Vương cung Đông Lâm. “Tin vui! Tin vui, Đại vương!” Lão Thừa tướng Sở Tại Nhiên tay cầm quân báo, vội vã chạy vào tẩm cung của Đông Lâm vương, chưa vào đến cửa, tiếng hô xúc động của ông đã vang vào tận trong cung. Đông Lâm vương bệnh đã nhiều ngày, liên tục hôn mê, Vương hậu phải đích thân hầu hạ bên long sàng, nghe vậy liền quay lại, đúng lúc thấy Sở Tại Nhiên vào tới, bèn hỏi: “Có chuyện gì?”. “Nương nương, Trấn Bắc vương rút quân rồi, kết thúc đại chiến rồi.” Vương hậu sững sờ, hồi lâu vẫn không dám tin: “Trấn Bắc vương không giao chiến với đại quân Vân Thường nữa ư?”. Bàn tay cầm quân báo của Sở Tại Nhiên vẫn run rẩy: “Chỉ một chút nữa thôi. Thần nghe nói hai bên đã dàn trận sẵn sàng nghênh chiến, Công chúa Vân Thường bỗng nhiên xuất hiện, thuyết phục Trấn Bắc vương lui binh. Nương nương, vậy cũng coi như giữ được hàng vạn tính mạng của tướng sĩ Đông Lâm”. “Nói lại lần nữa”, giọng yếu ớt vang lên trên long sàng. “Đại vương! Đại vương tỉnh rồi?”, Vương hậu ngạc nhiên, vội vã đỡ Đông Lâm vương đang cố ngồi dậy: “Đại vương cẩn thận, ngự y nói, người cần tĩnh dưỡng”. Đông Lâm vương yếu ớt xua tay, ánh mắt nhìn về phía Sở Tại Nhiên: “Thừa tướng nói lại xem, Trấn Bắc vương làm sao?”. “Bẩm Đại vương, Trấn Bắc vương rút binh rồi. Đại quân Đông Lâm và Vân Thường không giao chiến”. Tuy mái tóc đã hoa râm, nhưng Sở Tại Nhiên vẫn khỏe mạnh, lòng đầy nhiệt huyết. “Ồ?” Đông Lâm vương như đang nghiền ngẫm từng lời Sở Tại Nhiên nói, có lẽ nhất thời chưa tiếp nhận được tin bất ngờ này. Đôi mắt mờ dần vì bệnh tật bỗng có thêm vài phần sinh khí, sáng hẳn lên, bàn tay Đông Lâm vương đặt lên vai Vương hậu, cúi người về phía trước, giọng khẩn thiết: “Quân báo đâu? Mau đưa quả nhân xem”. Sở Tại Nhiên lập tức hai tay dâng lên quân báo. Sợ Đông Lâm vương dốc hết sức lực, Vương hậu nhận lấy quân báo, rồi mở ra, để Đông Lâm vương tựa vào gối đọc. Đông Lâm vương xem đi xem lại quân báo mấy lần mới thở ra khoan khoái, cảm thấy toàn thân dễ chịu, mọi mệt mỏi và buồn bực những ngày qua bỗng chốc tiêu tan. Đông Lâm vương bảo Vương hậu gấp quân báo lại, cười nói: “Quả nhân biết mà, vương đệ… Trong lòng vương đệ còn có đại cục… Khụ khụ khụ…”. Đông Lâm vương ho liên tục không dứt. Vương hậu vội vã xoa lưng giúp Đại vương lưu thông khí huyết, giọng dịu dàng: “Đại vương phải chú ý giữ gìn sức khỏe. Trấn Bắc vương kịp ghìm cương trước vực thẳm, chiến sự đã dừng, chỉ cần Đại vương hồi phục, đó chính là phúc của bách tính Đông Lâm”. Đông Lâm vương ho đến khổ sở, thở dốc, lại hỏi: “Đại quân đang ở đâu?”. “Đang trên đường trở về. Trấn Bắc vương hạ lệnh, quân trấn giữ ở các cửa khẩu sau khi về đến biên cảnh Đông Lâm, lập tức trở về vị trí cũ.” Đông Lâm vương trầm tư một hồi, ra lệnh: “Thừa tướng hãy thảo cho quả nhân một bức thư, sai người đưa tới cho Trấn Bắc vương, nói rằng, những lá thư trước quả nhân gửi đều là lời lẽ lúc nóng nảy. Đông Lâm vương tộc là của hai huynh đệ chúng ta, quả nhân vẫn đặt hết kỳ vọng vào vương đệ. Mong vương đệ sớm trở về, đừng rời khỏi thành đô nữa”. Sở Tại Nhiên bỗng sững lại, do dự giây lát rồi hạ giọng bẩm báo: “Bẩm Đại vương, Trấn Bắc vương đã không còn trong quân, Đại quân hiện giờ do Thần Mâu chỉ huy”. Đông Lâm vương và Vương hậu đều sững sờ. “Không ở trong quân?” Hàng mày vừa giãn ra của Đông Lâm vương lại cau, miễn cưỡng ngồi thẳng dậy, hỏi: “Chuyện này là thế nào?”