Đất Thiêng
Chương 2 : Vụ Án Kì Lạ
Dù là Thợ Săn, đây là lần đầu tiên Lý giết một Nhân Thú. Cô mới chỉ là một Thợ Săn mới. Năng lực của Lý mới bắt đầu bộc lộ cách đây vài tuần. Khi đó, Lý vẫn đang ở quê nghỉ hè, nơi cô nhìn thấy chân tướng của một “con yêu quái” đầu tiên trong đời. Đó là một gã buôn hàng lậu đi ngang qua cái thị trấn miền núi hiu hắt của cô. Chuyện đó xảy ra rất nhanh, hình ảnh Lý nhìn thấy cũng mờ nhạt và nhòe nhoẹt đến mức Lý không chút nghi ngờ rằng mình bị hoa mắt. Tuy nhiên, chuyện ấy lại tiếp tục xảy ra, với những gương mặt quái vật khác nhau, khi Lý trở lại thành phố vào năm học. Tiếp xúc với nhiều người hơn, cũng đồng nghĩa với việc nhìn thấy nhiều điều kì quái hơn. Cái hệ quả tất yếu khi chẳng có ai đủ hiểu biết nói cho cô điều gì xảy ra, đó là cô tưởng mình đang bị điên dần đều. Lý không dám nói gì với ai, cho đến khi gặp Kim.
Kim vốn học cùng giảng đường với Lý. Không thân thiết gì lắm vì Kim chuyên trị bỏ học nên chẳng lấy đâu ra cơ hội nói chuyện với nhau nhiều nhặn gì. Nhờ can thiệp vào vụ Kim bị thằng Mạnh đầu gấu của lớp bắt nạt mà Lý nhìn thấy Kim lộ hình. Cũng vẫn coi mình hoang tưởng như mấy lần trước, nhưng lần này lại khác cái là Kim cũng nhận ra chân tướng của Lý.
- Không thể tin được! Mọi người đều nghĩ Thợ Săn đã biến mất. Họ đã không xuất hiện cả hàng trăm năm nay. Vậy mà tớ lại học cùng lớp với chính một Thợ Săn. Cậu không biết gì đúng không? Ôi, cậu không biết gì cả? Thật? Không có một ai đến tìm cậu nói cho cậu điều đó? Theo như tớ đọc được trong cuốn Những kiến thức sơ đẳng về Thợ Săn thì năng lực Thợ Săn không di truyền mà được trao một cách ngẫu nhiên. Ngay cả thời điểm phát lộ năng lực cũng ngẫu nhiên, thường là trong độ tuổi hai mươi, nhưng có người chỉ mới mười mấy tuổi, có người lại đến tận ba bốn chục tuổi mới phát lộ. Người phát lộ muộn nhất được ghi nhận là bốn mươi mốt tuổi, tên là Phạm Đình Hầu ở thế kỉ mười bốn. Có một nhóm đạo sĩ gọi là Người Giám Sát. Mỗi khi có một người mới phát lộ năng lực Thợ Săn, Người Giám Sát ở gần khu vực đó nhất sẽ có nhiệm vụ tìm gặp và hướng dẫn người Thợ Săn về thân thế và sứ mệnh của mình.
- Sứ mệnh gì?
Kim hít vào, một sự lưỡng lự, suy tính gì đó thoáng qua.
- Tiêu diệt các giống loài siêu nhiên. Bao gồm chi Nhân Thú - như tớ đây, là chi chủ yếu. Ngoài ra còn có chi thiểu số là chi Ma gồm các thể loại từa tựa như hồn ma, còn chi Dị Nhân đã được gộp luôn vào Nhân Thú, mặc dù họ không chính xác là “thú”. Tất nhiên đó là truyền thống trong quá khứ. Về sau có nhiều Thợ Săn bắt đầu nhận ra rằng không phải tất cả các loài siêu nhiên cần phải bị tiêu diệt. Họ hoàn toàn có thể sống chung với người thường mà không gây hại gì. Thế là giới Thợ Săn, đạo sĩ chia thành hai phe đối lập. Các loài siêu nhiên cũng vậy. Rồi chiến tranh nổ ra. Rất phức tạp, và tớ cũng không rõ chi tiết lắm. Tớ chưa được đọc cuốn sách nào tử tế về cuộc chiến tranh đó. Tớ chỉ biết là sau khi chiến tranh kết thúc, tất cả Thợ Săn đều biến mất, còn các loài siêu nhiên thì cũng mất gần hết năng lực, chỉ còn mạnh bằng một phần chục trước kia.
