Thành đô Quy Lạc. Trong vương cung, người người lặng tiếng, cả bước chân cũng phải rón rén nhẹ nhàng. Tiểu Kính An vương quyết định quyền sinh tử của mọi người chỉ bằng một lời nói, hôm nay đang lên cơn thịnh nộ. Phi Chiếu Hành vội vã đi vào, thấy sắc mặt bực bội của chủ nhân thì buông hay tay, cẩn trọng đứng sang một bên, đợi Hà Hiệp cất tiếng. “Ngươi đến rồi à?”, Hà Hiệp không hề hỏi đến những việc gần đây đã giao cho Phi Chiếu Hành mà chỉ đống công văn cao ngất trên bàn, nói: “Ngươi xem đi, một lũ ngu dốt vô tri! Ta đã nói đi nói lại, tất cả những điềm gở đó đều do có người cố tình chọc phá, binh mã cử đi cũng bắt được một đám loạn đảng trà trộn khắp nơi tung lời xằng bậy mê hoặc chúng dân, thế mà chúng còn liên tục gửi những thứ này cho ta, thỉnh cầu không nên vội vã lập tân quốc, nói là chọc giận ông Trời. Cái gì mà chọc giận ông Trời, chẳng lẽ ông Trời không muốn cho tiểu Kính An vương ta lên ngôi?”. Phi Chiếu Hành thấy Hà Hiệp đang trong cơn giận dữ, vội vàng tán đồng: “Tiểu Kính An vương nói rất phải, những kẻ vô tri này không hề biết đến việc trọng đại quốc gia, tiểu Kính An vương hà tất phải tức giận vì chúng? Mạt tướng cho rằng, việc lập tân quốc hãy cứ làm theo ý kiến tiểu Kính An vương thì hơn”. “Ta cũng định như vậy, nhưng không được”, Hà Hiệp đã bớt giận, thở dài, “Sở Bắc Tiệp không có bất cứ động tĩnh nào. Ta đã nghi ngờ liệu có phải đám tướng lĩnh đó nghĩ mình đã vất vả lập được công cao rồi, hoặc sợ Sở Bắc Tiệp nên không dốc sức tìm kiếm? Nếu biết tung tích Sở Bắc Tiệp, ta thật muốn dẫn binh quét sạch…”. Hình như cảm thấy mình không còn giữ được phong thái, Hà Hiệp dừng lại, bê chén trà lên uống một ngụm, lát sau bình tĩnh nói, “Gần đây có quá nhiều việc, chiêu binh không thuận lợi, dù không muốn điều động quân lương từ Vân Thường, nhưng Bắc Mạc, Đông Lâm và Quy Lạc đều trải qua nhiều năm tranh chiến, ruộng đất hoang tàn, không cung ứng đủ số quân lương cần thiết”. Vì vấn đề lương thảo, phần lớn đội quân đều lưu lại Vân Thường để nghỉ ngơi chỉnh đốn. Mỗi lần ở vương cung Vân Thường, Hà Hiệp lại nhớ đến Diệu Thiên, nỗi đau trong lòng cứ bùng phát, nên luôn trì hoãn không chịu quay về. Phi Chiếu Hành thầm tính, đạo quân Vĩnh Tiêu của Quý Viêm đã bị tiêu diệt hoàn toàn, sau đó Hà Hiệp tập hợp hàng binh các nước, chỉnh đốn thành đạo quân Vĩnh Tiêu mới. Bảy đạo quân của Vân Thường hiện hai ở Quy Lạc, một ở Đông Lâm, một ở Bắc Mạc, ba đạo quân còn lại đều ở Vân Thường. Thiên hạ vẫn chưa hoàn toàn ổn định, Hà Hiệp là chủ soái, lại rời khỏi Vân Thường quá lâu, thực sự có chút nguy hiểm. Nếu là trước đây, chắc chắn Phi Chiếu Hành sẽ dâng lời với Hà Hiệp, nhưng từ sau lần vô cớ lo lắng không yên, Phi Chiếu Hành trở nên cẩn trọng với tất cả mọi việc. Hắn đứng một bên suy nghĩ hồi lâu, rồi đề nghị: “Sở Bắc Tiệp là một mầm họa, tuy hiện còn đang giấu mình, nhưng không thể lơ là. Chắc chắn hắn vẫn đang ở Đông Lâm, hắn không có binh mã, chúng ta chỉ cần cử nhiều binh mã càn quét, chắc chắn sẽ tìm ra tung tích hắn. Hay tiểu Kính An vương cử mạt tướng hoặc cánh quân Cam Phượng của Thôi tướng quân đến Đông Lâm, phối hợp vây bắt”. Hà Hiệp im lặng, vẻ mặt không vui, hạ giọng: “Tin này mới đến sáng nay, chắc ngươi chưa biết, Thôi Lâm Giám bị ám sát rồi”. “Hả?” Thôi Lâm Giám là vị tướng mới được Hà Hiệp cất nhắc, chỉ mới hai mươi hai tuổi, nhưng vô cùng tinh nhanh tài cán, vì cảm kích ơn tri ngộ của Hà Hiệp, nên trung thành hết mực. Cái chết của Thôi Lâm Giám là một đòn nặng nề giáng xuống dự định sắp xếp thân tín trong quân, dần khống chế quân quyền của Hà Hiệp. “Ở ngay trong doanh trại, giữa đêm bị người ta ám sát, đầu còn treo ngoài rèm trướng”. Phi Chiếu Hành hỏi: “Không lẽ lại là Sở Bắc Tiệp ra tay? Bây giờ cánh quân Cam Phượng mất chủ soái, phải lập tức cử một vị tướng lĩnh tiếp quản”. “Ngươi nói xem nên cử ai tiếp quản là thích hợp nhất?” Tất nhiên Phi Chiếu Hành sẽ không tiến cử bản thân mình, bèn dâng lời: “Tuyển tướng cấp bách, rất khó chọn được người thích hợp. Trong Vân Thường, đạo quân Vĩnh Thái của Kỳ Điền đại tướng quân ở ngay gần Cam Túc, chi bằng nhập hai đạo quân làm một, tạm thời do Kỳ Điền đại tướng quân quản lý?”