Đại kiếm sư

Chương 21 : Hoàng sa dục huyết

Bọn ta xuất phát vào lúc nửa đêm, đây là kế hoạch của Niên Gia, hậu duệ của lữ hành gia vĩ đại, để tránh lúc chính ngọ khi nhiệt độ của sa mạc trở nên khốc liệt nhất. Do cánh vi hành này, sinh hoạt ngày đêm bị đảo lộn. Trước bình minh, những tia sáng mông lung rải rác trên mặt đất, bọn ta đã đi qua qua vùng đất khô cằn sỏi đá, bắt đầu đặt chân lên những bãi cát mịn như phấn hoa. Vầng thái dương khổng lồ đỏ ối từ bên phải bọn ta dần dần trồi dậy, ánh sáng rạng đông soi sáng biển cát vô cùng vô tận trước mắt. Khí lạnh run người của ban đêm nhanh chóng bị thay thế bằng cái nóng ngột ngạt của ban ngày. Bọn ta giống như những động vật đáng thương trong một cái nồi hấp, Đại Hắc thè cái lưỡi dài thở hồng hộc khó nhọc, chỉ có bọn thiên lý đà và Phi Tuyết là có vẻ an an nhàn nhàn, tựa như chúng đang trở lại cố hương của mình. Niên Gia và mấy Tịnh Thổ nhân vốn thích nói chuyện, bỗng trở nên trầm mặc, nhãn thần đờ đẫn nhìn về phía trước. Thời gian càng đi càng chậm, cuối cùng tựa hồ hoàn toàn dừng hẳn lại, thiên địa giống như không có chút cải biến nào nữa, tất cả cảnh tượng xuất hiện không ngừng trước mắt, chỉ là một bản sao của cảnh tượng ban trước. Khuôn mặt xinh đẹp của Thải Nhu như đang phát sáng, vì hoàng hôn hôm qua, nàng chung quy cũng đạt được thứ mà nàng từ trước đến nay vẫn mong muốn, ta cũng không còn dấu diếm tình yêu của ta với nàng nữa. Ta cảm thấy thật thanh thản và khoái lạc khi cởi bỏ được cái nút buộc tình cảm này. Bấy lâu nay, ta phải vận dụng đủ loại phương pháp, áp chế tình yêu của mình đối với nàng, bỗng nhiên, tại giao giới giữa sa mạc và lục dã, trong ánh hồng ban chiếu của tịch dương, trong tiếng đùa giỡn của Đại Hắc và Phi Tuyết, ta đã ngộ ra sự vô tình của thời gian và vận mệnh, ta không thể lấy tay mà che đi cặp mắt thêm một khắc nào nữa, vì trong tương lai nếu như mất đi những thứ đó, ta chỉ có thể trong hối hận mà vượt qua. Bởi vậy, ta phải dùng hết can đảm, giống như lúc đối diện với đại địch, hướng Thải Nhu mà nói hết những lời chân thật tự tâm can. Khi vầng thái dương đã lên tới lưng trừng trời, bọn ta hạ trải nghỉ ngơi. Trong căn lều đặc chế của Niên Gia, khổ sở chống lại cái nóng thiêu đốt của sa mạc, người vật uống nước ăn đồ, qua buổi trưa mới tiếp tục hành trình, đến hết hoàng hôn dừng lại nghỉ ngơi, đến lúc nửa đêm lại tiếp tục lên đường, cứ như thế đi đi nghỉ nghỉ, hơn mưới ngày sau đã tiến vào trong lòng sa mạc. Cảnh vật trước mắt bắt đầu có thay đổi. Sa mạc thuần phác đơn điệu chung quy cũng có chút biến hoá. Nền cát mịn và phẳng phiu đã biến thành một vùng đại bình nguyên rải đầy sa thạch và sỏi thô, trơ trọi, thông thoáng và bằng phẳng, từng trận cường phong thổi qua, như đang giận giữ gầm rú, bọn ta lần lượt xuống ngựa và thiên lý đà, lấy những tấm vải dài che đầu cho bọn chúng, rồi gập người xuống, từng tấc từng tấc một