- Tớ nghĩ rằng không có Người Giám Sát nào đến tìm cậu bởi vì khi các Thợ Săn biến mất thì những Người Giám Sát cũng biến mất theo. Và đến giờ chẳng có ai còn làm công việc đó nữa.
- Nếu sứ mệnh của Thợ Săn là tiêu diệt các loài siêu nhiên, thì có nghĩa là tớ sẽ phải làm việc đó, đúng không? Thế sao cậu không sợ tớ?
- Ôi, đó chỉ là trong quá khứ. - Kim nhún vai. - Tớ không nghĩ cậu là người thích đi giết chóc lung tung, dù đó là ai đi nữa.
Kim nói đúng, Lý chẳng hề muốn giết ai hết, cho dù kẻ đó là yêu quái đi nữa.
- Hơn nữa, loài Linh Quy bọn tớ không thực sự có mối quan hệ xấu lắm với Thợ Săn và loài người. Cậu nhớ Thần Kim Quy đã giúp An Dương Vương xây thành ốc chứ, đó là cụ tổ-tổ-tổ-tổ của tớ. Linh Quy chẳng làm hại ai cả, bọn tớ thậm chí còn không có sức mạnh thể chất gì đặc biệt. Các loài khác ư? Kẻ thì có tốc độ, kẻ có sức mạnh, nọc độc hay năng lực khác thường nào đấy. Nhưng Linh Quy thì không, bọn tớ chỉ có năng lực đặc biệt về trí óc. Tớ có thể nhớ chính xác một hình ảnh hay cuốn sách nào đó với chỉ một lần xem nếu tớ thực sự để tâm.
- Nếu các loài siêu nhiên có nhiều sức mạnh như vậy, mà Thợ Săn lại là khắc tinh của họ thì có nghĩa Thợ Săn cũng phải có năng lực đặc biệt, đúng không?
- Đương nhiên. Cậu chưa cảm thấy gì nhiều, đúng không? Cậu có khi cũng còn nhìn chưa rõ chân tướng của Nhân Thú. Đó, nhìn xem, có nhìn thấy cái mặt rùa của tớ rõ không? - Kim khoái chí cười khi thấy Lý nheo mắt rồi lắc đầu. - Vẫn còn nhòe, đúng không? Sẽ dần dần rõ lên, sức mạnh của cậu cũng vậy. Khi Thần Nhãn phát triển hoàn chỉnh thì sức mạnh, tốc độ của cậu cũng được hoàn thiện.
- Thông thường, các Nhân Thú trưởng thành đều ở trạng thái kiểm soát tốt, chẳng có ai nhìn thấy chân tướng của họ. Tuy nhiên khi họ mất kiểm soát, có thể do giật mình, sợ hãi hay kích động, họ sẽ bị lộ hình. Người thường không thể nhìn thấy, mà chỉ loài siêu nhiên mới thấy được. Thần Nhãn của Thợ Săn cũng có thể nhìn ra chân tướng Nhân Thú trong trường hợp đó. Người thường chỉ có thể nhìn thấy chân tướng của Nhân Thú khi họ hiện nguyên hình. Ở trạng thái đó, họ sẽ có đầy đủ sức mạnh và năng lực của Nhân Thú. Những điều này ghi rất rõ trong cuốn Căn bản về Nhân Thú.
- Nhân Thú… Có phải thường được gọi là yêu quái đấy hả?
Môi Kim bặm lại vì một sự phật lòng.
- Đó là từ ngữ của những người thường không hiểu biết. Họ không chỉ gọi bọn tớ là yêu quái, có loài thì được tôn thành thần, có loài thì gọi là tiên. Nhưng không, chẳng có gì khác biệt giữa thần, tiên hay yêu hết. Tất cả đều bình đẳng. Tất cả đều là Nhân Thú.
