng xoay tay rút trường kiếm ra đứng thủ thế chờ địch đến nơi. Đại hán vừa xuống tấn thì bốn người cưỡi ngựa đã tới. Gã đại hán đi đầu cười lạt quát lên: – Mi chưa hạ khí giới theo bọn ta trở về, chẳng lẽ còn chờ chúng ta phải ra tay. Đại hán kia cầm ngang lưỡi kiếm nói: – Bốn vị chẳng nên bức bách tôi thái quá. Một đại hán khác cười lạt nói: – Chắc người còn muốn tìm đến sông Hoàng Hà rồi mới chịu chết. Đại hán đi trước quát lên: – Nếu ngươi không hạ khí giới bó tay chịu trói thì đừng trách bọn ra quên tình cố cựu. Đại hán cầm ngang thanh kiếm, tựa hồ biết rằng nói nhiều vô ích vung kiếm lại chém đại hán đi đầu. Đại hán này quát lên một tiếng vung roi đánh trúng vào đại hán cầm trường kiếm. Tiếng quát chưa dứt, cả bốn con ngựa chạy sấn lại, bốn đại hán vung chường đánh ra. Bỗng vang lên một tiếng rú thê thảm. Đại hán cầm trường kiếm miệng hộc máu tươi ngã lăn xuống đất. Viên Hiếu thấy vậy sinh lòng bất nhẫn, nét mặt lộ vẻ bất bình, tay sờ cây đồng tiêu, muốn xông ra. Bỗng thấy một đại hán cất tiếng lạnh lùng nói: – Chà! Ngươi lớn mật thật, dám phản bội Vương gia. Thượng Quan Kỳ nghe nói giật mình, xoay tay nắm giữ Viên Hiếu lại, cặp mắt chăm chú nhìn vào bốn gã áo đen đang ngồi trên lưng ngựa. Bốn đại hán này bỗng nhảy xuống ngựa. Gã đại hán đi đầu nói: – Bốn chúng ta vâng lệnh Vương gia. Theo ý tôi thì chúng ta đưa y về để Vương gia định đoạt. Vừa nói tới đó gã không đợi ba gã kia đồng ý hay không, rút đao truy thủ ra, ánh hào quang lấp lánh, xẻo tai bên hữu đại hán nằm dưới đất, khiến cho y rú lên một tiếng thê thảm. Gã khác cũng rút truy thủ ra toan động thủ thì một tiếng rú thê thảm kinh người, khiến Viên Hiếu không nhẫn nại được, toan giật khỏi tay Thượng Quan Kỳ nhảy ra. Giữa lúc ấy bỗng nghe tiếng: – Thiện tai! Thiện tai! Năm vị đạo nhân lẹ làng đi tới, đứng trước mặt các đại hán kia. Một đạo nhân mặc áo vàng râu đen chừng đến rốn, mắt sáng như điện lạnh lùng nói: – Đấng thượng đế còn có đức hiếu sinh, không ngờ bốn vị tráng sĩ lại độc ác đến thế. Đại hán cầm cây trường liên (roi dài) lé mắt đi nói: – Xin đạo gia đi đi, đừng can thiệp vào việc của chúng tôi nữa. Đạo nhân cười khà khà nói: – Giữa lúc càn khôn trong sáng, thanh thiên bạch nhật, mà thấy việc giết người thì bất luận là ai cũng có thể can thiệp được, huống chi tôi là kẻ tu hành lấy từ bi làm gốc. Bốn đại hán võ trang đưa mắt nhìn nhau vội vàng đứng lùi ra bày thành thế trận để cự địch. Năm vị đạo nhân thấy đối phương ra chiều muốn động thủ lập tức cùng đứng giãn ra rút trường kiếm ở sau lưng, ánh mặt trời chiếu vào hào quang lấp loáng. Thế là hai bên đã giàn