tiến về phía trước. Cuộc hành trình không ngừng nghỉ khiến ai nấy đều cảm thấy nản lòng. Cái duy nhất khiến người ta cảm thấy được an ủi chính là vầng thái dương đang thống trị trên đại địa, sẽ có lúc tạm thời khuất sau những đám mây lớn để bọn ta giảm bớt nỗi nhọc nhằn dưới cái nóng thiêu đốt của sa mạc. Bốn canh giờ sau, bọn ta đã đến tận cùng của vùng bình nguyên trơ trọi, phía trước không còn là những dải cát bằng phẳng, mà là vô số những cồn cát nhấp nhô như bầu ngực người thiếu nữ, những cồn cát cát này là những ngọn núi cát cực kỳ cân đối, tạo thành tuyến đường khúc khuỷ kéo dài dằng dặc đến quá đường chân trời, cảnh tượng vô cùng hùng vĩ. Con ngựa không ai cưỡi của Thải Nhu, hai vó trước bỗng nhũn ra, rồi vô lực ngã gục xuống. Ta giật mình, dừng ngựa, gọi lớn: “Hạ trại ở đây thôi!” Ta ngồi thụp xuống, chỉ thấy miệng nó sùi ra một đám bọt trắng, trong lòng bỗng trào lên một cảm giác thống hận, lực bất tòng tâm, ngẩng đầu lên thì thấy khuôn mặt tái xanh nhợt nhạt của Thải Nhu. Thải Nhu bậm chặt đôi môi, không nói lời nào. Niên Gia dẫn một Tịnh Thổ nhân tới, người Tịnh Thổ này kêu bằng Ba Cương Đạt, ông ta đến bên con ngựa của Thải Nhu xem xét một lúc, trong miệng lẩm bẩm vài câu gì đó, một lúc sau, khẽ lắc đầu đứng dậy. Ta trầm giọng hỏi bằng tiếng Tịnh Thổ: “Nó sao rồi?” Niên Gia nói: “Ba Cương Đạt là chuyên gia về lạc đà và các loại gia súc khác, ông ta nó con ngựa lao lực quá độ lại còn bị nhiệt khí thâm nhập, không thể cứu được nữa.” Thải Nhu nhẹ nhàng ngồi xuống, vòng tay ôm lấy cổ ngựa, áp khuôn mặt thanh tú vào bộ lông bờm nó, khuôn mặt thanh tú của nàng áp vào cái bờm của nó. Nhắm lại đôi mắt, nghiêng nghiêng khuôn mặt thanh tú, mỹ lệ nhưng đượm vẻ u buồn. Bọn ta trầm mặc trở lại. Đại Hắc chạy tới, dụi đầu vào lòng Thải Nhu. Ta bất nhẫn, quay mặt đi. Đêm hôm đó, bọn ta ngồi quanh đống lửa trải, đốt phân sói và những súc củi mang theo từ vũ lâm, tâm tình mọi người đều chán nản, thất vọng. Niên Gia nói: “Trong ba mươi ngày tới kể từ ngày mai là chặng đường nguy hiểm nhất cuộc hành trình, không chỉ vì thời tiết biến đổi thất thường, những cơn bão cát đến vô tung đi vô tích, mà chúng ta còn phải đi qua nơi ẩn nấp của bọn sa đạo cạnh “Mạc Trung Hồ”, bọn ta nhất định phải đến đó để bổ xung lương thực, nước uống và nghỉ ngơi.” Ta nói:”Các ngươi tịnh không phải là lần đâu tiên đi qua nơi này, bọn sa đạo nếu như có muốn ra tay, thì chẳng phải là đã sớm ra tay rồi sao?” Niên Gia đáp: “ Không có ai dám đến gần Mạc Trung Hồ, giỏi nhất là chỉ có thể đến những ốc đảo lân cận, nơi đó có nhiều nguồn nước, bởi vậy chu vi một trăm dặm xung quanh Mạc Trung Hồ, cũng có khá nhiều cây xanh, phụ thân ta trước đây đã từng đào vài cái giếng ở đó, chính nhờ chúng, mà bọn ta có thể bổ xung nước uống giữa đường, hơn nữa chúng được ngụy trang rất tốt, đến bọn sa đạo cũng không sao biết được. Niên Gia ngập ngừng