Buổi nói chuyện đó với Kim mới chỉ cách đây một tuần. Khi đó, hình ảnh Kim lộ hình vẫn còn nhòe lắm. Đêm qua, khuôn mặt của gã người rắn hiện lên đã khá rõ. Sức mạnh của Lý cũng tăng lên. Nếu không thế, có lẽ cô đã chết thay vì lo sốt vó vì đã giết hắn.
***
Lý và Kim cứ lượn qua lượn lại đường Bờ Sông, chỗ gần cầu Sầm, cả ngày hôm sau cái đêm Lý phải tá túc ở nhà Kim. Nhưng thật kì lạ, chẳng có một tin đồn nào, dù từ miệng mấy bà bày thúng bán tào phớ, rau rợ dưới chân cầu – vốn là dân buôn dưa lê chính hiệu. Sự vụ đêm đó khiến Lý chẳng có tâm trạng đâu mà về kí túc. Cô chỉ mò về lấy cặp sách và mấy bộ quần áo rồi ở rịt nhà Kim đến mấy ngày. Suốt mấy ngày đó, tâm trạng Lý căng như dây đàn.
- Tại sao không thấy người ta bàn tán gì?
Lý đi lòng vòng trong gian nhà nhỏ tối mờ của Kim, như thể đang trong một nghi lễ cúng tế của một tộc người thiểu số nào đó. Kim ở chỗ ngồi thường lệ của mình – tức là ở đầu giường, cạnh cái bàn con, lưng tựa vào tường, điềm tĩnh trả lời.
- Chỉ có một lời giải thích hợp lí thôi: cái con rắn mà cậu đâm chưa chết. Hắn đã biến ngay sau khi cậu rời đi, đang nằm chữa trị ở xó nào đấy. Và tớ cá rằng còn lâu nữa mới dám bén mảng lại cầu Sầm để giở mấy trò đồi bại ấy nữa. Cậu dừng lại một chút được không, tớ nhìn chóng hết cả mặt.
Lời giải thích của Kim, hay có lẽ chủ yếu là cái thái độ điềm tĩnh và chắc chắn của nó làm Lý tĩnh tâm lại. Ồ phải, tại sao mình không nghĩ ra điều đó? Mình đâu biết thằng đó chết hay chưa đâu. Nếu người ta không xôn xao có nghĩa là không có xác chết nào trên cầu. Mà không có xác chết nào thì…
Nụ cười xuất hiện lại trên môi Lý, khi đôi chân dừng chuỗi lòng vòng lại. Và một sự nhẹ nhõm bùng lên, lan tỏa trong lòng.
***
Chỗ Chiến ở là một căn nhà ba tầng, ở tận cùng một con hẻm cụt tối tăm. Tuy có ba tầng, nhưng vì diện tích rất nhỏ và thiết kế không được hợp lí cho lắm nên rốt cục ngôi nhà chỉ có được hai phòng là nên hồn. Tầng dưới chỉ đủ cho bếp và chỗ để xe. Hai tầng trên, mỗi tầng có một phòng ngủ và một gian để đồ chừng hai mét vuông. Đó là bởi vì chủ nhà đã quyết định dành một khoảng không gian cũng rộng tương đương với căn phòng ngủ để làm ban công, nơi phơi quần áo và cho cây hoa giấy đầu cửa leo lên rụng đầy lá ở đó. Lá hoa giấy chất thành đống, nói chung Chiến cũng chẳng mặn mà gì với việc quét lá cho lắm.
Thông thường, những căn nhà thế này sẽ được thuê bởi hai ba người, để chia bớt tiền nhà. Tuy nhiên công việc cảnh sát của Chiến kiếm đủ bộn tiền để anh ở một mình. Hơn nữa, thành thực mà nói, Chiến trông không đến nỗi tệ. Cao ráo, da rám nắng, dáng dấp phong trần, cộng với gương mặt khá điển trai, ơn trời. Chiến lại được trời phú cho cái tấm lòng rộng rãi rất là yêu thương phụ nữ. Mặc cho những người phụ nữ mà anh thi thoảng đưa về nhà cũng không có giống nhau cho lắm. Tóm lại, Chiến thấy thích hợp nhất là ở một mình.