. Hà Hiệp chậm rãi lắc đầu, hàng mày cau lại: “Sở Bắc Tiệp có được bản lĩnh này, nhưng chưa chắc là hắn. Người không biết về nội bộ quân Vân Thường, sẽ không chọn ra tay với Thôi Lâm Giám. Chỉ e việc này không đơn giản như thế”. Vốn thông minh, Phi Chiếu Hành lập tức hiểu ý của Hà Hiệp. Một, Thôi Lâm Giám không phải là người Vân Thường; hai, Thôi Lâm Giám cũng chẳng phải lão tướng trong quân, các đại tướng Vân Thường đều dị nghị khi hắn được thống lĩnh đội quân Cam Phượng, Kỳ Điền là người oán nhiều nhất. Chẳng lẽ do tranh quyền đoạt lợi trong quân, lại có người gan to bằng trời, dám ra tay ám sát thống lĩnh của một đạo quân? Phi Chiếu Hành thầm trách mình nói năng không cẩn trọng, như thể đang nói đỡ cho Kỳ Điền nên vô cùng hối hận, nhanh chóng quay lại chủ đề chính: “Liệu có nên cử thêm binh mã đi truy bắt Sở Bắc Tiệp? Mạt tướng vẫn đang bận việc mà tiểu Kính An vương giao, e là nhất thời không thể gác lại, hay cử cánh quân Vĩnh Thái của Kỳ Điền qua đó?”. Hà Hiệp gật đầu: “Cử hắn đi”. Đến trước bàn, Hà Hiệp nâng bút viết quân lệnh, đóng soái ấn, rồi giao cho thị vệ, sau đó mới hỏi Phi Chiếu Hành: “Việc vương miện làm đến đâu rồi?”. Phi Chiếu Hành bẩm báo: “Mạt tướng đã tìm được một đội thợ, hai người Quy Lạc, một người hiện đang sai binh sĩ sang Đông Lâm tìm. Họ đều là những vị đại sư, do thời buổi loạn lạc, nên trốn đi hết cả, tìm được đều phải mất nhiều công sức. Về cơ bản đã tìm đủ đá quý các màu, mạt tướng dự định dùng một viên đá lam bảo thượng hạng to nhất đặt ở chính giữa, nhưng tạm thời mới tìm được một viên dùng cho mũ vương, còn mũ hậu…”. “Dùng trước cho mũ hậu.” “Việc này…”, Phi Chiếu Hành đờ đẫn một lúc. “Dùng viên đá lam bảo đó cho mũ hậu trước, mũ vương không vội, cứ từ từ tìm. Nhớ kỹ, tay nghề phải tinh xảo, nguyên liệu thượng hạng, đặc biệt là mũ hậu.” Phi Chiếu Hành nghi hoặc nhìn Hà Hiệp, khuôn mặt tuấn tú như bao phủ lớp sương mù dày đặc khó tan, rõ ràng cả con người Hà Hiệp đang đứng ngay trước mặt mà như cách thật xa. Phi Chiếu Hành chỉ còn cách vâng vâng dạ dạ, rồi lui ra. Phi Chiếu Hành trở về chỗ ở, thuộc hạ An tướng quân lại hào hứng xuất hiện, rủ đi uống rượu. An tướng quân cũng là lão tướng trong quân Vân Thường. Sau khi Quý Thường Ninh chết, Phi Chiếu Hành tiếp quản đạo quân Úy Bắc. Về việc này, Phi Chiếu Hành có kinh nghiệm hơn Đông Chước rất nhiều, hắn hoặc công khai hoặc ngấm ngầm lôi kéo mấy vị tướng lĩnh trong quân Úy Bắc, quan hệ với họ rất tốt. Thấy An tướng quân, Phi Chiếu Hành cười nói: “Lại uống rượu ư? Tướng quân lập bao công lao, được tiểu Kính An vương ban thưởng không ít, sao không mua lấy một trạch viện ở đây, chọn thêm mấy mỹ nữ về hưởng phúc? Việc đó hứng thú hơn uống rượu rất nhiều”. An tướng quân xua tay: “Ta chỉ thích uống hai ngụm rượu ngon. Gối giáo chờ trời sáng, cũng không biết có thể sống đến lúc nào. Nữ nhân một người là đủ, lấy thêm thê thiếp, sau này lại có mấy quả phụ”, An tướng quân thở dài một tiếng, nói tiếp, “Hơn nữa nữ sắc cũng chẳng phải điều gì hay ho. Tướng quân nhìn Sở Bắc Tiệp xem, vì một nữ nhân mà mai danh ẩn tích, nghe nói gần đây lại xuất hiện, theo ta chỉ là lời đồn. Còn Phò mã của chúng ta…”. Bỗng nghĩ đến việc Hà Hiệp ban lệnh cấm người dưới không được gọi mình là “Phò mã”, An tướng quân ngừng ngay câu chuyện. Phi Chiếu Hành vô cớ giật mình, cười hỏi: “Tiểu Kính An vương thì sao?”. An tướng quân lắc đầu, nói: “Tiểu Kính An vương cũng thật nặng tình… Tiếc là Công chúa của chúng ta mệnh bạc, khó sinh mà qua đời, nếu còn sống đến ngày hôm nay, Công chúa sẽ hưởng không hết vinh hoa phú quý…”. Phi Chiếu Hành càng nghe càng cảm thấy không ổn, sắc mặt dần thay đổi, trong lòng vừa nghiền ngẫm vừa hỏi: “Gần đây ta phụng mệnh làm chiếc mũ hậu, còn đang không biết kích thước thế nào… Sau này tiểu Kính An vương đăng cơ, e là vẫn cần tìm một tân hậu?”