. “Người truyền tin nói, Trấn Bắc vương hạ lệnh rút quân, giao toàn quyền chỉ huy cho Thần Mâu, rồi một mình cưỡi ngựa rời đi, đến nay vẫn không rõ tung tích.” Trời vừa quang đã lại bị mây đen che phủ. Đông Lâm vương thở dài, ngả người ra sau, bất lực dựa đầu vào thành giường. “Có tin của Bạch Sính Đình không?”, Vương hậu xen vào một câu. “Cũng không rõ tung tích của Bạch Sính Đình. Còn một việc…”, Sở Tại Nhiên ngẩng lên nhìn sắc mặt Đông Lâm vương, lời muốn nói tắc nơi cổ họng. “Có việc gì Thừa tướng cứ nói thẳng ra.” “Chuyện này… chỉ là lời đồn, chưa được chứng thực.” Sở Tại Nhiên khom người, cẩn trọng bẩm báo: “Nghe nói khi bị Hà Hiệp đưa đi, Bạch Sính Đình đã…”. Thầm cảm thấy không hay, Vương hậu trở nên cảnh giác, vội hỏi: “Đã làm sao?”. “Đã mang trong mình cốt nhục của Trấn Bắc vương.” Lời vừa dứt, không những Vương hậu mà đến cả Đông Lâm vương cũng hết sức ngạc nhiên: “Có chuyện này sao?”. “Đại vương, chuyện chỉ là đồn đại…” “Huyết mạch của vương tộc Đông Lâm chúng ta lại rơi vào tay Hà Hiệp?”, Đông Lâm vương giận đến trừng mắt, không thể nói thêm, lại tiếp tục ho. Trong lòng Vương hậu như chất đầy băng tuyết, tay chân luống cuống xoa lưng giúp Đông Lâm vương, nước mắt lã chã rơi. Đợi mãi Đông Lâm vương mới ngăn được cơn ho, Vương hậu quỳ sụp xuống, khóc nói: “Đại vương, thần thiếp tội đáng muôn chết! Đây đều là tội của thần thiếp!”. Sững sờ hồi lâu, Đông Lâm vương thở dài: “Việc này không liên quan đến Vương hậu, quả nhân sai rồi. Trời trêu đùa, vương tộc Đông Lâm mãi mới có hy vọng… Thừa tướng…”. “Có thần.” “Lập tức ban vương lệnh, sai người tìm Bạch Sính Đình. Nhất định phải bảo vệ mẫu tử Bạch Sính Đình”, Đông Lâm vương chậm rãi nói, “Nếu tìm thấy Bạch Sính Đình, hãy nói rằng, chỉ cần sinh hạ cho vương đệ một nhi tử, quả nhân sẽ lập tức phong cho Bạch Sính Đình là Trấn Bắc vương phi”. Sức khỏe của Đại vương không được như trước, sau khi Đông Lâm mất đi hai vương tử, thì người đủ tư cách kế thừa vương vị chỉ có Trấn Bắc vương và hậu duệ của Trấn Bắc vương mà thôi. Sơn mạch Tùng Sâm kéo dài đến hàng trăm dặm. Mùa đông, vạn vật khô héo, chỉ có cây tùng không sợ lạnh vẫn đứng sừng sững giữa trời cao. Mấy ngày nay Túy Cúc vừa đi đường, vừa lấy lá tùng làm kim châm cứu cho Sính Đình, Sính Đình mới có sức tiếp tục lên đường. Hai nàng biết rằng lúc này có kêu trời, trời không thấu, kêu đất, đất chẳng hay, chỉ có thể dựa vào sự nỗ lực của bản thân để tìm lấy con đường sống. Tuy rằng vất vả, nhưng cả hai đành cắn răng chống chọi, không kêu than dù chỉ một tiếng. Mạch tượng của Sính Đình lúc tốt lúc xấu. Rừng núi trắng xóa một màu không thấy điểm kết thúc, đường đi như càng lúc càng dài. Hai người còn bị lạc đường mấy lần, lòng vòng mãi mới tìm được phương hướng. Chân Sính Đình dần vô lực, giờ đây sức nàng bỏ ra để tiến một bước bằng mười bước trước kia. Cũng biết chẳng gắng gượng được bao lâu, lại sợ ảnh hưởng đến Túy Cúc, Sính Đình chẳng hề nói một tiếng muốn nghỉ ngơi. Hôm đó sau giờ Ngọ, khó khăn lắm họ mới đến được một núi