Đêm qua anh ở đâu?
Chương 10 : - Phần 2
Anh trở về khách sạn muộn và vội vã tắm rửa mặc đồ, và cô có thể cảm thấy anh bắt đầu bồn chồn lo lắng khi họ bước vào chiếc xe kiểu cổ mui hở trước đang chờ.
“Anh căng thẳng à?”
“Ừ, một chút, anh nghĩ thế.”
“Anh chỉ cần nhớ rằng: trong tất cả những bài hát trên đời, họ chọn bài hát của anh. Mỗi một lần ai đó chuyển kênh để xem một tập phim, họ sẽ nghe thấy bài hát của anh. Thật tuyệt vời, anh yêu ơi. Rất tuyệt đấy.”
Julian đặt bàn tay anh lên tay cô. “Anh nghĩ chúng mình sẽ rất vui. Và trông em cứ như người mẫu vậy. Những ống kính chắc sẽ chụp như điên à xem.”
Brooke hầu như chưa thốt được câu hỏi của cô ra khỏi miệng - “Ống kính nào kia?” - thì chiếc đã xe dừng lại trước lối vào Hula Hut, một quán rượu nổi tiếng vì loại pho mát queso ngon nhất phía Bắc biên giới Mexico, và cả tá những tay săn ảnh đang chờ đón họ.
“Ôi trời ơi, họ định chụp ảnh chúng mình hay sao đây?” Brooke hỏi và đột nhiên hoảng sợ vì tình huống không dự tính trước này. Cô ngước lên thì thấy tấm thảm dài in hình đốm bò sữa - thảm đỏ kiểu Texas, cô đoán. Cách đó vài bước chân, giữa con phố và cánh cửa nhà hàng, cô thoáng thấy một cặp trong dàn diễn viên đang tạo dáng trước các ống kính.
“Chờ đấy nhé, anh sẽ mở cửa xe phía bên em,” Julian vừa nói vừa bước từ phía anh ra khỏi xe và đi vòng sang phía cửa bên cô. Anh mở cửa xe và nghiêng mình chìa tay cho cô. “Đừng lo, họ chả mấy quan tâm đến chúng ta đâu.”
Brooke nhẹ cả người khi phát hiện ra rằng anh nói hoàn toàn chính xác. Đám thợ ảnh lúc đầu bu lấy họ vì háo hức tưởng rằng hai người là nhân vật quan trọng nào đó, và rồi biến ngay về phía đằng sau nhanh y như khi xuất hiện. Chỉ có một tay phó nháy hỏi xem họ có thể làm mẫu chụp một tấm trước tấm phông đen lớn lặp đi lặp lại dòng chữ sắc nét Friday Night Lights và NBC gần cửa ra vào. Sau khi chớp một vài khuôn hình một cách không mấy nhiệt tình, anh ta yêu cầu họ đọc tên vào máy ghi âm rồi biến. Hai người tiến về phía cửa, Brooke nắm chặt tay Julian, và rồi cô nhìn thấy Samara phía bên kia phòng. Brooke quan sát chiếc đầm lụa trang nhã không cầu kỳ, đôi xăng đan kiểu võ sĩ giác đấu và đôi hoa tai tua rua rủ leng keng của chị ta màmình lố bịch. Tại sao cô lại diện trang phục ột bữa tiệc dân dã trong lúc người phụ nữ kia trông như vừa từ sàn trình diễn thời trang bước ra thế? Sẽ thế nào nếu đó là một sự nhầm lẫn tai hại và Brooke là người duy nhất diện trang phục cao bồi đêm nay. Cô cảm thấy hơi thở mình chìm xuống và nỗi kinh hoàng dâng lên.
Chỉ đến lúc ấy Brooke mới đủ can đảm nhìn quanh khắp phòng. Ngút tầm mắt là những chiếc quần soóc Daisy Duke và những chiếc mũ cao bồi.