. Vốn là người thẳng thắn, An tướng quân không để ý đến tâm tư của Phi Chiếu Hành, liên tục lắc đầu: “Lấy đâu ra tân hậu? Phi tướng quân có thấy tiểu Kính An vương gần gũi nữ nhân không? Dù sau này có lấy, theo ta nhiều nhất cũng chỉ là một thứ phi. Thế nên ta mới nói tiểu Kính An vương đối với Công chúa không tồi, nghe nói bên Vân Thường còn đang trùng tu lăng mộ của Công chúa! Thật là, mấy kẻ tiểu nhân ngấm ngầm phá hoại, nói rằng Phò mã đã hại chết Công chúa, theo ta, với tình nghĩa phu thê của họ, điều đó là hoàn toàn không thể”. Phi Chiếu Hành nghe hết, bỗng thấy như có một bàn tay vô hình đang tóm sạch những suy nghĩ vướng mắc bấy lâu nay trong lòng, cả người đứng đờ tại chỗ. Lúc này An tướng quân mới phát hiện có điều gì không ổn: “Phi tướng quân sao thế?”. Phi Chiếu Hành đờ đẫn đáp: “Ta vừa mới nhớ ra một việc gấp, phải đi xử lý ngay, hôm khác uống rượu vậy”. Dứt lời, hắn đi thẳng về phòng, đóng cửa lại, chặn đứng ánh mặt trời rực rỡ bên ngoài. Cơn lạnh thấu xương từ gan bàn chân dâng lên. Hà Hiệp muốn giết người. Vì Diệu Thiên công chúa, Hà Hiệp muốn báo thù cho Diệu Thiên công chúa. Chẳng trách, bao nhiêu viên quan, Hà Hiệp lại chọn Phi Chiếu Hành lo việc làm mũ hậu. Bên Vân Thường thì rầm rộ trùng tu lăng mộ của Công chúa, lại phong thanh rằng có người đang điều tra những sai phạm của Phi Chiếu Hành… Quay đầu nhìn lại, đây thực là một tấm lưới đã giăng sẵn chỉ chờ chụp xuống đầu, bắt con cá này. Chỉ mấy ngày trước Phi Chiếu Hành còn mơ màng đến tiền đồ phú quý, giờ tất cả chỉ còn là ảo ảnh. Hà Hiệp đã là người có quyền lực nhất trong thiên hạ, muốn lấy mạng hắn, thật dễ như trở bàn tay. Ngày đó đúng là Phi Chiếu Hành đã năm lần bảy lượt khuyên Hà Hiệp trừ bỏ Diệu Thiên công chúa, nhưng đó cũng chỉ vì thực lòng suy nghĩ cho quyền lực của Hà Hiệp. Hà Hiệp tự mình bức tử Công chúa, giờ hối hận khôn nguôi, muốn mang Phi Chiếu Hành ra giải hận. Mồ hôi lạnh chảy ròng ròng, vừa tức giận vừa ủ ê buồn bã, hai bàn tay nắm chặt, đôi mắt lóe lên tia hung hãn, Phi Chiếu Hành nghiến răng, lầm bẩm: “Không lẽ lão tử này lại chịu bó tay cho ngươi chém giết? Thiên hạ đâu có chuyện dễ dàng như vậy?”. Bất giác thấy lòng bàn tay đau nhói, hắn cúi xuống nhìn, hóa ra móng tay đã cắm chặt vào thịt tự lúc nào. Kế dùng dược liệu được tiến hành vô cùng thuận lợi. Phiên Lộc là người khỏe mạnh, Túy Cúc lại chỉ dùng một lượng nhỏ, nên chưa đến hai, ba ngày sau, Phiên Lộc đã hoàn toàn hồi phục, cũng là lúc được Túy Cúc giao cho nhiệm vụ mới: “Mau nghĩ cách trộn thứ này vào quân lương”. Nói xong, nàng đưa cho Phiên Lộc bọc dược liệu trong tay. “Trộn thế nào? Quân lương đựng trong bao tải đay, không lẽ bắt ta mở từng bao ra trộn thuốc? Nàng tưởng đám quan trông coi quân lương là đồ ngốc chắc?” “Ngươi mới là đồ ngốc, ai bắt ngươi phải mở từng bao?” Túy Cúc lấy ít vụn thuốc làm mẫu, “Lấy một chút thuốc hòa vào trong nước, sau đó đổ vào bao, thuốc chẳng ngấm vào gạo đó ư?”. Chủ ý này thật không tồi. Một bát nước thuốc nhỏ ngấm vào bao, thần không biết, quỷ chẳng hay. Dù trong bao chỉ có một ít gạo bị ngấm thuốc, nhưng trong quân xưa nay vẫn nấu cả bao gạo, chỉ cần nấu cùng một nồi, thì lo gì họ không trúng kế? Túy Cúc đưa bọc thuốc qua, Phiên Lộc không nhận, trơ mặt hỏi: “Ta giúp nàng làm việc quan trọng thế này, nàng thưởng gì cho ta?”