đá. Ở đây có loại quả chín mọng kết trái vào mùa đông, tuy không ngon miệng, nhưng với họ lúc này chẳng khác nào loại thức ăn thượng hạng. “Cô nương ngồi đây một lúc, Túy Cúc đi tìm thứ gì ăn.” Túy Cúc đỡ Sính Đình ngồi xuống rồi quay đi. Chẳng mấy chốc, Túy Cúc đã đem theo một vạt áo đầy những quả chín mọng quay về. Thân cây quả này chi chít gai, đầu và tay Túy Cúc đầy những vệt xước. Cả chặng đường chịu bao vất vả, giờ Túy Cúc chẳng hề để ý đến việc này. Túy Cúc đặt những quả chín trước mặt Sính Đình, hai người tranh thủ lúc trời nắng đẹp mà ăn cho no bụng. “Chúng ta sắp qua sơn mạch Tùng Sâm rồi?” “Ừ.” “Trời ơi, thế là cũng sắp qua rồi. Sau này hài nhi ra đời, nhất định phải kể cho hài nhi nghe những ngày này, để hài nhi biết, mẫu thân mình đã phải trải qua bao vất vả mới…”, Túy Cúc vừa nói vừa quay lại, cúi xuống nhìn Sính Đình. Sính Đình ngồi xếp bằng, tựa lưng vào mỏm đá, vẻ mặt lãnh đạm, Túy Cúc bỗng cảm thấy bất an. “Cô nương?”, Túy Cúc khẽ gọi, rồi quỳ xuống hỏi, “Bạch cô nương?”. “Ừ”, Sính Đình khẽ động, đôi mắt mở ra, làn môi run run, “Túy Cúc…”. Túy Cúc lo lắng, tiến lại gần: “Bạch cô nương, cô sao thế?”. Túy Cúc vội vàng bắt mạch cho Sính Đình. Sính Đình vội đẩy Túy Cúc, chầm chậm lắc đầu. Nàng vẫy Túy Cúc lại gần thêm chút nữa, rồi ghé sát vào tai người bên cạnh, thì thào: “Sơn mạch Tùng Sâm nối giữa hai vùng Vân Thường và Bắc Mạc, từ đây đi thẳng xuống sẽ vào thẳng đất Bắc Mạc. Dương Phượng và Tắc Doãn ẩn cư ngay cạnh núi Tùng Sâm này. Ngươi đi…”. “Không!”, Túy Cúc hét lên, hai mắt trợn tròn, “Cô nương, cô nương đang nói gì thế? Chúng ta phải cùng đi. Chúng ta sắp đến rồi, sắp đến rồi. Cô nương nhìn xem, Túy Cúc còn tìm được cả ít thảo dược, để Túy Cúc sắc cho cô nương uống, còn nữa… chúng ta phải châm cứu, Túy Cúc đã hái ít lá tùng tươi, cọng nào cũng cứng”. “Túy Cúc…” “Không! Không được!” Sính Đình thường ngày vẫn ung dung giờ bỗng yếu ớt đến bất lực. “Túy Cúc, ta thực sự không đi được nữa. Nếu không có ngươi, ta đã chẳng bước nổi từ lâu rồi”, Sính Đình cố nở nụ cười. Túy Cúc nhìn Sính Đình, chợt thấy sau lưng lạnh buốt, liền hoảng hốt quay lại, nhìn xung quanh. Một màu tuyết phủ, sao giờ lại đáng sợ đến thế! “Cô nương…”, làn môi run run, một dự cảm chẳng lành bất chợt ào đến, như đang muốn nhấn chìm Túy Cúc. “Giờ ta chỉ biết nhờ vào ngươi. Ở đây có bản đồ, ngươi hãy đi tìm Dương Phượng.” Sính Đình cắn môi, cố lấy trong người ra tấm bản đồ, “Tắc Doãn là thượng tướng quân, chắc chắn bên cạnh có dũng sĩ quen việc trèo núi. Gặp được Tắc Doãn, Tắc Doãn sẽ sai người đến đón ta ngay”. Túy Cúc liên tục lắc đầu: “Cô nương không đi được. Túy Cúc có thể cõng cô nương. Cô nương vẫn còn sức…”. “Làm thế chỉ khiến cả hai ta cùng chết ở nơi này. Không có lương thực, trước mặt e là cũng chẳng còn núi đá cho chúng ta trú chân. Giờ ngươi vẫn còn sức, đi một mình chắc chỉ hai ngày là xuống núi. Thuộc hạ của Tắc Doãn quen với vùng núi này, họ có thể tìm thấy ta chỉ trong một ngày.” “Không được, không được thật mà.” Sính Đình mở trừng mắt, cố nói to hơn một chút: “Ngươi cõng ta, mười ngày cũng không ra khỏi khu rừng này”. Không còn đủ sức, ngực Sính Đình bắt đầu đau. Nàng ngẩng đầu thở dốc, nhét tấm bản đồ vào tay Túy Cúc, “Cầm lấy!”