trận. Bốn đại hán nói nhỏ với nhau một hồi rồi đại hán ở góc Tây Nam cất tiếng hỏi: – Coi chư vị bày thành kiếm trận dường như là những tay cao thủ, phái Võ Đương. Năm vị đạo nhân trừ một vị mặc áo hoàng bào, còn bốn vị kia đều mặc thanh bào và tương đối ít tuổi hơn, tỏ ra vị mặc áo hoàng bào là thủ lĩnh cả bọn. Đạo nhân áo vàng vung kiếm lên cười nói: – Các vị mắt tinh đấy! Bần đạo chính là môn hạ phái Võ Đương. Bốn gã đại hán đều lùi lại sau, cầm cương nhảy thót lên ngựa rồi gia roi cho ngựa chạy tuốt. Năm vị đạo trưởng này thật là chưa có kinh nghiệm giang hồ, thấy đối phương giả vờ bày trận để động thủ tưởng là thế nào cũng xảy chuyện đánh nhau. Không ngờ đối phương giả vờ rút lui. Họ làm bộ sắp ra tay chiến đấu rồi đột nhiên lên ngựa dông tuốt. Bốn con ngựa chạy rất nhanh. Năm vị đạo trưởng còn đang ngơ ngác thì họ đã chạy ra xa ngoài bảy tám trượng. Đạo nhân áo vàng nhìn sau lưng bốn gã nói: – Chẳng đuổi làm gì mất công, dù có đuổi cũng chẳng kịp nào. Bốn đạo nhân áo xanh cũng tra kiếm vào vỏ. Đạo nhân áo vàng quay đầu nhìn đại hán bị thương khẽ hỏi: – Thí chủ bị thương có nặng lắm không? Đại hán cố sức mới nói lên được: – Phủ tạng tôi đã bị chấn động, thương thế rất nặng, e rằng không sống được nữa. Đột nhiên gã cố gượng ngồi dậy. Nhưng vì bị thương nặng quá, gã không còn đủ sức để gượng được, ngồi chưa yên lại ngã ra. Gã giơ tay lên cố nói một câu: – Xin đạo trưởng nâng tôi ngồi dậy. Đạo nhân áo xanh tuy có lòng hào hiệp đuổi kẻ cường định để cứu người, song không có lòng từ bi, xót thương đến gã đại hán bị trọng thương, hay là trong lòng đạo nhân còn lo điều gì. Trầm ngâm hồi lâu, đạo nhân mới từ từ phất tay áo rộng thùng thình một cái, quấn lấy tay trái đại hán đang giơ lên, rồi ra sức kéo gã ngồi dậy, đoạn lại buông tay áo ra. Đại hán tựa hồ có điều gì muốn nói nhưng thấy đạo nhân áo vàng đối với mình có cử chỉ lạnh nhạt liền đột nhiên thay đổi ý định chắp tay nói: – Nhờ ơn các vị đạo trưởng đã cứu mạng cho, tại hạ cảm kích vô cùng. Có điều tại hạ bị thương quá nặng khó mà sống ở nhân gian được, e rằng không còn cách nào để báo đáp ơn sâu các vị. Đạo nhân áo vàng nói: – Bọn bần đạo cứu thí chủ, không mong gì báo đáp. Đại hán bị thương nói: – Các vị đã không có lòng mong báo đáp thì xin lên đường cho. Tại hạ bị thương nặng quá, không thể tiễn chân để tỏ lòng cung kính được. Đạo nhân áo vàng nhíu mày, trở gót ra đi. Bốn đạo nhân áo xanh thấy đạo nhân áo vàng đi rồi cũng lập tức đi theo. Đại hán bị thương một tay chống xuống đất, ngẩng mặt lên cười một tràng dài tự nói một mình: “Mười dặm đồng hoang, một sông máu