. Túy Cúc khinh bỉ: “Không có ngươi, người khác làm không được chắc? Một việc đơn giản như thế, Vương gia có thể cho bất cứ ai mạo nhận là thân tín của ngươi đi tuần một vòng kho quân lương là xong. Chẳng qua ta thấy ngươi không có việc gì làm, nên tìm việc giúp người thôi”. Phiên Lộc bất mãn hừ mấy tiếng, nhưng vẫn nhận lấy bọc thuốc đi làm nhiệm vụ. Mấy ngày sau, tin tức đã truyền đến. Đầu tiên binh lính Vân Thường nghi có bệnh dịch, nhưng các đại phu không tìm được nguyên nhân. Thế là quan trên cho tìm đại phu có tiếng các vùng đến, sau đó chẩn đoán rằng, không phải bệnh dịch mà e là môi trường sống không hợp. “Bọn chúng cũng không ngu, ngay từ đầu chúng đã nghi quân lương có vấn đề, nhưng kiểm tra đi kiểm tra lại, vẫn không điều tra được điều gì. Bản thủ thành đã làm hết phận sự của mình, lập tức sai người sao chép một bản độc vật của Thả Nhu đưa qua, cố ý chỉ rõ có những loại độc dược không thể kiểm tra bằng kim bạc, mà phải dùng cây rong phơi khô nhúng vào nước để kiểm nghiệm, nếu nước biến màu là có độc. Đám đại phu bên đó tha hồ tất bật một phen.” Những lời của Phiên Lộc khiến mọi người đang ngồi trong phòng cười rộ lên. Chỉ có Túy Cúc trừng mắt nói: “Sao ngươi lại lừa người ta? Toàn làm những việc tốn công vô ích, nếu để chúng nghi ngờ thì chẳng phải gây ra họa lớn hay sao?”. Sính Đình ngồi bên cạnh, nghe thế thì khẽ nắm tay Túy Cúc, quay lại cười, giải thích: “Đúng là có loại độc này, Phiên Lộc đâu có lừa người”. Sở Bắc Tiệp cũng nói: “Chúng ta đang dự định gặp vị tướng quân bên đó, nên phải để Phiên Lộc lấy lòng trước, có chút giao tình cũng tốt”. Túy Cúc giờ mới biết đã trách nhầm Phiên Lộc, vốn định nhận lỗi, ngẩng lên thấy Phiên Lộc đang dương dương tự đắc nháy mắt với mình, câu xin lỗi lại chui tọt vào bụng. Mạc Nhiên hỏi: “Còn có tin tức gì khác không?”. “Tin tốt thì rất nhiều, hình như cả ông Trời cũng đang giúp chúng ta”. Giờ Phiên Lộc phụ trách do thám tin tức nội bộ Vân Thường, mọi người đều quây quanh hắn thành một vòng. Nhắc đến việc quân trọng đại, Phiên Lộc mặt mày hớn hở, tinh thần thêm hăng hái, giọng đĩnh đạc: “Trước tiên là việc Trấn Bắc vương ám sát Thôi Lâm Giám, Trấn Bắc vương dùng đao, mà không dùng Thần uy bảo kiếm, chiêu này thực khiến người ta khâm phục”. Sở Bắc Tiệp thẳng thắn: “Chọn Thôi Lâm Giám hoàn toàn là công lao của Phiên thủ thành, không có Phiên thủ thành, bản vương không thể tạo được cục diện ngày hôm nay”. Phiên Lộc nghe câu này của Sở Bắc Tiệp, biết Sở Bắc Tiệp đã đoán được khái quát tình hình. Lúc này Sở Bắc Tiệp cho Phiên Lộc nói ra tình hình, cũng chỉ là để vị thủ thành Thả Nhu này nhanh chóng ra nhập với đội quân của Mạc Nhiên và những người khác. Bất giác, Phiên Lộc cảm kích nhìn qua Sở Bắc Tiệp, rồi nói tiếp: “Cái chết của Thôi Lâm Giám khiến Hà Hiệp nghi ngờ Kỳ Điền. Hà Hiệp đang mưu đồ dùng những tướng lĩnh trẻ tuổi thay thế đội ngũ lão tướng trong quân, việc này khiến các lão tướng Vân Thường vô cùng oán thán, Thôi Lâm Giám cũng chính là một vị tướng trẻ mà Hà Hiệp đề bạt lên cao nhất, lại không phải người Vân Thường”. Mạc Nhiên nghe rất kỹ càng, bỗng nhiên hỏi Phiên Lộc: “Ngươi còn có cả tai mắt ở thành đô Quy Lạc ư?”. Phiên Lộc cười ha ha, đáp: “Ta đâu có được bản lĩnh để cài người bên cạnh Hà Hiệp? Nhưng muốn biết được điều này cũng không khó. Vì Thôi Lâm Giám bị giết, đạo quân Cam Phượng mất người thống lĩnh, Hà Hiệp không những không cử Kỳ Điền đang ở gần đó đến tiếp quản đạo quân Cam Phượng mà lại cử hắn sang tận Đông Lâm để truy quét Trấn Bắc vương”. Vừa nói, hắn vừa nhìn sang Sở Bắc Tiệp. Túy Cúc cười khúc khích: “Tên Kỳ Điền đó thật xui xẻo. Nay đạo quân Vĩnh Thái của hắn, kẻ nào kẻ nấy không còn chút sức lực, mà lại không tìm được căn nguyên, sao có thể hành quân sang Đông Lâm? Làm lỡ quân lệnh, chắc chắn Hà Hiệp sẽ không tha”. Dứt lời, thấy mọi người đều lặng lẽ nhìn mình, Túy Cúc bất giác đỏ bừng mặt, hạ giọng hỏi: “Có phải Túy Cúc đã nói sai điều gì không?”. Phiên Lộc đáp lời: “Chính vì nàng nói đúng nên mọi người mới hết sức ngạc nhiên”. Túy Cúc trợn trừng mắt, còn chưa kịp trả miếng, Phiên Lộc đã nhìn sang Sính Đình, chắp tay cảm thán: “Bạch cô nương danh bất hư truyền, khâm phục, khâm phục”. Sính Đình nói: “Thủ thành đại nhân quá khen, kế nhận biết thời cơ, phát triển ưu thế, lấy yếu thắng mạnh này hoàn toàn do Vương gia nghĩ ra, không có chút công lao nào của Sính Đình”. Phiên Lộc lắc đầu: “Cũng không thể nói như thế, không có Bạch cô nương, ai sẽ phối ra loại thảo dược tuyệt diệu kia?”