. Túy Cúc cầm bản đồ, trong lòng hoảng hốt. Túy Cúc biết Sính Đình đã sức cùng lực kiệt, vì nếu còn có cách, nàng sẽ chẳng chịu dừng bước. Chỉ là, Túy Cúc chưa từng nghĩ đến việc rời xa Sính Đình vào lúc này. “Đi tìm Dương Phượng, bảo tỷ ấy cử những thuộc hạ tài giỏi nhất đến tìm ta, cả đi và về chỉ hết ba ngày”, Sính Đình đưa mắt nhìn quanh, “Núi đá này có chỗ tránh mưa tránh gió, cả quả chín mọng có thể hái ăn. Ta sẽ đợi mọi người ở đây”. Túy Cúc bất giác vò nát tấm bản đồ. Dường như toàn sức lực của Túy Cúc dồn cả vào đôi tay, tấm bản đồ nhăn nhúm bị vò đến sắp rách. “Túy Cúc biết rồi.” Gần như cách cả thế kỷ, Túy Cúc mới tìm thấy giọng nói đứt đoạn của mình. Nàng nhìn chằm chằm Sính Đình, “Túy Cúc sẽ tìm đến chỗ Dương Phượng, bảo nàng ấy cử cao thủ leo núi đến đây, mang theo cả nhân sâm lâu năm nữa. Túy Cúc sẽ ở chỗ Dương Phượng chuẩn bị mọi thứ, sắc sẵn thảo dược đợi cô nương về”. Sính Đình dịu dàng nhìn Túy Cúc, đôi môi nhợt nhạt hơi nhếch lên, cố nở nụ cười: “Đúng rồi. Chính là như thế”. Nàng khó khăn giơ tay lấy chiếc trâm trên đầu, cánh tay run rẩy hồi lâu vẫn không thể lấy ra. Càng nhìn càng xót xa, Túy Cúc vội lấy giúp chiếc trâm xuống, đưa cho Sính Đình. Sính Đình không nhận lấy, chỉ nói: “Ngươi cầm lấy cây trâm này. Đây là thứ Dương Phượng tặng ta, ngươi có thể mang ra làm tín vật”. Túy Cúc đáp một tiếng, nhưng lúc lâu vẫn không thấy nhúc nhích, ánh mắt dán chặt vào Sính Đình. Biết Túy Cúc không đành lòng, Sính Đình lại gọi: “Túy Cúc…”. “Vâng?” “Mau đi.” Túy Cúc chỉ đáp một tiếng, giọng đã nghẹn ngào, rồi chầm chậm đứng dậy, một tay cầm tấm bản đồ, một tay cầm chiếc trâm dạ minh châu: “Cô nương, Túy Cúc đi đây”. Do dự mãi, cuối cùng Túy Cúc cũng quay người rời đi. Sính Đình mở to mắt nhìn theo bóng dáng Túy Cúc dần khuất sau tảng đá, thở phào. Nàng gắng gượng ngồi dậy, định đi xem địa hình nơi đây, nhưng sức lực đã cạn kiệt. Cứ nghỉ ngơi một lát, đằng nào nàng cũng không đi tiếp. Sính Đình nhắm mắt, đầu dựa vào tảng đá. Chẳng mấy chốc, nàng nghe thấy tiếng bước chân giẫm trên lá khô, bèn kinh ngạc mở mắt. “Cô nương…” Túy Cúc quay lại mang theo bao quả chín, “Cái này để lại cho cô nương”. Túy Cúc cẩn thận đặt lại đống quả xuống trước mặt Sính Đình, nhìn nàng hồi lâu, khẽ bảo, “Lần này Túy Cúc sẽ đi thật”. “Túy Cúc.” Nhìn theo bóng Túy Cúc, Sính Đình gọi. Túy Cúc vội vã quay đầu: “Cô nương sao thế?”. Sính Đình nhìn chăm chăm về phía Túy Cúc hồi lâu, rồi mỉm cười đáp: “Không có gì, ngươi cũng phải cẩn thận. Sớm xuống núi an toàn.” “Vâng, Túy Cúc biết rồi”, Túy Cúc gật đầu. Lần này Túy Cúc đi thật. Trận huyết chiến đang hồi căng thẳng đã nhanh chóng được hóa giải bởi một cuộc trò chuyện không ai biết nội dung giữa Công chúa Vân Thường và Đông Lâm Trấn Bắc vương. Cứ ngỡ máu sắp chảy thành sông, nhưng binh đao bỗng chốc hóa thành ngọc ngà tơ lụa. Cảm thấy thất vọng nhất chính là quân chủ hai nước còn lại trong tứ quốc. Nghĩ lại ngày đó, vương phủ Kính An công lao hiển hách mấy đời, nắm giữ binh quyền Quy Lạc, khiến Đại vương cũng phải đề phòng. Quy Lạc tân vương Hà Túc lên ngôi chưa đến một năm đã nhân lúc Hà Hiệp khải hoàn, lừa hắn mang binh khí vào