đỏ”. Rồi thốt nhiên hộc máu tươi ngã lăn ra. Thượng Quan Kỳ nhìn thấy màn thảm kịch giang hồ biến diễn trên cánh đồng hoang, bất giác trong lòng cảm thấy nỗi thê lương khôn tả. Chàng lẩm bẩm một mình: “Con người toi mạng dễ dàng thế đó. Cảnh giết chóc tàn khốc trên chốn giang hồ khiến cho người ta phải rùng mình”. Bỗng thấy Viên Hiếu thở dài hỏi: – Đại ca ơi! Không biết người đó đã chết chưa? Chúng ta thử lại cứu y xem. Thượng Quan Kỳ nghe lời Viên Hiếu chợt tỉnh, nhảy lại bên đại hán hỏi: – Huynh đài bị thương nặng lắm ư? Hỏi luôn mấy câu, vẫn không thấy đại hán trả lời. Chàng giơ tay phải ra nắm lấy vai đại hán, tay trái vỗ vào ba đại huyệt ở trước ngực gã để thúc đẩy nguyên khí đang tiêu tán đi mọi ngả, dồn về huyệt đan điền. Tâm tạng gã yên lại, huyết mạch lại bắt đầu chạy. Thượng Quan Kỳ chống đỡ sau lưng gã để gã thở hít một hồi, hơi thở thấy điều hòa hơn một chút. Đại hán bỗng thở dài một tiếng, từ từ mở mắt ra nhìn Thượng Quan Kỳ, giơ tay phải lên nhắc lại câu: Mười dặm đồng hoang, một sông máu đỏ! Rồi thanh âm thốt nhiên nhỏ hẳn đi. Thượng Quan Kỳ vội nâng gã dậy hỏi: – Huynh đài nói chi vậy? Đại hán cố gượng nói tiếp: – Cánh đồng cỏ hoang liêu này sắp biến thành một cuộc tàn sát cực kỳ thảm khốc. Thượng Quan Kỳ hỏi: – Tại sao vậy? Đại hán đáp: – Nhân vì Cổn Long Vương... Rồi thốt nhiên gân cốt co quắp, mắt nhắm chặt lại. Thượng Quan Kỳ vội đưa bàn tay vỗ vào ngực đại hán, nhưng vì gã bị thương quá trầm trọng, nguyên khí trong người tiêu tán đi hết, Thượng Quan Kỳ dù tận tâm đến đâu cũng không có cách nào làm cho gã sống lại được. Chàng ngó thi thể đại hán, nét mặt buồn thảm, thở dài sườn sượt từ từ đặt thi thể đại hán xuống, tự hỏi: “Mười dặm đồng hoang, một sông máu đỏ” là nghĩa gì? Bỗng thấy Viên Hiếu hỏi: – Đại ca, người này chết rồi phải không? Chúng ta mai táng cho họ chứ? Thượng Quan Kỳ gật đầu. Viên Hiếu tủm tỉm cười, vận nội lực vào cánh tay cứng như thép, rồi hai tay móc xuống mặt đất lẫn đá cứng rắn, để đào một cái huyệt. Chỉ trong khoảnh khắc gã đã đào xong. Thượng Quan Kỳ coi thủ pháp gã đào huyệt, dường như võ công gã lại tiến bộ rất nhiều, năm đầu ngón tay cứng rắn như thép, khác nào gươm đao khoét xuống đất. Viên Hiếu bồng xác lên đặt vào trong huyệt từ từ lấp đất lại. Cánh đồng cỏ hoang lương trở lại tịch mịch, luồng gió thổi lay động làm cỏ rậm, bốc bụi ở ngôi mả mới tung lên. Viên Hiếu xoa tay cho đất cát rơi đi, rồi quay lại nhìn Thượng Quan Kỳ hỏi: – Đại ca ơi? Em nghĩ một việc chẳng biết có nên nói ra không. Thượng Quan Kỳ nhìn gã cười nói: – Có điều chi, Viên đệ cứ nói đi! Viên Hiếu nói: – Hồi em