một lúc rồi nói tiếp: “ Chính tại một trong những cái giếng đó, bọn ta đã gặp Đại Nguyên Thủ...” Thần sắc mọi người đều lộ vẻ bi thống và kinh sợ. Thải Nhu ôm lấy Đại Hắc, rồi cùng nó cuộn người trong tấm chăn lông cừu, chống lại cái lạnh của đêm khuya, khẽ hỏi: “Bọn sa đạo có thật là đáng sợ như vậy không?” Niên Gia đáp: “ Điểm đáng sợ nhất của bọn chúng là giống như những cơn cuồng phong trên sa mạc, mỗi khi ta không ngờ tới thì bọn chúng chợt xuất hiện, cùng với đó là chém giết, cướp bóc và hãm hiếp, những Tịnh Thổ nhân sống ở ven sa mạc đều bị đẩy sâu vào nội địa. Cái tên Sa Mạc Chi Vương Đỗ Biến, có thể khiến các hài tử Tịnh Thổ khóc thét.” Ta lại nghĩ, Đại Nguyên Thủ nếu như theo lời nói của Ma Nữ, là một quái vật nửa người nửa máy, nhưng hằng ngày hắn vẫn phải ăn uống, ngủ nghỉ như người thường thậm chí cả những dục vọng giới tính. Như vậy khả năng mà hẳn ẩn nấp gần những nguồn nước để dưỡng thương là rất lớn, giả sử sự thật đúng là như vậy, thì ân oán giữa ta và hắn có thể giải quyết trước khi tiến nhập vào Tịnh Thổ. Nhưng ta e rằng sự tình sẽ không như vậy được. Như Niên Gia đã nói, bảy trăm năm trước Mã Tổ tế ti viết ra Dự Ngôn Thư, nếu ma trêu quỷ khiến, mọi chuyện có thể giải quyết trước khi tiến vào Tịnh Thổ, như vậy ta cũng không phải tiến nhập vào vùng đất chiến tranh liên miên này, lời tiên đoán của Mã Tổ tế ti cũng sẽ không trở thành hiện thực. Nhưng nếu trong trường hợp không ai có thể chạy khỏi được những an bài của vận mệnh, thì nó ắt sẽ dẫn dắt ta tiếp nhập Tịnh Thổ, đến đó để trải nghiệm thiên đường của nhân gian, quốc gia mỹ lệ mà chỉ có thần linh mới có thể tạo thành, nơi mà cả ngàn năm hoa nở trong mùa xuân ấm áp, nay đã chớm chuyển sang mùa đông lạnh giá. Chỉ có Đại Nguyên Thủ mới có thể dẫn ta tiến vào Tịnh Thổ. Như vậy vô luận thế nào, ta sẽ không thể giết Đại Nguyên Thủ trước khi tiến nhập Tịnh Thổ. Cách nghĩ này, khiến ta vô cùng căm ghét Dự Ngôn Thư kia. Con người vốn không nên biết đến sự tồn tại của vận mệnh, ta hiện tại chính là nạn nhân đàng thương đó. Đặc biệt là câu “Đau thương vô tận”, càng khiến ta thêm sợ hãi, điều gì có thể khiến ta đau thương đây? Trong đầu lại trào lên ý nghĩ về “Thải Nhu Khâu”, chỗ mà Thải Nhu muốn dùng làm nơi an nghỉ cuối cùng của mình, ý nghĩ cường liệt này khiến ta rên lên sợ hãi. Thải Nhu nói: “Đại Kiếm Sư! Sắc mặt ngài khó coi quá.” Ta miễn cưỡng cười đáp: “Có thể là do hơi mệt một chút!” rồi quay sang Niên Gia nói: “Tin ta đi, khi bọn sa đạo tới, ta nhất định sẽ cho bọn chúng nếm mùi đau khổ.” Niêng Gia gật đầu lia lịa nói: “Điểm này ta hoàn toàn đồng ý, có ngài ở đây, hơn nữa ta còn có chút muốn gặp bọn sa đạo xuất quỷ nhập thần đó một lần, nhưng lại nghĩ Tịnh Thổ đang ở trong hiểm cảnh, nên không dám lần chần nhiều, vậy để bọn khốn đó sống thêm một chút.” Gã Niên Gia này đã hoàn toàn bái phục kiếm thuật của ta, bởi trong lòng gã ta