cung yết kiến, rồi vu cáo Hà Hiệp tạo phản. Âm mưu độc địa của Quy Lạc vương đã hủy hoại cả vương phủ Kính An công lao hiển hách hàng trăm năm chỉ trong nháy mắt. Mối thâm thù ấy, Hà Hiệp sao có thể quên? Vừa nghe Sở Bắc Tiệp triệu tập đoàn quân Đông Lâm, quyết chiến một trận với Phò mã Vân Thường, niềm sảng khoái và chờ đợi trong lòng Quy Lạc vương thật khó diễn tả thành lời. Thậm chí đội quân Quy Lạc đã chuẩn bị sẵn sàng, chờ lệnh xuất phát. Một khi Hà Hiệp bại trận, quân tướng Quy Lạc sẽ gia nhập cuộc chiến, công phá Vân Thường, tiêu diệt Hà Hiệp – mối đại họa của Quy Lạc vương. Nào ngờ Công chúa Vân Thường vừa lộ diện đã hóa giải hoàn toàn tình thế này. “Không phải Công chúa Diệu Thiên.” Quy Lạc vương đứng lên khỏi vương tọa, giãn gân giãn cốt. Ngồi nghe quân báo cả nửa ngày, cuối cùng Hà Túc lạnh lùng buông một câu. “Đại vương?”, Quốc trượng Nhạc Địch kinh ngạc hỏi: “Ý của Đại vương là quân báo nhầm lẫn?”. “Không, ý ta là người khiến Sở Bắc Tiệp lui binh không phải Diệu Thiên công chúa.” Quy Lạc vương ngửa mặt lên trời thở dài, thần thái có chút trống rỗng, không cam lòng, “Là Bạch Sính Đình”. Sắc mặt Nhạc Địch bỗng đổi: “Bạch Sính Đình? Bạch Sính Đình của vương phủ Kính An?”. Tại sao phải luôn nghe thấy cái tên này? Nàng ta chỉ là một thị nữ trong vương phủ, chẳng qua cũng chỉ biết gảy đàn, nay lại có thể khuynh đảo đại cục? Ngay cả lần trước nói chuyện riêng với Vương hậu, Vương hậu cũng nhắc đến cái tên này. “Quốc trượng cũng thấy không thể tin nổi đúng không? Bậc anh hùng như Sở Bắc Tiệp lại vì một nữ nhân mà phát động chiến tranh, rồi lại vì một nữ nhân mà dừng cuộc chiến. Giờ nghĩ kỹ, vận mệnh của Vân Thường và Đông Lâm dường như nằm cả trong tay nữ nhân ấy.” Nhạc Địch không cho là vậy: “Đại vương nghĩ nhiều rồi. Nữ nhân phải ở trong khuê phòng, lo chuyện hầu hạ phụ thân và phu quân. Sở Bắc Tiệp vì một nữ nhân mà làm chuyện ngu xuẩn, lầm đường lạc lối. Hắn từng dẫn quân xâm phạm lãnh thổ Quy Lạc ta, giờ lại tự diệt vong, đó quả là may mắn lớn của Quy Lạc”. Quy Lạc vương xua tay cho kẻ truyền tin đã bẩm báo xong lui ra, không biết nghĩ đến việc gì, khóe môi bỗng nhếch lên, cười mà như không: “Ta nói cho Quốc trượng một việc, khi Bạch Sính Đình bị Hà Hiệp đưa từ Đông Lâm sang Vân Thường, quả nhân đã cử quân vào Đông Lâm phục kích Hà Hiệp, hy vọng có thể đưa Bạch Sính Đình về Quy Lạc”. “Hả?”, Nhạc Địch sững người. “Quả nhân không bàn với Quốc trượng, vì quả nhân biết Quốc trượng sẽ không đời nào đồng ý.” Dưới ánh nến, những đường nét trên khuôn mặt Quy Lạc vương toát lên vẻ cương nghị của bậc vương giả, “Chẳng giấu Quốc trượng, việc đã đến nước này, quả nhân vẫn nghĩ mãi một vấn đề. Năm đó, Bạch Sính Đình chẳng qua chỉ là một thị nữ trong vương phủ Kính An, bao năm ở ngay trước mắt quả nhân, nay bị Hà Hiệp và Sở Bắc Tiệp tranh qua giành lại, giá trị bỗng gấp đến trăm lần. Sớm biết thế này, trước đây quả nhân nên nạp Bạch Sính Đình vào hậu cung?”