còn ở trong hang núi, thường được coi hổ báo đánh nhau chí tử, rồi những giống mãng xà rắn trăn cũng đánh nhau, đất đá tung bay. Thế mà má em vĩnh viễn ở lỳ trong nhà. Em tưởng người với người không đánh nhau bao giờ, ngờ đâu cũng đánh nhau kịch liệt. Thượng Quan Kỳ nói: – Loài điểu thú chỉ tranh nhau về miếng ăn, cốt sao no bụng thì thôi. Còn giữa người với người ngoài cuộc tranh nhau vì tiền của, quyền thế, họ còn đánh nhau để tranh đoạt danh vị, gây mối thù hằn nhau như nước với lửa. Thế thì cuộc tranh đấu giữa loài người còn tệ hại hơn nhiều. Viên Hiếu chỉ gật đầu, chẳng biết gã có hiểu hay không. Gã xuất thần nhìn ra phương trời, tựa hồ như để suy nghĩ về ý nghĩa câu nói của Thượng Quan Kỳ. Thượng Quan Kỳ khẽ thở dài một tiếng nói: – Viên đệ bất tất phải nghĩ ngợi làm gì? Việc đời phức tạp lắm. Trong khoảng thời gian ngắn, ta e rằng Viên đệ không thể hiểu rõ, để sau này ta sẽ từ từ giải thích cho đệ hay. Chúng ta đi thôi! Nói xong, chàng cất bước đi ngay. Viên Hiếu lẽo đẽo theo sau. Gã đi được một lúc lại hỏi: – Em lại nghĩ ra một việc nữa muốn hỏi đại ca. Thượng Quan Kỳ nghĩ thầm: xem ra tư tưởng gã này mỗi lúc một phức tạp hơn. Tuy nhiên chàng tủm tỉm cười hỏi: – Viên đệ muốn hỏi gì, chúng ta vừa đi vừa nói chuyện cũng được. Viên Hiếu tựa như đương tìm câu nói trầm ngâm một hồi lâu rồi lên tiếng: – Đại ca! Nữ lang áo trắng đó đối với chúng ta bạn hay thù? Thượng Quan Kỳ không ngờ gã đột ngột đề cập đến vấn đề này, chàng ngơ ngác đáp: – Hiện giờ nàng không còn là kẻ thù của chúng ta, nhưng cũng chưa thể coi là bạn được. Viên Hiếu hỏi: – Không biết từ đây sắp tới còn được thấy mặt nàng nữa không? Thượng Quan Kỳ thấy gã hỏi ngay một câu khó trả lời, chàng trầm ngâm một lúc rồi đáp: – Cái đó chưa thể biết được. Nếu nàng không chết thì tất có ngày lại gặp nhau. Viên Hiếu mấp máy môi muốn nói lại thôi. Thượng Quan Kỳ sợ gã đưa ra vấn đề nan giải không trả lời được, đột nhiên đi rất mau. Khinh công hai người đã đến bậc siêu quần, chạy băng băng một lúc được hơn mười dặm. Thượng Quan Kỳ ngẩng đầu nhìn lên, mặt trời đã sắp lặn, từng luồng khói tỏa lên giữa đám ráng chiều. Thế là hai người đã ra khỏi cánh đồng hoang, đến một thôn trang. Thượng Quan Kỳ đi thong thả lại, ngoảnh đầu nhìn Viên Hiếu hỏi: – Viên đệ đã đói chưa? Viên Hiếu đáp: – Em đói lâu rồi, mà nơi đây không có trái đào. Thượng Quan Kỳ nói: – Đệ Ở ngoài này chờ ta. Ta vào thôn trang mua ít thực vật rồi lại ra ngay. Viên Hiếu trỏ cây thùy dương cao lớn nói: – Em lên trên cây kia ngủ để chờ đại ca. Thượng Quan Kỳ thấy gã vẫn còn giữ tập quán của loài vượn, tủm tỉm