chính là Thánh Kiếm Kỵ Sĩ như trong lời tiên đoán của những tiền bối Tịnh Thổ. Ta hận những lời tiên đoán đó, hận Mã Tổ vì sao lại tiết lộ thiên cơ. Hai mươi ngày sau, bọn ta trong tình trạng sức tàn lực kiệt, thiếu nước, thiếu lương thực, đến được giếng nước đầu tiên cách “Mạc Trung Hồ” bốn mươi dặm về phía bắc, giữa hàng ngàn cồn cát vàng này, khiến người ta thật khó mà tin được lại có một tiểu thảo nguyên vuông vắn, rộng tầm bốn dặm, rải rác lại còn có cây cối mọc lên. Đi đến đây địa thế bắt đầu nhấp nhô, khiến khiến những hạt cát không vật gì dấu được cũng khó mà tận tình tàn phá. Bốn phía khu vực này là những viên sa thạch lổn nhổn, xa xa là một gò đất nhỏ bên trên có những tảng đá lớn chồng lên giống như đỉnh một chiếc mũ, khiến người ta có một ấn tượng sâu sắc. Niên Gia cất tiếng gọi lớn, đoạn thúc thiên lý đà nhanh chóng chạy lên phía trước, Phi Tuyết không cần đợi ta phân phó, cắm đầu mải miết đi, không đến một khắc sau đã đến được bãi cỏ mềm, sau ba mươi ngày sống giữa cát vàng, chán nản đến điên người, thực vật xanh ngát quả là một sự hưởng thụ tuyệt vời thiên hạ vô song. Chúng nhân không cần đợi phân phó, hạ trại đốt lửa, múc nước từ dưới giếng lên. Thải Nhu vẻ mặt sợ hãi đến bên ta, hạ giọng nói: “Bọn họ chuẩn bị giết thịt một con thiên lý đà.” Ta nhún vai, biểu thị đó là việc bất khả kháng, đột nhiên nhận ra không nhìn thấy Đại Hắc đâu, vội hỏi: “Đại Hắc đi đâu rồi?” Thải Nhu chau mày nói: “Em đang định nói với ngài đây, Đại Hắc rất khác thường, vừa uống nước sau, không những không quấn lấy em đòi ăn, mà lại đánh hơi loạn khắp bốn phía, nhằm hướng quả núi bên kia ra sức sủa, như thể ở đó có cái gì rất đáng sợ. Trong lòng ta chấn động, như thể vừa bắt được một khái niệm gì đó rất mơ hồ, không thể nói một cách cụ thể được. Thải Nhu ngây ra nhìn ta. “Uông! Uông! Uông!” Đại Hắc chạy đến trước mặt ta, hai chân trước chồm lên trước ngực ta, hướng ta sủa điên cuồng, đoạn lại hướng ngọn núi giống hình chiếc mũ đó chạy đi, quay đầu lại, hướng ta tiếp tục sủa. Hình ảnh mơ hồ trong tâm đã dần dần hiện lên rõ ràng. Ta đã hiểu Đại Hắc phát hiện ra cái gì. Là Đại Nguyên ThỮ Hắn đang ở hòn núi hình chiếc mũ đó. Sự thực thì trước đó ta đã ngầm nghĩ đến khả năng này, vì Đại Hắc hôm đó có thể dẫn Thải Nhu lần theo dấu vết của ta, đương nhiên cũng có thể dẫn ta đuổi theo Đại Nguyên Thủ, vì Đại Hắc là vật may mắn duy nhất còn sống sót dưới bàn tay sát hại đẫm máu của Đại Nguyên Thủ nên đối với mùi hơi của Đại Nguyên Thủ nó có ấn tượng rất sâu sắc. Những ý nghĩ này như một tia chớp lướt qua trong đầu ta. Ta gọi cuống lên: “Phi Tuyết” Phi Tuyết nhả những cọng cỏ non mềm mại xuống mặt đất, phi đến bên ta. Phi thân lên ngựa. Thải Nhu nhào đến, kéo dây lưng da của ta, hoảng hốt hỏi: “Đại kiếm sư, ngài đi đâu vậy?” Ta chậm rãi đáp: “Đi giết Đại Nguyên Thủ.” Thải Nhu toàn thân chấn động, nói:”Cho em đi cùng với!” Ta