. Câu chuyện đột nhiên chuyển sang vấn đề hậu cung. Sắc mặt Nhạc Địch thay đổi, mớ suy nghĩ trong đầu quay cuồng như bánh xe. Nữ nhi của ông ta là đương kim vương hậu Quy Lạc, chính nhờ có được nữ nhi bảo bối trở thành quốc mẫu, thanh thế của Nhạc gia mới lên như diều gặp gió. Sau khi vương phủ Kính An gặp nạn, Nhạc gia đường hoàng tiếp quản binh quyền Quy Lạc. Suy nghĩ hồi lâu, Nhạc Địch mỉm cười đáp: “Đại vương nói đùa rồi. Bạch Sính Đình xuất thân hèn kém, chỉ mang thân phận thị tì, nghe nói cũng chẳng hề xinh đẹp. Hà Hiệp vì lưu luyến tình chủ tớ năm xưa, Sở Bắc Tiệp bởi tầm nhìn thiển cận, hám lợi mất khôn mà thôi”. “Ta nói đùa sao?”, Quy Lạc vương cười nhạt, quay lại, ngồi xuống, tựa nửa người vào tay vịn ngai vàng, dịu giọng, “Quốc trượng sai rồi”. “Hả?” “Cái đẹp của Bạch Sính Đình không nằm ở dung mạo mà ở khí phách và tấm lòng. Luận về điểm này, không vị quốc mẫu nào trong tứ quốc so được với Bạch Sính Đình. Nếu không, một bậc kiêu hùng như Sở Bắc Tiệp sao có thể vì một bức thư của nữ tử ấy mà lui hết đại quân của cả nước?”, Quy Lạc vương thở dài, “Ta và Quốc trượng nhìn người thật không bằng Sở Bắc Tiệp”. Nói rồi, Hà Túc cười chua chát. Nhạc Địch đang không biết tiếp lời thế nào, ngoài điện bỗng vang lên lời bẩm báo: “Vương hậu nương nương giá đáo”. Tiếng trang sức va vào nhau vui tai, cửa điện lặng lẽ mở, Vương hậu tươi tắn xuất hiện. “Nương nương đến rồi.” Nhạc Địch mừng thầm trong lòng, có thể nhân cớ này mà chấm dứt chủ đề đau đầu kia, bèn vội vã đứng dậy. “Đại vương.” Vương hậu thướt tha hành lễ với Quy Lạc vương, rồi quay sang Nhạc Địch, giọng dịu dàng, “Phụ thân cũng đến ạ? Người mau ngồi đi”. Vương hậu vừa ngồi xuống cạnh Quy Lạc vương, vừa nói chuyện thường ngày, “Mấy hôm nay thời tiết thay đổi, sợ chứng đau chân của phụ thân tái phát, bản cung đang định sai người mang thuốc đến, lại gặp đúng lúc phụ thân vào cung, Quốc sự quan trọng, nhưng vẫn phải giữ gìn sức khỏe”. Nói tới đây, Vương hậu quay sang nhìn Quy Lạc vương nở nụ cười xinh đẹp: “Đêm nay Đại vương lại thức khuya rồi? Không lẽ đã xảy ra đại sự gì?”. Quy Lạc vương mỉm cười ôn hòa, lắc đầu: “Vân Thường và Đông Lâm ngừng chiến thì còn có thể xảy ra đại sự gì? Quả nhân chỉ đang nói đến Bạch Sính Đình với Quốc trượng thôi”. Nghe thấy ba tiếng “Bạch Sính Đình”, trong lòng Vương hậu chợt thấy chán nản, nụ cười trên môi có vài phần không được tự nhiên: “Nghe nói Bạch Sính Đình đã theo Hà Hiệp tới Vân Thường, không biết hiện giờ ra sao?”. “Sở Bắc Tiệp vì một bức thư của Bạch Sính Đình mà lui binh, Vương hậu có biết chăng?” “Có chuyện này sao?”, Vương hậu nén tiếng thở dài, chậm rãi hỏi. Không khí trong điện bỗng dưng chùng xuống. Luận đàm quốc sự với Quy Lạc vương, gần sáng Nhạc Địch mới cáo lui. Vừa ra khỏi vương cung, bước lên xe ngựa, ông ta đã trầm giọng ra lệnh: “Mau đến phủ tướng quân!”. Phu xe xuống gọi cổng lớn phủ tướng quân. Nhạc Chấn tướng quân đêm qua chè chén hát ca cùng tiểu thiếp, lúc này còn chưa đi nghỉ, nghe nói phụ thân đến bèn vội vã bò khỏi giường. “Phụ thân đến có việc gì? Có việc, phụ thân sai người đến gọi hài nhi là được rồi.” Nhạc Chấn đứng đón ở cửa, thấy sắc mặt phụ thân sa sầm. Nhạc Địch không nói gì, bước thẳng về phía thư phòng. Vào đến nơi, ông ta cho lui hết đám người xung quanh, rồi đóng cửa lại, hạ giọng: “Đại vương sinh nghi rồi”. “Hả?”, Nhạc Chấn vội hỏi, “Đại vương nói gì?”