cười nói: – Được lắm! Đừng đi đâu xa nghe! Rồi chàng rảo bước đi vào thôn trang. Đây là một thôn xóm nhỏ rộng độ mười mấy nóc gia, toàn là nhà tranh vách tre. Cách kiến trúc rất đơn giản nghèo nàn. Thượng Quan Kỳ tìm vào một căn nhà tương đối khá hơn, khẽ gõ cửa. Bỗng nghe có tiếng ho sù sụ, hai cánh cửa mở ra, một bà già ngoài năm mươi đứng trước cửa. Thượng Quan Kỳ nghiêng mình thi lễ nói: – Lão má má! Tại hạ qua đây, vì hết lương thực, đói bụng xin lão má ban cho một ít thực vật để ăn cho đỡ đói. Mụ già từ từ lắc đầu nói: – Nhà tôi có gì bán hết cả rồi, mời ông khách qua nhà khác hỏi vậy. Nói xong khép cửa đánh binh một tiếng. Thượng Quan Kỳ ngớ ngẩn rủa thầm: “Mụ này thật là vô lễ”. Chàng vừa chạy qua nhà khác gõ cửa. Một cô bé mười sáu, mười bảy mở cửa ra. Cô này mặc áo cũ rách, tóc dài chải buộc thành một búi lớn. Mắt cô lộ vẻ đau khổ. Thượng Quan Kỳ khoanh tay nói: – Tại hạ đến đây quấy nhiễu cô nương, xin bán cho một chút thực phẩm. Cô bé lắc đầu đáp: – Nhà tôi đây không phải là hàng cơm, quán rượu, có gì mà bán. Rồi không chờ Thượng Quan Kỳ nói gì nữa, đóng bặt cửa lại. Thượng Quan Kỳ lắc đầu than thầm: “Sao người thôn trang này ai cũng có tính nết xấu xa thế!” Chàng lại đến gõ cửa một nhà thứ ba nữa. Cánh cửa vừa mở ra, một thiếu phụ trạc ba mươi tuổi ló mặt ra. Thượng Quan Kỳ vội vàng thi lễ hỏi mua thực vật. Phụ nhân nét mặt sầu khổ nói: – Nhà tôi không còn một hột gạo, một ngọn rau, lâm gì có thừa mà bán? Nói xong cũng đóng sập cửa lại ngay. Thượng Quan Kỳ tựa đầu gối vào khẽ đẩy cánh cửa. Phụ nhân bị rung chuyển phải lùi lại ba thước, chân đi loạng choạng một lúc rồi mới đứng vững lại được. Thượng Quan Kỳ lạnh lùng hỏi: – Ta lại mua thực vật trả tiền, sao các người lại không bán? Phụ nhân nói: – Chúng tôi đây không có gạo, lấy đâu ra cơm, rượu mà bán cho người? Thượng Quan Kỳ nói: – Thế thì có gà bán cho chúng tôi một đôi cũng được. Phụ nhân lắc đầu đáp cộc lốc: – Không có. Thượng Quan Kỳ tức mình nói: – Tôi không tin như vậy, phải vào coi mới được. Phụ nhân đột nhiên dang tay ra ngăn Thượng Quan Kỳ lại nói: – Không được? Trong nhà tôi có người ốm. Thượng Quan Kỳ dừng lại trầm ngâm một lát rồi nói: – Thế thì... tôi vào coi người ốm. Chàng giơ tay phải ra khẽ đẩy cửa. Phụ nhân sa sầm nét mặt lớn tiếng quát; – Ngươi cậy quyền thế gì mà dám tự tiện sấn vào nhà người ta? Thị vung tay một cái không biết vô tình hay hữu ý cho cườm tay đụng vào cổ Thượng Quan Kỳ. Thủ pháp này coi nhẹ như không mà thực ra là một chiêu thức tuyệt cao trong võ lâm, cườm tay phụ nhân đi chênh chếch đánh lên, Thượng Quan Kỳ bắt buộc phải