Cô nhận một ly cocktail trông giống nước trái cây từ chiếc khay được chuyền về hướng họ và lâng lâng khoan khoái suốt cả một giờ đồng hồ sau đó với màn giới thiệu và giao lưu, ăn uống và nói cười. Đó là một trong những bữa tiệc hiếm hoi mà dường như ai cũng thật lòng háo hức được đến dự - không chỉ dàn diễn viên và ê kíp làm phim, những người đã quen biết và hòa hợp với nhau, mà còn cả vợ chồng và bè bạn của họ cùng với vài ba người nổi tiếng mà một số nam diễn viên đang hẹn hò hoặc những nhân vật mà người phụ trách quan hệ công chúng tranh cãi rằng cần phải đến vì mục đích quảng cáo. Brooke phát hiện ra cầu thủ Derek Jeter đang nấn ná cạnh một chiếc đĩa đầy bánh ngô nachos và cố gắng nhớ xem anh này đính hôn với cô gái nào trong phim Friday Night Lights, và Julian bảo rằng anh vừa mới liếc thấy Taylor Swift bán khỏa thân đang thu hút một đám đông những người hâm mộ ngoài hiên. Nhưng chủ yếu chỉ là một đám vui nhộn huyên náo mặc quần cưỡi ngựa bó chẽn, áo kẻ ca rô và quần soóc jean, uống bia, ăn queso và chen chúc nghe nhạc của thập niên tám mươi đang mở trên loa. Brooke hầu như mất hẳn sự e dè ngượng ngập mà cô thường cảm thấy ở các sô diễn trước đây của Julian, và cô say sưa với điều đó, khoan khoái trước cái cảm giác hiếm hoi khi được vây quanh, thấy mình duyên dáng yêu kiều và nói chung là phê. Lúc Julian và ban nhạc của anh lên cái sân khấu dựng tạm thì Brooke đang ở trong một nhóm, bị kéo vào một cuộc nếm cocktail margarita ngẫu hứng của một đám nhà văn. Chỉ đến lúc đó cô mới chợt nghĩ rằng cô vẫn chưa được xem ban nhạc đệm mới của Julian biểu diễn cùng anh ngoại trừ lần xem băng ghi hình màn biểu diễn ở chương trình Leno.
Brooke quan sát trong lúc họ leo lên sân khấu để tập hợp và thử nhạc cụ và cô hơi ngạc nhiên khi phát hiện ra trông họ chẳng mấy giống một ban nhạc rock mà đúng hơn là có vẻ như một nhóm trẻ đôi mươi nào đó đã từng là bạn thân ở trường nội trú quý tộc New England. Tay trống, Wes, dĩ nhiên phải có mái tóc dài, chỉ có điều tóc cậu ta không rủ những mớ bóng nhẫy xuống mặt mà thôi. Những lọn tóc màu gỗ gụ của Wes vừa dày vừa gợn sóng óng ả, mái tóc thật ra xứng với con gái hơn. Cậu mặc một chiếc áo phô tay màu xanh lá, quần jean hồ cứng và đi đôi giày thể thao New Balance kiểu cổ điển màu xám. Trông cậu giống kiểu cậu học sinh cấp ba đi vác gậy và nhặt bóng golf trong dịp nghỉ hè - không phải để kiếm tiền mà để “rèn nhân cách” - và thôi không làm việc nữa khi đã đến thời điểm vào làm ở hãng luật của cha mình. Tay ghi ta chính là người lớn tuổi nhất trong ban, chắc hẳn ngoài ba mươi chút ít, và mặc dù không mang dáng dấp thư sinh như Wes nhưng chiếc quần vải thô cũ rích, đôi giày thể thao Converse màu đen và chiếc áo phông JUST DO IT! (6) của anh ta còn khuya mới có vẻ nổi loạn. Không giống như tay trống đồng nghiệp, Nate hoàn toàn chẳng khớp với bất kỳ hình mẫu nào của một tay ghi ta chính trong ban nhạc - anh ta lùn mập và có nụ cười ngượng nghịu với đôi mắt luôn nhìn xuống. Brooke nhớ lại Julian đã choáng đến mức nào khi nghe Nate chơi trong buổi thử giọng sau khi đã soi mói anh ta khắt khe lúc anh ta mới bước lên sân khấu. “Khi gã này lên sân khấu là ta lập tức thấy ngay gã là đứa suốt đời bị đập đến sợ vãi ra. Có vẻ như gã sợ cả cái bóng của mình. Rồi gã bắt đầu đàn và trời đất ơi, đúng là gã bất thần bay bổng. Trên cả tuyệt vời.” Thêm Zack, cây ghi ta bass, vào là trọn bộ ba của họ, y có vẻ giống nhạc công hơn các bạn đồng diễn nhưng mái tóc vuốt dựng lên rất mốt cùng xích đeo quần và đường chì kẻ mắt huyền ảo làm y có vẻ phô trương hơn. Y là thành viên duy nhất trong nhóm mà Julian không ưa, nhưng bên Sony nghĩ rằng cây ghi ta bass mà anh chọn đầu tiên - một cô gái - sẽ làm anh lu mờ, và Julian không muốn tranh cãi. Đó là một nhóm kỳ cục, cái ban nhạc dường như không ăn khớp với nhau này - nhưng không ai có thể nói rằng đó không phải là một ban nhạc kích thích sự tò mò. Brooke ngó quanh phòng và nhận thấy lúc này mọi người đều đã lặng xuống.