mỉm cười, cúi xuống hôn vào má nàng: “Thải Nhu, ta yêu nàng, nàng là vầng thái dương duy nhất soi chiếu tâm hồn băng giá của ta, ta không thể để nàng phải chịu bất kỳ sự thương tổn nào. Ta nhất định sẽ trở về bên cạnh nàng, mỗi tối sẽ ít nhất cùng nàng ân ái một lần.” Thải Nhu buông tay, ngây ngô nhìn ta, lệ châu không ngớt rơi trên gò má. Toàn bộ sự việc xảy ra quá đột ngột, khiến nàng không biết nên thích ứng và phản ứng thế nào. Đột nhiên ta lại phải rời xa nàng, đơn độc đến cuộc phó ước sinh tử. Vài người khác đi tới. Niên Gia nói lớn:”Đại Kiếm Sư, vô luận ngài muốn đi đâu thì hiện tại không cũng phải lúc, ngài xem!” Nói rồi chỉ tay về phía đường chân trời sau hòn núi hình chiếc mũ. Ta nhìn theo hướng Niên Gia chỉ. Bây giờ còn chưa quá trưa, nhưng khoảng không vốn trong xanh của chân trời đằng xa đã biến thành màu vàng ảm đạm, bụi bặm dường như tĩnh lại. Ta ngẩn người nói: “Bão cát!” Niên Gia nói: “Không ai có thể tìm một người khác trong bão cát,theo như ta tính toán, không quá hai canh giờ nữa bão cát sẽ đến đây, nếu như ngài cứ đi theo hướng đó thì sẽ càng nhanh gặp bão cát mà thôi!” Ta nhìn về phía hòn núi cách đó ba dặm, lạnh lùng nói: “Chỉ cần một canh giờ cũng đủ rồi!”. Rồi hướng mấy Tịnh Thổ nhân nói: “Mang Đại Hắc đi cho ta!” Lập tức có hai người nhanh chóng ôm lấy Đại Hắc, định dùng dây chão thòng vào cổ nó nhưng Đại Hắc nhe răng để lộ bộ nanh trắng ởn như đe dọa khiến hai người sợ quá vội buông tay. Ta hạ giọng nói: “Thải Nhu!” Thải Nhu khẽ dạ một tiếng buồn bã, chạy đến ôm lấy Đại Hắc. Khi Thải Nhu ôm lấy chiếc cổ to khỏe của Đại Hắc, nó mới ngừng giãy giụa, hướng về phía ta rên ư ử thảm thiết, ánh mắt như van nài cho nó đi cùng. Khẽ kẹp chân vào bụng ngựa. Phi Tuyết ngửa cổ hí vang, cất vó phóng nhanh nhằm hướng hòn núi hình chiếc mũ. Đó là nơi duy nhất gần đây có thể ẩn nấp để dưỡng thương. Đã hơn ba mươi ngày nay Phi Tuyết chưa từng chạy như thế này, đằng sau nó bụi cát cuộn tung như một cơn lốc xoáy trên thảo nguên nhỏ bé, trong giây lát đã tiến nhập vào cát vàng. Bầu trời càng lúc càng u ám, gió càng lúc thổi càng mạnh, kèm theo đó là cát vàng cuộn lên mù mịt khắp trời, vầng thái dương cũng như mất đi sự uy quyền của nó, sức nóng cũng giảm bớt. Tầm nhìn càng lúc càng mơ hồ. Khi giẫm lên lớp nham thạch bên cạnh hòn núi hình chiếc mũ, ta thấy trên đống cát lộ ra nửa non thi thể, xương cốt của vài con thiên lý đà, khiến người ta liên tưởng đến cái chết và cảm giác bất tường. Phi tuyết càng chạy càng nhanh, hòn núi hình chiễc mũ đã gần ngay trước mắt, toàn quả núi gần như do nham thạch sa mạc tạo thành, một cọng cỏ cũng không mọc nổi, chỉ có một số nơi mặt trời không thể cả ngày chiếu rọi, phát triển một số thực vật sa mạc hình dáng to, cứng có nhiều gai nhọn và dài như kim. “Đinh”! Sau lưng, Ma Nữ Nhận vang lên cảnh báo. Trong lòng ta quá vui mừng, Đại Nguyên Thủ quả là ở nơi