đỡ. Thượng Quan Kỳ vung tay lùi lại đến ba thước, trong lòng rất đỗi tình nghi buột miệng hỏi: – Mụ cũng là con nhà võ ư? Nguyên chàng không khéo nói, lời chàng có vẻ cứng cỏi, không ra con người có học vấn. Phụ nhân mặt lạnh như tiền nói gay gắt: – Mi nói cái gì ta không hiểu? Thượng Quan Kỳ hỏi lại: – Có thật mụ không hiểu lời ta nói không? Phụ nhân hắng giọng đáp: – Bất luận ta có hiểu hay không, mi không có quyền vào nhà ta, nếu ta là người nham hiểm bỏ thuốc độc vào đồ ăn rồi mới đưa cho liệu mi có biết không? Phụ nhân nói xong đóng cửa lại đánh sầm một cái. Thượng Quan Kỳ ngơ ngẩn đứng trơ ra đó trong lòng lại càng nghi hoặc, chàng tự hỏi: “Hay là trong cái thôn xóm nhỏ này có điều gì bí mật? Trên chốn giang hồ thật là nhiều sự khó hiểu. Chàng còn đang ngẫm nghĩ đột nhiên nghe sau lưng có tiếng người ho rồi hỏi: – Ông khách đói lắm phải không? Thượng Quan Kỳ xoay người lại thấy một ông già râu tóc bạc phơ đứng trước cửa căn nhà đối diện, đang tủm tỉm cười nhìn mình. Chàng đáp: – Quả vậy, tại hạ đang đói quá! Ông già cười nói: – Nếu ông khách không hiềm thôn quê hủ lậu thì xin mời qua bên tôi dùng vài lưng cháo hẩm. Thượng Quan Kỳ cả mừng nói: – Được vậy tại hạ cảm tạ lão trượng vô cùng. Chàng rảo bước chạy sang, đột nhiên thấy trong tia mắt lão già lộ vẻ quái dị chàng không khỏi chột dạ lẩm bẩm: – Nơi thôn nhỏ này nhiều sự kỳ quái, ta phải đề phòng mới được. Nếu lão bỏ thuốc độc vào trong thức ăn, làm sao ta biết dược? Nghĩ vậy chàng dừng chân lại. Lão tóc bạc nói: – Dù ông khách có phải là người sắt cũng không thể nhịn đói được. Ông khách chẳng nên ngần ngừ nữa. Thượng Quan Kỳ nghĩ lại: “Người ta với mình chưa từng quen biết có lý đâu lại bỏ thuốc độc hại mình”. Chàng liền cất bước đến cửa nhà lão đảo mắt nhìn vào thấy trong nhà đầu đằng tây có bày một cỗ bàn bát tiên và mấy cái ghế gỗ. Trên vách phía đông treo bức tranh Đào viên kết nghĩa và tích Lưu Quan Trương. Đó là cách bài trí thông thường ở thôn quê, không có gì khác lạ. Chàng đã hơi yên dạ, tươi cười nói: – Lão trượng có lòng khẳng khái như vậy, tại hạ cảm kích vô cùng. Ông già tóc bạc cười nói: – Cái đó có chi đáng kể. Ông khách ngồi chờ tôi lấy thức ăn lên. Nói xong lão trở gót đi vào, chân bước rất lẹ làng. Thượng Quan Kỳ ngồi một mình ngoài nhà khách, đảo mắt nhìn bốn phía, đột nhiên nghe phía sau có tiếng cười khúc khích hỏi: – Ngươi đã lại đấy ư? Thượng Quan Kỳ nghe tiếng quen quen nhưng trong lúc thảng thốt chưa nghĩ ra ai. Chàng quay đầu nhìn lại, thấy cửa vẫn đóng chặt, thanh âm này dường như ở bên trong phòng. Chàng muốn chạy xông vào phòng trong xem