. Túy Cúc suy nghĩ một lát, cuối cùng cũng hiểu ra, khi Sở Bắc Tiệp nghĩ ra kế sách dùng thảo dược là đã có ý định ly gián Hà Hiệp và Kỳ Điền. Ám sát, phối thuốc, dùng thuốc, để Phiên Lộc lôi kéo Kỳ Điền… là một chuỗi những việc có liên quan đến nhau. Túy Cúc khẽ thổi phù một cái, lẩm bẩm: “Nói đến đánh trận, nam nhân các vị đều có sở trường dùng tâm kế, bất kỳ việc gì cũng suy nghĩ tính toán thật kín kẽ”. Bỗng nghĩ tới Bạch quân sư đang ngồi bên cạnh, Túy Cúc lắc đầu lè lưỡi, làm mặt quỷ với Sính Đình. Hoắc Vũ Nam gần đây cũng hào hứng ngồi nghe mọi người luận đàm việc quân, hôm nay còn hỏi: “Theo tình hình hiện nay, mục tiêu làm dao động lòng quân Vân Thường của Vương gia đã sắp đạt được, liệu Vương gia đã nên ra mặt lôi kéo Kỳ Điền chưa?”. Sính Đình suy nghĩ rồi lắc đầu: “Thời cơ chưa chín muồi, đại tướng trong quân sẽ không dễ dàng phản bội…”. “Bản vương cũng thấy thời cơ chưa chín muồi, Kỳ Điền sẽ không lập tức phản bội Hà Hiệp.” Sở Bắc Tiệp quay sang Sính Đình, nở nụ cười anh tuấn khí phách mê hoặc lòng người, rồi chuyển chủ đề, “Nhưng chiến sự khẩn cấp, bản vương vẫn dự định sẽ lập tức đi gặp Kỳ Điền”. “Vương gia?” “Thời cơ chưa chín muồi, thì phải thúc cho nó chín.” Phiên Lộc nghe thế càng hưng phấn: “Trấn Bắc vương hãy đưa Phiên Lộc đi theo. Trước kia ta từng ở cánh quân Vĩnh Thái, chưa biết chừng lại có thể giúp được việc gì”. Mạc Nhiên hỏi: “Giao tình giữa ngươi và Kỳ Điền thế nào?”. Phiên Lộc cười ha ha: “Lúc đó chức vị của ta thấp hèn, đâu có cơ hội chạm mặt với Đại tướng quân Kỳ Điền. Nhưng một mật thám có sở trường nhìn người, Đại tướng quân không biết ta, nhưng ta rất hay quan sát ông ấy”. Việc không thể chậm trễ, mọi người bàn bạc một lúc rồi nhanh chóng quyết định. Sở Bắc Tiệp và Mạc Nhiên dẫn theo mười cao thủ, thêm Phiên Lộc, mặc thường phục ra khỏi thành. Đây là lần đầu tiên Phiên Lộc ra ngoài cùng mọi người, nên Túy Cúc có chút lo lắng không yên, bèn kéo ống tay áo Phiên Lộc, gọi ra một góc, khẽ hỏi: “Đi thật đấy à?”. “Tất nhiên rồi”, Phiên Lộc giơ hai bàn tay ra: “Tay ta cũng ngứa ngáy lắm rồi”. Túy Cúc bảo: “Không hiểu tại sao, trống ngực ta cứ đánh liên hồi, lần này đi, phải cẩn thận đấy”. Phiên Lộc ngạc nhiên: “Trống ngực đập liên tục à? Ai ya, đó là điềm không lành rồi, trong quân kỵ nhất việc ấy. Đưa đây, để ta sờ xem có phải đập liên hồi không?”. Nghe câu thứ nhất, sắc mặt Túy Cúc trắng bệch vì sợ hãi, nhưng đến câu thứ hai nàng nổi giận đùng đùng, lườm Phiên Lộc một cái, hất tay hắn ra, rồi bỏ đi. Mười mấy người ra khỏi thành, đi một mạch, khi đến gần nơi đóng quân của đạo quân Vĩnh Thái, trời đã tối om. Họ mai phục ở nơi cách đó không xa, chỉ cách một khoảng đất trống, chăm chú quan sát đèn đóm nơi doanh trại đối diện. Sở Bắc Tiệp hạ giọng sắp xếp: “Ta sẽ vào thẳng quân doanh để gặp Kỳ Điền. Mạc Nhiên và Phiên Lộc cùng vào để có thể tiếp ứng bất cứ lúc nào. Những người còn lại sẽ ở đây, nếu bên trong có biến, hãy lập tức xông vào từ phía đông, chỉ cần đốt lửa, không chạm trán với họ, chỉ cần giúp chúng ta tạo hỗn loạn là đủ rồi”. Chỉ vẻn vẹn vài câu, Sở Bắc Tiệp đã sắp xếp xong toàn bộ đại cục. Những người này đều là cao thủ, biết tùy cơ ứng biến, cũng không cần Sở Bắc Tiệp nói nhiều. Đôi mắt sáng có thần của Sở Bắc Tiệp nhìn chằm chằm về phía đối diện, cuối cùng cũng có cơ hội, liền hạ lệnh: “Đi”. Mạc Nhiên và Phiên Lộc lập tức theo sau, ba người đều mặc áo đen, bịt kín mặt, như ba cái bóng, lặng lẽ chui vào doanh trại địch. Đây là nơi đóng quân lâu dài của cánh quân Vĩnh Thái, doanh trại không phải loại màn trướng da bò dựng lên tạm thời mà là khoảng đất rộng với bao lớp hàng rào, hàng hàng dãy dãy phòng gạch đan xen nhau như một phủ đệ được bố trí đơn giản. Gian phòng lớn sáng trưng ngay ở giữa chính là trướng của Kỳ Điền. Sở Bắc Tiệp tránh hết những tiểu