. “Đại vương liên tục nhắc đến Bạch Sính Đình, thậm chí còn nói đã hối hận vì trước kia không nạp nàng ta vào cung”, Nhạc Địch nhìn nhi tử, hừ một tiếng, “Đại vương cảnh cáo chúng ta, ngôi vị của nương nương không gì là chắc chắn”. Nhạc Chấn tỏ vẻ khinh thường: “Một thị nữ sao có thể so sánh với nương nương? Nhạc gia chúng ta đời đời là trọng thần của Quy Lạc, nương nương là Thái tử phi do đích thân Tiên vương sắc phong”. “Mấy đời trọng thần? Vương phủ Kính An là tấm gương còn rành rành ra đó. Huống hồ, giờ Bạch Sính Đình đã chẳng đơn thuần chỉ là một thị nữ. Liên quan đến nàng ta, không chỉ có Phò mã Vân Thường, mà còn cả Đông Lâm Trấn Bắc vương nữa. Ngay cả các đại tướng Bắc Mạc cũng có mối quan hệ khó xác định với nàng ta.” “Phụ thân…” “Ngươi đã xử lý kẻ được cử đi báo tin với Hà Hiệp chưa?” Nhạc Chấn đáp: “Phụ thân yên tâm, hài nhi đã sắp xếp cho hắn rời khỏi thành đô, chắc chắn sẽ không bị Đại vương phát giác”. “Không!”, ánh mắt Nhạc Địch sa sầm, “Phải trừ cỏ tận gốc, không được để lại hậu họa”. Nhạc Chấn có vẻ chần chừ: “Phi Chiếu Hành là tướng tài hiếm có trong đám thuộc hạ của hài nhi, từ nhỏ đã theo hài nhi, trung thành hết mực…”. “Đừng nhiều lời, hãy làm theo ý ta”, Nhạc Địch lạnh lùng, “Đại vương sai người phục kích Hà Hiệp, chúng ta lại âm thầm báo tin ấy cho hắn. Nếu chuyện này tiết lộ ra ngoài, chúng ta sẽ mang tội phản quốc, sẽ bị diệt tộc. Nay thanh thế Nhạc gia ngày càng lớn, Đại vương đã có phần lo lắng, nhỡ chăng để Đại vương tìm được sơ hở, chắc chắn chúng ta sẽ đi theo vết xe đổ của vương phủ Kính An”. Ngừng lời, ánh mắt thoáng tia lạnh lẽo, Nhạc Địch nghiến răng nói: “Phi Chiếu Hành nhất định phải chết! Hắn chết sẽ chẳng còn nhân chứng, dù có sinh lòng nghi ngờ, Đại vương cũng không thể vô cớ trách tội nương nương, hỏi tội một quốc trượng ta và một đại tướng quân ngươi”. Vẫn còn do dự, Nhạc Chấn suy nghĩ hồi lâu, cuối cùng cũng nhẫn tâm gật đầu: “Hài nhi hiểu rồi”. Sính Đình ăn hết hơn nửa quả chín. Gió lạnh gào thét suốt đêm, may có động đá này náu thân, Sính Đình mới tránh được nguy cơ đông cứng. Nàng ngó đầu ra khỏi động, thấy bầu trời quang đãng, hy vọng hôm nay cũng là một ngày nắng, Túy Cúc đi trên đường sẽ không gặp gió tuyết, bình an đến được chỗ Dương Phượng. Ba ngày, nói dài không dài, nói ngắn cũng chẳng ngắn. Tuy rằng hết lòng tin tưởng Túy Cúc, nhưng lúc này đây Sính Đình thấy trống rỗng vô cùng, không có chút chắc chắn về điều gì. Hài nhi vẫn ngủ yên trong bụng mẹ. Bụng nàng đêm qua không còn đau như mấy hôm trước. Nhưng chính cái cảm giác quá đỗi yên tĩnh này lại khiến Sính Đình lo lắng. Bảo bối của ta, con sẽ không sao. Nàng nhẹ nhàng xoa bụng, hy vọng có thể nghe thấy tiếng hài nhi cựa mình. Đứa bé đang dần lớn lên, những lúc đi đường, nàng đã cảm nhận được bàn chân bé xíu của hài tử đạp trong bụng mình. Túy Cúc nói thai nhi còn nhỏ, giờ chưa biết đạp, nhưng Sính Đình chắc rằng con đang đạp nàng. Động tác của sinh mệnh nhỏ bé ấy tràn đầy phấn chấn, dù là rất khẽ cũng khiến nàng cảm động đến rơi nước mắt. “Hài tử của ta, mong cho dì Túy Cúc bình an, mong mẫu tử ta qua được kiếp nạn này.” Sính Đình khẽ khàng xoa bụng, dịu giọng thầm thì. Nàng biết những lời thầm thì tựa như nói mê này sẽ chẳng có tác dụng gì, nhưng, trong