(6) Câu khẩu hiệu bản quyền của hãng Nike thường được in trên áo phông của hãng này.
Julian không tự giới thiệu mình hay bài hát như cách anh vẫn thường làm khi biểu diễn, anh chỉ gật đầu về phía ban nhạc và bắt đầu hát bài “Achy Breaky Heart” theo kiểu của riêng anh. Đó là một quyết định mạo hiểm nhưng cũng là một toan tính khôn ngoan. Anh chọn một bài hát cũ hơi sến, cải biên để cho nó cái vẻ nghiêm trang, sâu sắc hơn nhiều và hoàn thiện nó thành một bản hoàn toàn mới lạ vừa hay một cách đầy ẩn ý vừa trào lộng. Ca từ như thế này: Bạn mong chờ chúng tôi tới đây và hát với phong cách đứng đắn nhất một bài ca bạn chọn để mở đầu buổi diễn, hoặc có thể là một bà đó nằm trong album sắp tới, nhưng chúng tôi đến đây đâu phải để tỏ ra đạo mạo thế. Đám đông cười ồ, cổ vũ rồi hát theo, và khi bài hát kết thúc, họ ào lên vỗ tay như điên cuồng.
Brooke vỗ tay theo mọi người và ngây ngất vì nghe thấy những người xung quanh cô đang bàn tán về tài năng của Julian và rằng họ có thể nghe anh hát suốt đêm. Cô không mảy may ngạc nhiên khi thấy những người khác phấn khích như vậy; sao họ lại không cảm thấy thế được kia chứ? Nhưng điều đó nghe bao giờ cũng như mới. Giờ đây, khi Julian nhẹ nhàng tiến đến bục micro và nở nụ cười tươi rất đáng yêu, Brooke thấy như cả phòng đều cười đáp lại anh.
“Này, mọi người ơi,” anh vừa nói vừa điệu nghệ nhấc chiếc mũ cao bồi của mình lên. “Cảm ơn vì đã đón chào cậu bé Yankee (7) này đến thị trấn.”
(7) Chỉ người dân sống ở các bang phía Bắc nước Mỹ.
Đám đông hò reo và vỗ tay. Brooke thấy Tim Riggins nâng chai bia về phía Julian, và cô cố kìm mình để khỏi kêu lên. Derek Jeter đặt cả hai tay lên miệng làm động tác bắc loa “U-hu!” Vài người viết kịch bản, những nữ văn sĩ mà Brooke vừa cùng nếm cocktail margarita lúc trước, đứng thành hàng trước sân khấu và huýt sáo về phía ban nhạc. Julian ban cho tất cả bọn họ một nụ cười mẹ mìn nữa.
“Tôi nghĩ rằng mình đang phát biểu thay cho cả ban nhạc khi nói rằng tôi tự hào và vinh dự xiết bao vì các bạn đã biến bài hát của tôi thành của các bạn.” Càng nhiều tiếng tán thưởng và huýt sáo tiếp theo hơn, nhưng Julian giơ tay lên. “Và tôi nôn nóng được hát bài đó tối nay, với tất cả các bạn ở đây. Nhưng tôi hi vọng các bạn không phản đối cho tôi xin chỉ vài phút trước khi tôi hát bài ‘For the Lost.’ Ngay bây giờ tôi muốn hát một chút gì đó cho Brooke, người vợ yêu dấu của tôi. Thời gian gần đây cô ấy đã rất mực thông cảm và chịu đựng - tin tôi đi, thông cảm và chịu đựng thực sự đấy - và đã lâu rồi anh chưa nói cảm ơn em. Rookie à, bài này là dành tặng em.”