đội canh gác, đến thẳng phòng chủ trướng. Mạc Nhiên và Sở Bắc Tiệp đã quá hiểu nhau, cả hai lặng lẽ nép sát vào bên phía tây của gian phòng. Phiên Lộc từng ở trong đạo quân Vĩnh Thái, quen thuộc nơi này hơn Sở Bắc Tiệp và Mạc Nhiên, lại là kẻ gan to lớn mật, khi đi qua một gian phòng, phát hiện không thấy ai, hắn liền chui ngay vào lấy bộ binh phục Vân Thường để mặc, sau đó nghênh ngang bước ra ngoài. Quy định tuần tra, canh gác ở đây vẫn không thay đổi, chỉ cần nghe lén được được khẩu lệnh của đám binh lính đi tuần tra trong đêm là có thể trà trộn vào và qua được mọi cửa ải, bình an đại cát. Phiên Lộc đứng trong góc tối, quan sát đội lính đi qua đi lại chạm mặt nhau. “Công chúa bình an.” “Vân Thường đại cát.” Phiên Lộc nghĩ, Diệu Thiên công chúa đã mất từ lâu, Kỳ Điền cũng coi như có chút lương tâm, vẫn không quên chủ cũ của mình. Biết được khẩu lệnh thì không cần phải lẩn trốn, Phiên Lộc đi hẳn ra ngoài, thừa cơ quan sát xung quanh, cả đường gặp ai hỏi đến, hắn đều nói đúng khẩu lệnh. Đám binh lính thấy Phiên Lộc nói giọng Vân Thường, khẩu lệnh đúng, cử chỉ cũng y như người trong quân nên chẳng chút nghi ngờ. Nghĩ rằng lúc này chắc Sở Bắc Tiệp đã vào đến tận chỗ Kỳ Điền, Phiên Lộc liền đi thẳng về hướng đó, dự định canh chừng cho Sở Bắc Tiệp. Chưa đến nơi, Phiên Lộc bỗng đứng sững lại, nhìn về phía gian phòng bên tay trái. Hắn vẫn nhớ trước đây gian phòng này trống không, giờ lại tăng cường canh gác, ngoài cửa còn cắm một lá cờ nhỏ dang phần phật trong gió, có thể thấy rõ một chữ “Hiệp” như rồng bay phượng múa. Đôi mắt mật thám của Phiên Lộc còn nhanh hơn chim ưng, hắn cảm nhận ngay có điều gì bất thường ẩn giấu bên trong. Phiên Lộc vội nấp sang một bên, quan sát căn phòng, lúc sau bỗng nở nụ cười giảo hoạt, quay đi: “May mà lão tử từng ở đây”. Phiên Lộc lợi dụng bóng tối, tiến thẳng về phía phát ra tiếng nước chảy, lẩm bẩm: “Ta nhớ là ở đây có một con sông”. Con người Phiên Lộc trước nay chưa bao giờ chịu ở yên một chỗ, bẩm sinh đã có sẵn sự nhạy cảm của mật thám, mỗi khi đến nơi nào, việc đầu tiên hắn làm là phải xem xét kỹ càng địa hình ở chỗ đó. Nơi đóng quân lâu ngày của đội quân Vĩnh Thái cũng không ngoại lệ. Lúc trước, Phiên Lộc đã lặn xuống con sông này, biết bên dưới có dòng nước chảy ngầm dẫn đến căn phòng kia. Phiên Lộc nhảy vào dòng nước êm như một con cá trạch, không bắn đến một giọt nước. Phiên Lộc nín thở lặn xuống tận dòng sâu, được một lúc, cảm thấy cả người khang khác, hắn lại nổi lên, ra khỏi mặt nước, đỉnh đầu hắn chạm phải một tảng đá, giữa tảng đá và mặt nước có một khe hở, đủ cho Phiên Lộc ngửa mặt lên để thở. Hắn hít một hơi thật sâu rồi lặn xuống, lần này còn sâu hơn lần trước. Dưới nước tối om, hắn chỉ cố sờ soạng tiến về phía trước, bỗng thấy ngực hơi nóng… Phiên Lộc va phải thứ gì, đưa tay ra sờ thử, phát hiện đó là một hàng rào sắt, thì thầm than trong lòng. Trước đây, chỗ này không hề có hàng rào sắt, sao giờ tự nhiên lại xuất hiện? Phiên Lộc không thể tiến về phía trước, quay lại thì càng không thể. Ngực càng lúc càng đau, chợt nghĩ đến lời Túy Cúc nói trước lúc đi, Phiên Lộc than thầm trong lòng: chẳng lẽ số mệnh mình lại chỉ đến đây? Hắn hối hận mình đã nhất thời hồ đồ, nên đành phải chết uổng thế này. Ngực đau như có lửa đốt, Phiên Lộc không dám mở miệng vì hiểu rõ lúc này mà mở miệng ra không những hoàn toàn vô dụng mà còn chẳng khác nào tự tìm đến cái chết. Hắn chỉ còn cách giữ chặt lấy hàng rào sắt, ra sức lắc lư. Cảm giác ngạt thở đang thiêu cháy, đầu óc hỗn loạn, hắn chỉ còn biết dùng lực rung lắc. Đúng vào lúc đó, hàng rào sắt trong tay khẽ động, tuy chỉ một chút, nhưng cũng khiến Phiên Lộc sực tỉnh, tinh thần hăng hái hẳn lên, ra sức lắc lư, đá mạnh chân trong nước. Gần hết sạch hơi, sức cũng cạn kiệt, mơ mơ hồ hồ mất một lúc, Phiên Lộc như đang nghe thấy tiếng gọi của Túy Cúc. Trong lúc tuyệt vọng, hàng rào sắt bỗng chuyển, lần này còn mạnh hơn lần trước, như