ai. Song chàng đã lịch duyệt giang hồ được ít nhiều, nên cố nén lòng, một mặt ngấm ngầm vận khí đề phòng, một mặt giả vở không nghe tiếng bên trong, lòng suy nghĩ về thanh âm vừa rồi. Chẳng mấy chốc ông già vào nhà trong bưng ra một bát cháo lớn nói: – Lão như không thổi nấu, trong nhà còn được bát cháo, ông khách xơi tạm cho đỡ đói. Thượng Quan Kỳ đã chuẩn bị từ trước, mỉm cười đỡ lấy bát cháo nói: – Đa tạ lão trượng. Chàng đưa bát cháo lên miệng toan húp thì đột nhiên tựa hồ nhớ ra điều gì quan trọng, vội hỏi: – Lão trượng! Trong tòa nhà này chỉ có mình lão trượng thôi ư? Chàng vừa nói vừa đặt bát cháo xuống bàn bát tiên. Ông già đảo mắt nhìn hai lần khẽ thở dài nói: – Nhà này chỉ có mình lão phu thôi! Thượng Quan Kỳ tủm tỉm cười, toan hỏi nữa thì ông già cướp lời: – Nhưng vừa rồi có một vị nữ khách nhân mới đến. Thượng Quan Kỳ nói: – Nữ khách nhân? Ông già tóc bạc đáp: – Vâng? Nữ khách nhân mà lại là nữ nhân mình mang trọng bệnh. Lão phu thương cô ta quá, nên giữ lại đây. Lão vuốt bộ râu bạc tủm tỉm cười nói tiếp: – Trong thôn này trừ lão phu ra, không ai muốn cho khách trọ, để tránh mọi điều phiền não. Thượng Quan Kỳ à lên một tiếng rồi hỏi: – Lão trượng có thể cho tại hạ biết nguyên nhân? Ông trầm ngâm một lúc, ra chiều khó nghĩ đáp: – Kể về nguyên nhân rất là phức tạp. Có điều lão phu đây đã đến ngày tàn tạ, không quan tâm gì đến sự sống chết nữa, vì thế mà dám làm những việc người khác không dám. Thượng Quan Kỳ bụng đang đói meo, nhìn bát cháo thèm quá, mà phải ngấm ngầm vận động chân khí, cố gượng chống lại cơn đói lòng nói: – Tại hạ đã học qua về thuốc có thể chữa được những bệnh thường thường, xin lão trượng dẫn tại hạ vào coi vị cô nương đó, may ra chữa giúp cô được chăng? Ông già râu bạc vuốt râu nghĩ một lúc rồi nói: – Cô nương đó ư? ở trong phòng ngay mé sau ông khách đó. Ông khách cứ tự tiện vào coi. Thượng Quan Kỳ chạy lại khẽ gõ cửa, hỏi vọng vào: – Bệnh tình cô nương có nặng lắm không? Chàng vừa hỏi vừa ngấm ngầm vận nội lực đẩy cửa, thì chỉ thấy bức vách chuyển động, còn cánh cửa gỗ vẫn đóng im ỉm không mở ra được. Thượng Quan Kỳ nghĩ thầm: “Hai cánh cửa này chắc quá!” Rồi chàng vận động thêm mấy thành công lực đập mạnh một cái. Chàng đập mạnh quá, gãy cả then cửa. Hai cánh cửa mở toang ra. Thượng Quan Kỳ toan bước vào nhưng chàng thốt nhiên nghĩ ra là mình có cử chỉ lỗ mãng quá, liền dừng chân lại. Chàng ho lên mấy tiếng nói: – Xin cô nương tha lỗi cho tại hạ quá đường đột. Rồi rảo bước vào phòng. Chàng ngẩng đầu nhìn lên, thấy Liên Tuyết Kiều đang nhắm mắt ngồi trên chiếc giường gỗ. Thì không khỏi giật mình.