Nghe biệt danh của mình được nhắc lên, Brooke cảm thấy đỏ cả mặt, và trong tích tắc cô bị sốc vì Julian gọi cô bằng biệt danh đó trước công chúng. Nhưng trước khi kịp có thời gian để suy xét điều đó, cô đã nghe thấy những hợp âm mở đầu bản “Crazy Love” của Van Morrison - bài hát đầu tiên họ khiêu vũ cùng nhau trong đám cưới của họ - và chỉ một giây sau cô đã sững sờ vì tiếng hát của anh. Julian đăm đắm nhìn cô trong lúc anh để cho khúc hát dâng trào, và đến khi anh vào đoạn điệp khúc và hất đầu về phía sau để ngân nga những lời ca thì Brooke mới choàng tỉnh khỏi hồi tưởng riêng tư để nhận thấy rằng tất cả mọi người trong phòng đang nhìn cô chằm chằm. À mà không. Đàn ông trong phòng còn đang mải đổi chân, tu bia và quan sát ban nhạc chơi – chỉ có đám phụ nữ là đang nhìn Brooke chằm chằm với vẻ rất ghen tị và ngưỡng mộ mà thôi. Cảm giác này thật kỳ lạ; dĩ nhiên cô đã từng chứng kiến cảm giác tôn thờ Julian của mình được người ta chia sẻ ở những sô diễn khác của anh, nhưng trước đây chưa bao giờ cô thấy tâm điểm tập trung trực tiếp vào mình như thế. Cô mỉm cười, hơi nhún nhảy và nhìn Julian trong lúc anh hát bài dạ khúc cho riêng cô mà không hiểu sao, bất chấp thực tế là hàng trăm người đang chứng kiến, cô có cảm giác như đó là giây phút riêng tư nhất mà họ từng chia sẻ cùng nhau. Một trong những giây phút ngọt ngào nhất mà đến giờ cô còn nhớ.
Rốt cuộc, lúc Julian cũng chuyển sang bài “For the Lost” thì Brooke tin chắc rằng cả phòng tiệc đều phải lòng anh. Lòng nhiệt tình thật hiển nhiên và mãnh liệt, nhưng đến khoảng giữa giữa bài hát thì cô còn cảm thấy một cơn rùng mình thích thú thậm chí còn mạnh mẽ hơn nổi lên. Mọi người bắt đầu đi lại, ngoảnh ra ngoảnh vào, ngó nghiêng và thầm thì. Vài người nghển cả cổ lên. Thậm chí có người còn chỉ trỏ. Có điều gì đó đang xảy ra, nhưng Brooke không thể nhìn thấy được qua đám đông cho đến lúc... Hượm đã... có lẽ nào đó lại là...
Layla Lawson (8)? Ôi, chắc chắn rồi, và trong lúc Brooke chẳng thể nào hiểu được Layla Lawson làm cái gì ở bữa tiệc công chiếu phần đầu Friday Night Lights này, thì cô ta đã ở đây... và trông cô ta thật lộng lẫy. Coi chiếc đầm hoa mùa hè để lộ bờ vai trần và đôi bốt cao bồi mà Layla mặc, Brooke cũng chẳng hiểu cô ta có mặc trang phục theo quy định hay không nữa, nhưng không thể phủ nhận rằng cô gái đó trông khỏe mạnh, vui tươi và rất, rất nổi tiếng. Cả phòng tiệc dõi theo cô ta trong lúc cô ta chào Samara bằng một cái ôm siết và sau đó chen ra đằng trước đám đông, gần chỗ Brooke đang đứng ngay dưới chân sân khấu.
(8) Nhân vật này được nhà văn hư cấu.