này. Thế gió càng đi đến càng mạnh, Phi Tuyết đã giảm tốc độ, nhưng vẫn nhanh phi thường. Ta quay đầu nhìn về phía ốc đảo, Thải Nhu cũng như ngọn cỏ biến mất trong bụi đất bao phủ khắp trời, ta cố trấn tĩnh tinh thần, quay đầu lại phía trước, đi vòng quanh chân núi, hướng một ốc đảo phía sau lưng núi mà chạy tới. Trực giác của ta nói cho ta biết Đại Nguyên Thủ đang ở đó đợi ta. Đi qua góc núi, ta gần như lập tức nhìn thấy Đại Nguyên Thủ. Hắn đứng trên một tảng đá lớn nhô ra trên núi, trên tay cầm một thanh trọng kiếm đoạt được từ người Thiểm Linh, mũ đen giáp đen, giống như một con quỷ đáng sợ dưới địa ngục bất ngờ chạy ra. Giữa trận cuồng phong, vạt giáp bị hất lên lới phới. Ta nhảy xuống ngựa, rút Ma Nữ Nhận, hét lớn: “Đại Nguyên Thủ!”. Hắn cười điên cuồng đáp: “Hảo! Lan Đặc. Ngươi có dũng khí hơn cha ngươi”. Ta vỗ vỗ đầu của Phi Tuyết, ra hiệu cho nó đi sang một bên rồi lập tức lao đến nơi Đại Nguyên Thủ đứng. Đại Nguyên Thủ lạnh lùng nói: “Hà tất cần ngươi phải lên!”. Hắn nhảy sang tảng đá khác cách nơi hắn vừa đứng ít nhất mười thước, khi rơi xuống nhẹ nhàng ngả người về phía trước một chút rồi mới đứng yên. Động tác mặc dù nhẹ nhàng nhưng làm sao có thể qua mắt ta được, ta cười lớn nói: “Thật không ngờ vết thương của ngươi vẫn chưa khỏi!”. Trong mắt hắn vằn lên những tia hung ác, trầm giọng nói: “Dù chưa khỏi vẫn có thể giết được tên tiểu tử ngươi”. Ngẩng đầu nhìn Đại Nguyên Thủ cách hơn mười thước, khoảng cách này khiến chúng ta có áp dụng bất kỳ biện pháp nào thì đều thuận tiện cho đánh giáp chiến. Ta dừng lại, đứng trước gió hét lớn: “Ngươi không phải không muốn chạy trốn mà là biết trốn không nổi bốn vó của Phi Tuyết nên mới sẵn sàng làm một trận quyết chiến cuối cùng, phải không? Đại Nguyên Thủ. Ngươi đã sớm thấy ta đến”. Đại Nguyên Thủ nói: “Đúng vậy! Ta đã nhìn thấy Phi Tuyết, đã nhìn thấy ngươi, nhưng ta không hề sợ ngươi chút nào, Ma Nữ đã chết, thiên hạ không ai có thể ngăn chặn ta ngươi cũng không được”. Gió càng lúc càng mạnh, kèm trong đó là những hạt cát khiến mắt ta khó có thể mở to, nhưng Đại Nguyên Thủ lại đứng thuận theo chiều gió, nên hoàn toàn không bị ảnh hưởng. Không thể kéo dài nữa, ta hét lên, nhảy về phía trước. Đại Nguyên Thủ cũng hú dài, thanh trọng kiếm phóng ra đón đầu đâm thẳng vào ta. Ta giơ nhận ra đỡ, trong lòng thấy kì lạ, một kiếm này hoàn toàn chỉ có đi không có về, lẽ nào hắn không sợ Ma Nữ Nhận của ta. Ý nghĩ còn chưa dứt, một tảng đá lớn đã lao vụt đến, kích thẳng vào ngực ta, lúc đó ta mới tỉnh ngộ thì ra hắn dùng chân đá tung nó đến, không kịp né tránh, ta vội nghiêng người lấy bả vai đỡ, đề khí trầm mình hạ xuống, đồng thời thu nhận lấy chuôi đập mạnh vào tảng đá. “Cốp!”