đã lung lay đến tận gốc. Phiên Lộc vội vàng cúi người, giữa hai hàng rào sắt đã đủ chỗ để chịu qua. Thật là ông Trời giúp ta! Đúng vào lúc sống chết, Phiên Lộc liều chết, cố sức ngoi lên, mặc kệ thương tích đầy mình, không ngờ mặt nước lại sát với nền đá, chẳng còn chỗ để nổi lên. Lòng chùng xuống, Phiên Lộc giơ tay sờ nền đá trên đầu, liều mạng bơi về phía trước. Bơi được một lúc, sức lực toàn thân cạn kiệt, bỗng thấy cổ tay mát lạnh, Phiên Lộc mừng quá, cố đạp thật mạnh, đầu ngoi lên mặt nước, gió lạnh ùa tới. Phiên Lộc thở gấp, ướt lướt thướt ngoi lên, rồi lấy mồi lửa được gói cẩn thận bằng giấy dầu mang theo bên người ra châm, nhìn xung quanh, lẩm bẩm: “Mẹ kiếp, kẻ trời đánh nào lại sửa nơi này thành phòng giam, hại lão tử suýt nữa chết chìm ở đây”… Xem ra, không chỉ mình Phiên Lộc phát hiện ra con đường dưới nước này, nơi đây rõ ràng đã có kẻ bố trí để lợi dụng nó, nên phải đặt một hàng rào sắt chắn bên dưới. Cũng có thể người làm hàng rào sắt nghĩ rằng đằng nào cũng ở dưới nước, có làm dối ăn thật cũng chẳng ai trách mắng, nên hàng rào mới dễ bị lung lay như thế, và chính nó đã cứu mạng Phiên Lộc. Nghĩ mình vẫn đang trên đất địch, Phiên Lộc vội vàng thổi tắt lửa, thận trọng đi vào phòng giam. Trên tường treo một chiếc đèn dầu, ngọn lửa chỉ to bằng hạt đậu, chiếu ra thứ ánh sáng vàng vọt khắp xung quanh. Hai binh sĩ canh giữ đang nằm bò trên bàn ngủ gà ngủ gật, dưới chân lăn lóc một đống bình rượu hết. Chỗ này nằm trong doanh trại Vĩnh Thái, bên ngoài lại có bao nhiêu binh lính, nên chúng cứ tưởng đã kín như bưng, không còn khe hở nào, ai ngờ giờ bỗng xuất hiện một tên sát tinh từ dưới nước ngoi lên? Phiên Lộc lặng lẽ đến bên hai tên lính canh cửa, cho mỗi tên một cú vào gáy, khiến chúng ngã lăn ra đất. “Lão tử phải xem xem ai ở trong này mà quan trọng thế…” Hắn nhìn vào bên trong, thấy một hán tử dáng hình cao to, ánh mắt sáng trong đêm tối, thần thái vô cùng sắc sảo. Phiên Lộc từ ngoài cửa hỏi vào: “Này, ngươi là ai?”. Nam nhân kia bị trói cả chân lẫn tay, lạnh lùng nhìn về phía Phiên Lộc mặc binh phục Vân Thường đột nhiên xuất hiện, cả người ướt lướt thướt, còn đánh ngất hai tên canh cửa, mà chẳng buồn nhướng mày, chỉ hỏi lại: “Thế người là ai?”. Nam nhân này bị nhốt bao nhiêu lâu, râu tóc lởm chởm che khuất cả nửa khuôn mặt, nhất thời Phiên Lộc chưa thể định hình, nhưng khi người ấy cất tiếng thì tỏ rõ khí thế của một đại tướng quân. Phiên Lộc sững người, nhìn kỹ lại khuôn mặt trong phòng giam, càng lúc càng cảm thấy quen, cuối cùng cũng hoàn toàn tỉnh ngộ, thần sắc vô cùng kinh hoàng: “Ngươi chính là Tắc Doãn của Bắc Mạc!”. Người trong thiên hạ cứ tưởng rằng sau khi khiêu chiến với Hà Hiệp, Tắc Doãn đã bị giết, ai ngờ Tắc Doãn lại bị bí mật giam giữ trong doanh trại của đại quân Vĩnh Thái! “Ta đã gặp ngươi, ngươi chính là Thượng tướng quân Tắc Doãn của Bắc Mạc!”. Tắc Doãn không lên tiếng, cũng coi như thầm công nhận. Thấy Phiên Lộc, Tắc Doãn biết ngay là người thuộc quân Vân Thường nên vô cùng cảnh giác, e là quỷ kế của Hà Hiệp, hắn đã quyết định có thể không mở lời thì quyết không mở lời. “Sao Thượng tướng quân lại bị nhốt trong này? Đã nhốt bao lâu rồi?” Hỏi liền mấy câu, thấy Tắc Doãn không trả lời, Phiên Lộc biết Tắc Doãn đang nghi ngờ mình. Nghĩ bụng đã liều mạng để chui vào đây mà Tắc Doãn lại không hề cảm kích nên hắn rất không vui, làm mặt lạnh: “Người không muốn biết ta là ai ư?”