Điều đó xảy ra trước khi bất kỳ một ai - kể cả Julian - có thể hiểu được. Chỉ vài giây sau khi họ hát xong bài và đang ngập trong những tràng vỗ tay, Layla tiến đến cầu thang bên cạnh dẫn lên sân khấu, sải những bước dài tự tin tới chỗ Julian và ôm choàng lấy anh trong vòng tay mở rộng. Cô ta tươi cười, và sau khi hôn lên má anh rồi quàng cả hai tay qua phía trên khuỷu tay anh, cô ta quay lại nhìn khán giả. Trông cô ta hệt như đang đánh đu lên người anh, đăm đắm nhìn anh với nụ cười phô hàm răng trắng bóng và vẻ mặt cực kỳ ngưỡng mộ. Cho đến tận lúc này Julian vẫn đờ người vì kinh ngạc, nhưng chắc hẳn anh đã chợt nhận ra điều gì đó - chỉ vài giây sau anh đã đáp lại bằng cái nhìn ngưỡng mộ và còn nhiều hơn thế nữa.
Cô ta nghiêng về phía micro cứ như nó là của riêng cô ta vậy và kêu to, “Anh ấy mới nóng bỏng làm sao, phải không mọi người? Hãy cùng ngợi khen Julian Alter nào!”
Phòng tiệc trở nên cuồng nhiệt. Cả đám phó nháy lúc trước đã lờ họ đi cũng phát cuồng lên. Họ xô đẩy nhau giành vị trí, chớp hết kiểu này đến kiểu khác, đèn flash sáng liên tục chẳng khác gì đêm trao giải Oscar. Cảnh này qua nhanh y như lúc nó bắt đầu, khi Layla ghé sang thầm thì gì đó vào tai Julian rồi biến khỏi sân khấu. Brooke tưởng rằng cô ta sẽ ở lại uống một vài ly, nhưng ngôi sao đang lên đó đi thẳng về phía cửa trước.
Mười phút sau Julian đã lại ở bên cạnh cô, mồ hôi đầm đìa và cười rất tươi, vẻ rạng rỡ thường lệ sau khi diễn của anh như ngời ngời hơn vì nỗi phấn khích. Anh hôn cô và nhìn cô như muốn nói, Anh nóng lòng được nói với em về điều này quá, và siết chặt tay cô trong lúc đi quanh phòng, tươi cười hồn nhiên nhận những lời chúc mừng và những cái vỗ vai.
Họ không có lấy một giây nào với nhau đến tận gần một giờ sáng, khi Samara và Leo chúc ngủ ngon và đi về phòng riêng của họ trong khách sạn (dĩ nhiên, Leo đi cùng một người bạn mới mà anh ta gặp ở bữa tiệc). Ngay giây phút cánh cửa vừa đóng sau lưng họ, Julian quay về phía cô và nói, “Em có tin được rằng Layla Lawson mà lại nhảy lên sân khấu với anh không?”
“Nếu em không tận mắt chứng kiến cảnh ấy, em sẽ chẳng đời nào tin được. Em vẫn không dám chắc rằng mình có tin hay không nữa.” Brooke đá đôi bốt ra khỏi chân và đổ vật lên giường.
“Layla khỉ gió Lawson đấy nhé. Thật là kỳ quái. Cô ta làm cái chết tiệt gì ở đây thế nhỉ?”
“Em cũng chẳng biết nữa, nhưng nói cho anh biết nhé, cô gái đó còn nhảy múa được nữa. Anh có thấy cái cách cô ấy nhảy bên cạnh anh không, cái kiểu lắc bụng và đánh hông đó? Thật là mê hoặc. Cứ như thể ngay lúc ai đó nhét micro vào tay là cô ấy lập tức không cầm lòng được.
Có tiếng gõ cửa.
Julian nhìn sang Brooke, cô nhún vai. Anh bước ra mở cửa, và Leo vọt ngay vào dù chưa được mời. Brooke suýt thì phá lên cười: áo sơ mi của gã cởi cúc đến tận rốn, và gã có một vết trông khả nghi như vết son môi ở phía bên trong cổ áo.