. Tảng đá lớn bị chuôi nhận đập xuống, giảm tốc độ rồi mới va vào bả vai ta. Trong tiếng rên khàn đặc, ta ngã lật người ra sau. Thân bên trái đau đến tê dại. “Huỵnh” một tiếng, tảng đá vừa đập vào vai ta nảy ngược lại, rơi xuống cồn cát phía dưới. Đại Nguyên Thủ cười to nhảy xuống theo, thanh trọng kiếm múa lên vun vút, lợi dụng cơ hội đó tấn công. Ta chịu đau, lộn trên cát tránh liên tiếp hơn mười đường kiếm của hắn, may mắn bước đi của hắn có chút chậm chạp, chứng tỏ hắn vẫn chưa hoàn toàn hồi phục sau đường kiếm đó. Mặc dù như vậy, ta cũng quyết giết hắn tránh tình hình nảy sinh nguy hiểm bất ngờ, nếu không phải hắn uý kỵ đao ma nữ của ta thì đã sớm lấy mạng ta rồi. “Keng!”. Ta sử dụng một thủ pháp vô song, tinh xảo kỳ diệu, cuối cùng cũng kích chúng vào trọng kiếm của hắn. Thanh trọng kiếm rung lên. Bão cát càng lúc càng mạnh, thổi những hạt cát tung bay đầy trời, những hạt cát bên mình cũng cuộn tròn trong gió, bọn ta như bị cuốn trong tâm điểm của bão cát. Đại Nguyên Thủ hú lên điên cuồng, sau đó lại nhào tới, hung quang toé lộ trong hai mắt. Ta không dám mở miệng kêu la, vì cứ mở miệng những hạt cát theo đó chui vào. Lặng lẽ nhảy vụt lên từ trên nền cát, lách người né tránh một đường kiếm quét ngang của Đại Nguyên Thủ, một tiếng “keng”, mũi nhận lại lần nữa kích chúng thanh trọng kiếm của Đại Nguyên Thủ. Hắn quả thật rất cố kị với thanh Ma Nữ Nhận, thu mạnh kiếm về, đoạn nhanh chóng ẩn vào trong gió bụi sa mạc bao phủ đầy trời, chỉ dư lại một cái bóng mờ mờ. Lúc này bốn bề chìm ngập trong trong một biển cát mênh mông. Ta ra sức đứng trụ, chống lại cơn cuồng phong không ngừng thổi. Vô vàn hạt cát bay không ngừng trong vòng xoáy, chui vào trong y phục của ta, chọc thẳng vào từng mảng da thịt lộ ra bên ngoài chiến giáp, xâm phạm vào trong mũi, tai, ở mắt lại càng nhiều hơn. Đột nhiên ta phát hiện không thấy Đại Nguyên Thủ nữa. Một trận gió cát thổi đến, ta không khỏi chớp đôi mắt chong giây lát. “Đinh!”. Đao ma nhận phát tín hiệu cảnh báo. Trực giác của kiếm thủ kiến ta đưa nhận về phía sau. “Cheng!”. Hổ khẩu đau rần. Đại Nguyên Thủ lui nhanh về phía sau, trong thanh kiếm trong tay chỉ còn một nủa. Ta đổi Ma Nữ Nhận sang tay trái, bất chấp gió cát xông về phía hắn, “keng keng, choang choang”, Đại Nguyên Thủ liên tiếp đỡ hơn mười đường kiếm của ta, đến lúc thanh trọng kiếm chỉ còn sót lại độc một cái cán kiếm. Ta định bồi thêm cho hắn một kiếm nữa, nhưng một đường cát do chân Đại Nguyên Thủ hất lên, nhằm mặt ta bay tới, không có cách nào khác ta buộc phải lách người tránh, Đại Nguyên Thủ thừa cơ lùi vào trong gió cát mênh mông. Hắn muốn đảo tẩu! Tiếng vó ngựa vang lên, Phi Tuyết thật thông linh, đã nhanh nhẹn chạy đến. Ta liền nhảy lên ngựa, trong lòng nghĩ cho dù Đại Nguyên Thủ nhanh cỡ nào cũng không nhanh bằng Phi Tuyết, đúng lúc đó từ bên trái vang đến một tiếng sủa yếu ớt. Trong lòng chấn động, đây không phải tiếng sủa của Đại Hắc sao? Quay đầu về phía âm thanh vọng đến, thì một bóng đen vọt lại từ trong gió cát. Đại Hắc xuất hiện phía bên dưới ngựa, đỉnh đầu có một vết thương