Chiến vốn người Thanh Hóa. Ra trường xong chả hiểu thế quái nào anh lại bị điều đi làm việc ở một huyện lẻ xa tít mù tắp trong núi ở Phú Thọ. Ở cái chỗ chó ăn đá gà ăn sỏi đó, Chiến được làm cái công việc tẻ ngắt nhất trên đời là lo việc giấy tờ cho trại giam Tân Lập. Chuỗi ngày của anh xoay vòng với những giấy tờ nhập trại, ra trại, ân xá, với rau bắp cải luộc và thịt mỡ kho nghệ. Điều thú vị duy nhất ở đó là tán phét với đám tù nhân. Chà chà, tù trong trại sao có những kẻ trông đẹp dễ sợ. Da trắng, môi đỏ, nói chuyện với một dáng vẻ vừa bất cần, vừa cam chịu, rồi đến ngày ra trại chúm chím môi, vẫy tay như thể cười đểu anh: “Cán bộ ở lại nhé, em về!” Ra chính anh mới là người bị giam lỏng ở đó.
Ở Tân Lập vài năm, Chiến được chuyển về quê, làm tiếp ở một trại giam khác, chỉ có điều cái trại giam này to hơn, và thức ăn dễ chịu hơn, nhưng tù nhân lại chẳng đẹp bằng. Được ít lâu, chả hiểu bên trên luân chuyển nhân sự theo cái cơ chế gì, tự dưng anh ta được nhảy phắt sang làm bên hình sự. Lại giấy tờ. Vốn tính tình cũng thích phiêu lưu (hay xem phim hình sự Mỹ lắm!), thế mà từ khi ra trường lúc nào cũng chỉ cắm mặt vào ghi chép với đánh máy, Chiến ngán đến tận cổ. Đang tính bỏ nghề quách, thì tự dưng lại được điều đến cái chốn này.
Đến đây, thì Chiến được làm công an điều tra hình sự thực thụ. Ban đầu, Chiến cũng ngạc nhiên, vì có vẻ như ở đây chả ai muốn làm cái công việc này cả. Sau ít lâu, anh mới vỡ lẽ.
Có lẽ chưa nơi nào có nhiều vụ án còn bỏ ngỏ như nơi này. Tất cả các manh mối, dường như hoặc vô cùng bí hiểm, hoặc vô cùng vô lí, hoặc đi vào ngõ cụt. Tất nhiên, các vụ mà đội điều tra phá được cũng không phải là ít lắm. Họ chưa phải là vô dụng đến mức đó. Nhưng hồ sơ những vụ án còn dang dở thì chất thành dãy. Đã thế, dường như càng ngày số vụ phạm tội lại càng tăng lên. Có lẽ vì thị xã lên thành thành phố, cao đẳng lên thành đại học, kéo theo một đống người từ khắp nơi đổ về đây, bao gồm luôn cả đám lưu manh anh chị.
Nói chung, cuộc sống ở đây với Chiến tương đối ổn. Công việc chưa được đến 50 sắc thái nhưng cũng đủ hỉ nộ ái ố. Có tí rùng rợn, phiêu lưu, chứ không chán chết như kiểu “sáng cắp ô đi chiều cắp ô về”. Lương đủ sống đàng hoàng, thi thoảng nhậu nhẹt ở quán Cá Sông, hay uống cà phê gần cổng cơ quan. Các cô sơn nữ thì lúc nào cũng phơi phới, da trắng mịn như cánh đào phai ngày Tết, chỉ ngắm mấy phút đã đủ cảm hứng làm việc cả ngày. Tóm lại, Chiến hài lòng.
Thế nhưng, ngay chính xác lúc này đây thì Chiến lại chả hài lòng tí nào. Anh xem đi xem lại tập hồ sơ trước mặt mình với một vẻ nghiêm trang và đăm chiêu hết sức. Dường như đây lại là một vụ án chuẩn bị xếp chung vào dãy tủ mang tên “bỏ ngỏ”.