“Này, nghe nhé,” gã nói với Julian mà chẳng buồn chào hỏi cũng như xin lỗi vì đã phá đám. “Tôi biết bây giờ quá sát nút, nhưng Samara vừa mới bảo tôi rằng chị ấy đã sắp xếp một đống việc cho cậu vào ngày mai ở L.A. Cái màn Layla hôm nay cực đỉnh, và người ta đang phát cuồng lên vì nó đấy. Chúng ta sẽ ra sân bay lúc chín giờ sáng, được chứ?”
“Mai ư?” Julian cố mãi mới thốt ra được, trông anh có vẻ sửng sốt hệt như những gì Brooke đang cảm thấy vậy.
“Chín giờ đúng, ở sảnh. Các chuyến bay của chúng ta đã được sắp xếp đâu vào đấy rồi. Chắc là trả cậu về New York sau ba bốn hôm gì đó. Tối nay diễn tuyệt lắm, anh bạn. Sáng mai gặp các bạn nhé,” gã nói rồi chuồn nhanh. Brooke thầm gửi lời cảm ơn cho bất kỳ cô gái nào đang đợi trên giường gã đêm đó.
“Thế đấy,” Brooke nói khi cánh cửa sập sau lưng Leo.
“Ờ. Dáng chừng mai anh sẽ đi L.A.”
“Được thôi,” Brooke nói vì lẽ cô chẳng biết nói gì hơn nữa. Cô sẽ phải hủy kế hoạch ăn tối hôm sau của họ với các bạn đại học của Julian, những người từ xa kéo về thành phố này. Và anh cũng sẽ không thể cùng cô đi dự buổi tiệc ở bảo tàng mà Nola mời, cô nàng có chân trong ban tình nguyện và vé dự tiệc đã tốn của họ cả đống tiền.
Lại có tiếng gõ nữa ở ngoài cửa.
Brooke rên lên. “Gì nữa đây?”
Lần này là Samara, chưa bao giờ Brooke thấy chị ta sinh động đến thế. Cả chị ta nữa cũng tiến vào mà không chào hỏi, nhìn xuống cuốn sổ tay bìa da của mình và nói, “Vậy là vụ chụp ảnh với Lawson có hiệu quả cao hơn tôi hi vọng - tất cả mọi người ai ai cũng chộp lấy. Tất cả mọi người.”
Cả Julian lẫn Brooke nhìn chị ta chằm chằm.
“Tôi đã nhận hàng trăm cú điện thoại đòi phỏng vấn và chụp ảnh. Brooke, tôi đang cân nhắc một đề nghị được viết một bài đặc biệt về cô đấy, một cái gì đó từa tựa như ‘Bà Julian Alter là ai?’ vậy nên hãy chờ thêm thông tin nhé. Julian, chúng tôi sẽ giữ cho lịch của cậu bận kín mít suốt tuần tới. Tin vui lớn đây, kết quả còn trên cả tuyệt vời, và tôi nói ngay để cậu biết: người ở bên Sony hết thảy đều ấn tượng.”
“Chà,” Julian nói.
“Tuyệt,” Brooke đế thêm
“Những tay săn ảnh đã đóng đô đầy ngoài hành lang rồi, vậy hãy chuẩn bị đối mặt với họ vào buổi sáng nhé. Tôi có thể giới thiệu vài người để cô cậu xin tư vấn nếu cần đảm bảo riêng tư và an ninh, họ rất cừ đấy.”
“Ồ, tôi không cho điều đó là cần thiết,” Brooke nói.
“À há. Cứ cho tôi biết khi nào cần. Trong lúc này, tôi cho rằng cả hai cô cậu nên bắt đầu làm thủ tục đăng ký vào các khách sạn bằng những cái tên khác và nên cực kỳ thận trọng với những gì cô cậu gửi bằng email cho bất kỳ một ai.”
“Ừm, biện pháp này có thật...”
Samara ngắt lời Julian và gập cuốn sổ của chị ta vào. Buổi họp chính thức tạm dừng.
“Brooke, Julian” - chị ta chậm rãi gọi tên cả hai người với kiểu cười làm Brooke ớn lạnh - “chào mừng đến với bữa tiệc.”
Truyện khác cùng thể loại
46 chương
47 chương
10 chương
40 chương
47 chương