đang chảy máu, hướng ta sủa điên cuồng. Ta quên luôn Đại Nguyên Thủ, dang tay đón lấy Đại Hắc, ôm vào lòng, thúc Phi Tuyết chạy về phía ốc đảo. Bảo vệ Thải Nhu quan trọng hơn việc giết Đại Nguyên Thủ. Gió cát đến vội vàng, đi cũng vội vàng. Khi Phi Tuyết đặt chân lên ốc đảo, trong không khí mặc dù vẫn có đầy vụn cát nhưng cảnh vật đã có thể nhìn thấy rõ ràng, khiến ta lập tức nhìn thấy cảnh tượng bi thảm bày ra trước mắt. Cả vùng ốc đảo đã bị nhuốm màu máu tươi. Tất cả các huynh đệ Tịnh Thổ đã cùng ta đồng cam cộng khổ, nằm la liệt trong bể máu, thiên lý đà đến một con cũng không còn. Ta ôm Đại Hắc nhảy xuống ngựa, lật từng thi thể xem, ngọn lửa căm hận phẫn nộ trong lòng bốc lên thấu trời. Cuối cùng ta đã tìm thấy Niên Gia, trên người gã có ít nhất mười vết thương, một cánh tay bị chém đứt, nhưng vẫn còn một hơi thở nhẹ, yếu ớt. Ta cuống lên gọi: “Niên Gia, Niên Gia!”. Niên Gia mở mắt một cách khó khăn, nhìn thấy ta tinh thần liền phấn chấn, miệng nói: “Ta biết ngài sẽ quay trở lại, ta biết mà…”. Ta đau khổ hỏi: “Ai đã làm?”. “Là bọn sa đạo, bọn chúng đã bắt Thải Nhu, ngài hãy mau đuổi theo đi...”. Mặc lời thúc giục của Niên Gia, ta kiên quyết nói: “Để ta cứu anh trước”. Niên Gia lắc đầu: “Ta không được rồi, bọn chúng đã cướp đám Trân Ô Thạch, cầu xin ngài hãy đoạt nó về cho ta, giao nó cho Lạp Tát đại công…” đoạn lại ho lên một tràng mãnh liệt, ngũ quan ộc máu tươi. Môi gã khẽ run run, ta liền cúi xuống gần hơn hơn, chỉ nghe thấy giọng gã yếu ớt: “Ta rất…vui, ta được vì Thải Nhu mà chết…” âm thanh ngừng giữa chừng. Ta đau khổ ôm Niên Gia vào lòng nhưng níu giữ không được tính mạng đã mất của gã, máu của gã thấm đẫm áo ta, đỏ ối. Lũ sa đạo! Nếu Lan Đặc ta để cho các ngươi một người còn sống sót trên thế gian này thì ta sẽ không còn là Đại kiếm sư nữa. Mối hận này chỉ có thể lấy máu để rửa. Phi Tuyết, không biết mệt mỏi, đưa ta và Đại Hắc chạy như bay trên sa mạc mênh mông. Ta đã đuổi theo không nghỉ suốt ba canh giờ, cát vàng mênh mông vẫn không có dấu tích người nhưng ta đã cảm nhận được địch nhân mỗi lúc một gần, ta không dám nghĩ việc gì đã xảy ra với Thải Nhu, chỉ dám ép buộc đầu óc mình thật bình tĩnh và trống rỗng, ngoài một ý nguyện, là đuổi kịp bọn đạo tặc, giết không để một tên nào thoát. Vầng thái dương như một quả cầu lửa dần dần chìm xuống mặt đất, không khí bắt đầu trở nên lạnh lẽo. Phía trước, từ trên nền cát một dải sa nham vắt ngang trước mặt như một đạo tường thành, khói bếp đang từ sau bốc lên nghi ngút. Máu trong huyết quản ta sôi lên- “Thải Nhu! Giả dụ nàng còn sống ta nhất định sẽ cứu nàng ra, giả dụ nàng đã chết, ta sẽ vì nàng báo thù rửa hận, lấy máu của bọn chúng rửa sạch tất cả những nỗi nhục mà nàng phải chịu, sau đó ta sẽ đưa nàng trở về Thải Nhu Khâu”. Hai ngọn Đại Bổn mâu trong tay, ta xông thẳng lên đỉnh gò. Thời khắc lao xuống chính là thời khắc tắm máu quyết chiến.