. Tắc Doãn nghe khẩu âm, ngữ khí của Phiên Lộc, càng chắc chắn người này ở trong quân Vân Thường nhiều năm, có khả năng chính là mật thám do Hà Hiệp cử đến, bèn cau mày nói: “Muốn nói thì nói, không nói thì cút”. “Lão tử là nghĩa phụ của Tắc Khánh nhi tử Thượng tướng quân!” Mấy hôm nay liên tục nghe Sính Đình và Túy Cúc nói chuyện sau khi biệt ly, hắn tất nhiên cũng nghe nói đến Dương Phượng và Tắc Khánh. Lời chưa dứt, Tắc Doãn đã đứng bật dậy, bước vội về phía trước, rồi đứng sững lại, giọng trầm xuống: “Rất nhiều người biết nhi tử ta tên Tắc Khánh, ngươi đừng hòng lừa ta”. Phiên Lộc nặng nề hừ một tiếng, cũng chẳng buồn để ý đến Tắc Doãn nữa, tự đến lục người hai tên lính gác, lấy chìa khóa, mở cửa phòng giam, lẩm bẩm: “Nghĩa tử đáng thương của ta, nghĩa phụ vốn định cứu mạng phụ thân ngươi, đáng tiếc là… Xem ra phụ thân ngươi cũng chẳng muốn gặp ngươi, chỉ muốn ở đây chờ chết thôi. Sau này nhi tử không còn phụ thân thương xót, nghĩa phụ lại không ở bên, con côi mẹ góa bị người ta ức hiếp, thật đáng thương”. Nghe thế, Tắc Doãn cũng thấy xúc động. Tắc Doãn bị giam ở đây đã bao ngày nay, không hề có tin tức của Dương Phượng và hài nhi, nghĩ đến việc mẫu tử hai người bị chèn ép mà lòng đau như dao cứa. Phiên Lộc cũng không nhìn Tắc Doãn, chỉ vươn vai nói: “Ta phải đi thôi, ngoài kia có người đợi ta. Có thể trốn ra theo con đường dưới nước, có muốn theo ta hay không, tùy Thượng tướng quân quyết định”. Nói xong, hắn quay ra theo lối cũ. Sau phút do dự, Tắc Doãn cũng đi theo Phiên Lộc. Tắc Doãn tính, kể cả ra ngoài, cũng quyết không tiết lộ nửa lời, thì dù có là quỷ kế của kẻ thù, chúng cũng không đạt được kết quả gì. Bên ngoài doanh trại Vĩnh Thái, hai bóng người đang lặng lẽ trở về. Những người mai phục bên ngoài thấy bóng họ trở về thì thở phào nhẹ nhõm. Sở Bắc Tiệp và Mạc Nhiên hỏi: “Phiên Lộc đã về chưa?”. Mọi người đều lắc đầu, Mạc Nhiên lòng cũng chùng xuống, trầm giọng: “Ta sẽ quay lại một chuyến”. “Không cần. Phiên Lộc thông thuộc nơi này hơn chúng ta, cứ đợi thêm lúc nữa.” Mọi người lo lắng chờ thêm một lúc, trong lòng ai cũng mắng thầm Phiên Lộc, hai hàng mày của Sở Bắc Tiệp cũng chau lại. Nếu Phiên Lộc bị giữ lại trong đó thì biết ăn nói sao với Túy Cúc? Nếu phải xông vào cứu người, đừng nói là cứu không ra, mà e là tất cả kế hoạch đều bị hủy hoại hoàn toàn. Đang lúc lo lắng, Phiên Lộc bỗng xuất hiện, cả người ướt như chuột lột, lấm lem bụi đất, bộ y phục màu đen đã chuyển thành màu vàng. Vừa gặp Sở Bắc Tiệp, Phiên Lộc không giải thích mình đã đi đâu, mà hỏi ngay: “Vương gia đã gặp Kỳ Điền chưa?”. Sở Bắc Tiệp vốn đang định giáo huấn hắn vài câu, nhưng vì không phải lúc nên vẫn trả lời: “Khi bản vương vào đến nơi, Kỳ Điền đang đọc nghiêm lệnh Hà Hiệp quở trách về việc dám gây trở ngại cho quân lệnh, trì hoãn không chịu dẫn quân sang Đông Lâm”. Thấy Phiên Lộc trở về, Mạc Nhiên cũng yên tâm thay cho Túy Cúc, cười xòa, xoa dịu bầu không khí: “Thực ra khi thấy Kỳ Điền gặp Vương gia mà không gọi người truy bắt, cũng đủ biết ông ấy đang dao động”. Phiên Lộc tiếp lời: “Kỳ Điền cũng thật xui xẻo, mối giao tình với Hà Hiệp càng lúc càng tồi tệ, đầu tiên bị Hà Hiệp nghi ngờ đã giết Thôi Lâm Giám, tiếp theo lại bị Hà Hiệp nghi ngờ đang mượn cớ binh sĩ nhiễm bệnh, không làm theo lệnh hắn… Giờ lại bị lão tử cho thêm một xui xẻo nữa”. Sở Bắc Tiệp nghe ra hàm ý trong lời Phiên Lộc: “Thêm xui xẻo gì?”. Phiên Lộc cười đáp: “Kỳ Điền đã làm mất tội phạm nghiêm trọng mà Hà Hiệp bí mật giam giữ thì có được coi là trọng tội không? Hai việc thứ nhất, Hà Hiệp mới chỉ nghi ngờ mà chưa có bằng chứng để đối phó với một đại tướng như Kỳ Điền. Riêng việc thứ ba, làm mất phạm nhân chính là trọng tội, Hà Hiệp nhất định sẽ nhân cơ hội này mà trừng trị Kỳ Điền luôn thể. Tình thế này, e là Kỳ Điền dù không muốn về phe chúng ta cũng không được”. Mạc Nhiên hỏi: “Để mất tội phạm nào mà quan trọng đến vậy?”. Phiên Lộc hỏi: “Thượng tướng quân Tắc Doãn của Bắc Mạc, có quan trọng không?”. Mọi người vô cùng ngạc nhiên. “Người hiện đang ở đâu?” Bộ dạng của Phiên Lộc lại vô cùng uể oải, còn ngáp dài một cái rồi mới chỉ ra dốc núi phía sau: “Đã giấu đi rồi, ta phải qua đây báo trước với Vương gia một tiếng. Hai người từng là kẻ thù trên chiến trường, đừng có vừa mới gặp đã quay ra giết hại lẫn nhau. Ta đã phải liều mạng mới cứu được Tắc Doãn ra ngoài đấy”. Sở Bắc Tiệp mừng rỡ, hét lên một tiếng, hơn mười người lao về dốc núi phía sau.