Bức ảnh đầu tiên là hình một người đàn ông trung tuổi nằm trên sàn nhà. Đó là một người đàn ông có lẽ đã từng khá bảnh trai, giờ mặt trắng bệch, máu loang từ cổ đến tấm áo may ô bị cào rách của ông ta, chảy cả trên sàn nhà. Ngực có mấy vết cắt sâu như bị cào bởi những móng vuốt sắc. Vết thương ở cổ, (Chiến di tay vào một vùng trên tấm ảnh) khám nghiệm tử thi cho thấy vết thương đó không giống như dao, kiếm cứa vào, mà giống như vết răng cắn của một loài thú dữ.
Bức ảnh thứ hai chụp hình chiếc bàn làm việc của nạn nhân. Chiếc bàn lớn có thiết kế cầu kì, mang hơi hướng cổ, được làm bằng thứ gỗ lim xịn. Giấy tờ trên bàn lộn xộn, rơi cả xuống sàn nhà. Có những vết xước sâu trên mặt bàn. Giống như vết móng vuốt của con thú gì đó cào vào.
Chiến giở tiếp một tấm ảnh thứ ba. Đó là tấm ảnh căn lầu của nạn nhân, nơi xác chết được tìm thấy, chụp từ ngoài vào. Đó là một dạng giống như nhà sàn của người Tày, nhưng nhỏ hơn, cao hơn và ít cột hơn. Kiểu như lai giữa nhà sàn và chùa Một Cột. Căn lầu được làm hoàn toàn bằng gỗ, mái lầu được thiết kế kiểu mái cong có đầu rồng giống như ở chùa, những bức vách xung quanh có những hình trạm trổ tinh tế hình loan phượng. Bức hình được chụp vào lúc sáng sớm, nắng đã lên, nhưng nước ảnh khá nhợt nhạt, khiến nó mang một sắc thái rất phù hợp là hiện trường vụ án. Không có lối lên căn lầu.
Dường như nạn nhân Hồ Văn Ên đã bị giết bởi một con thú dữ ngay ở đường Quang Minh, một nơi đông đúc dân cư và không hề gần núi. Đây không phải là vụ đầu tiên bị thú dữ giết mà Chiến gặp. Những năm trước, hay thậm chí vài tháng trước, cũng có. Nơi đây là một thành phố miền núi. Trường đại học lưng tựa vào đồi. Ủy ban tỉnh nằm trên phần còn lại của một ngọn đồi nhỏ. Bệnh viện cũng nằm trên chỗ từng là đỉnh đồi. Người ta đã san đồi để làm nhà, làm đường. Những ngôi nhà bám quanh đồi. Đồi, gò, dốc hiện diện khắp nơi trên đường, trong phố, trong làng, bao quanh thành phố. Nhưng những ngọn đồi đó (hay phần còn lại của nó) chỉ là đồi trọc, đồi cây bụi, đồi tre nứa, bạch đàn, keo. Chiến không tin chúng có thể chứa những con thú dữ đủ lớn cắn chết người.
Trừ khi những con thú đó đã chạy ra từ núi Sồi. Nhưng từ núi Sồi đi vào khu dân cư, cũng phải ba bốn cây số. Liệu có khả năng? Nhưng rồi sau khi cắn chết người, con thú dữ đó đã đi đâu? Chẳng có một báo cáo nào về việc thấy một con thú rừng sổng ra, ngoại trừ những xác chết.
Cũng có một khả năng thủ phạm là một trong những con chó hoang (hoặc thậm chí, không hoang mà được huấn luyện). Giống chó Tây, hay chó Phú Quốc đều có thể cắn đứt cổ người. Nhưng tất cả những vụ án mà Sở nhận về đều chẳng thể tìm ra được điều gì rõ ràng hơn, ngoài việc kết luận “chết vì thú dữ cắn”, rồi chìm vào quên lãng.
Nhưng Chiến không thể dẹp được những lấn cấn về những kết luận đó, nhất là khi những hồ sơ tương tự ngày càng tăng lên. Nhất là đến vụ án này, khi nạn nhân bị giết chết ngay ở trong căn lầu giữa khuôn viên nhà ông ta, tại khu phố đông đúc nhất thành phố và chẳng hề gần cái đồi cây hay rừng nào. Rõ ràng, nếu kết luận chỉ là một tai nạn do thú dữ thì quả là lố bịch.
Đúng thế. Sẽ hết sức là lố bịch.
Truyện khác cùng thể loại
18 chương
98 chương
3 chương
24 chương
51 chương