giấc mộng, con nàng cũng mang khí phách đầu đội trời chân đạp đất giống hệt phụ thân, cũng đủ sức mạnh để bảo vệ bất kỳ ai. Bảo vệ? Sính Đình nhếch môi cười chua chát. Chỗ quả chín mọng Túy Cúc hái về vẫn còn một ít, ở ngay cạnh tay nàng. Nhưng sau một đêm, những quả ấy đã kém tươi hơn. Nhìn đống quả đã chẳng còn đẹp mắt như hôm qua, Sính Đình như ngây đi, tâm tư bay đến thâm cốc dưới cầu treo Vân Nha. Nơi thâm cốc không người lui tới bị rừng cây bao phủ ấy cũng rụng đầy quả chín. Nàng và Sở Bắc Tiệp đã ở đó nghi ngờ lẫn nhau. Dáng hình Sở Bắc Tiệp rõ ràng dưới ánh trăng, kiên nghị, tràn ngập khí khái anh hùng, hiếm ai bì kịp. Nàng đã thẳng thắn: “Là thiếp sai người chặt đứt cầu treo để ngăn chàng đột kích quân doanh”. Đôi mắt hổ lạnh lùng nhìn nàng hồi lâu, Sở Bắc Tiệp ngửa mặt lên trời cười thành tiếng: “Sở Bắc Tiệp ơi là Sở Bắc Tiệp, ngươi đúng là đồ ngốc!”. Tiếng cười của chàng thê thảm đến thấu xương. Sính Đình bỗng giật mình choàng tỉnh. Nàng cúi xuống, quả chín trong tay đã nát nhừ, nước đỏ dính đầy bàn tay. Đúng rồi, quả chín. Lúc đó, nàng cũng hái những quả chín mọng này. Chàng còn đang giận. Đường đường là một đại tướng, nhưng đến lúc giận dỗi cũng chẳng khác gì một đứa trẻ. Chàng mặc kệ vết thương trên cánh tay, cậy mình sức khỏe, không chịu để nàng băng bó vết thương, cũng chẳng thèm ăn quả nàng hái về. Những quả ấy cũng rất đắng, rất chát, giống hệt đống quả bây giờ. Nhưng, sau đó sao hai người lại dựa vào nhau? Chàng còn cười với nàng, hôn lên môi nàng. Hơi thở nóng rẫy len lỏi vào tận tâm can nàng, ngang ngược như muốn bố cáo với toàn thiên hạ rằng: Bạch Sính Đình thuộc về Sở Bắc Tiệp. Chàng từng nói: “Ta ở Đông Lâm đợi nàng”. Khi nhìn nhau cười, họ cứ ngỡ tương lai cũng giản đơn mà hạnh phúc như vậy. Sau đó thì sao? Và cả sau này nữa? Dường như sóng gió vẫn không ngừng, có phải ông Trời chẳng chịu buông tha họ? Giọt nước mắt ấm nóng nhỏ xuống vạt áo, Sính Đình mới phát hiện ra má mình đẫm lệ. Không, không được tiếp tục nghĩ đến chàng, sẽ chẳng có kết cục gì tốt đẹp cả. Dù thật lòng hơn nữa, dù dốc cạn tâm huyết, cũng chỉ như đỗ quyên kêu đến trào máu, không thoát khỏi kết cục bi thương. Đừng nghĩ nữa, đừng làm thương tổn trái tim mình nữa. Sính Đình cố gắng xua đi cảm giác ấm áp trong tim. Sau một đêm nghỉ ngơi, lấy lại chút sức lực, nàng run rẩy vịn tay vào tảng đá đứng lên, định đi hái thêm ít quả tươi. Đi được hai bước, cơn đau dữ dội bất chợt từ bụng lan khắp toàn thân, tựa như lưỡi dao nung đỏ đang đâm thẳng vào bụng nàng. “A!” Sính Đình kêu lên thảm thiết, ôm chặt lấy bụng rồi ngã xuống đất. Mồ hôi lạnh túa ra toàn thân. Hài nhi, bảo bối của ta, con làm sao thế? Con chê quả rừng đắng? Hay chê thời tiết lạnh? Phụ thân không có ở đây, mẫu thân sẽ che chở cho con. “A! A!” Từng cơn đau cuộn lên khiến Sính Đình lăn lộn trên đất, những giọt mồ hôi to như hạt đỗ từ trán lăn xuống, mười ngón tay nàng túm lấy nền đất rồi thả ra, để lại những vết hằn trên đó. “Bắc Tiệp, Bắc Tiệp…” Nàng mở choàng mắt, nhìn bầu trời xám xịt càng lúc càng sà xuống gần mình, “Sở Bắc Tiệp, chàng đang ở đâu?”. Sao chàng không ở cạnh thiếp? Nếu lúc này chàng xuất hiện trước mặt thiếp, thiếp xin thề với trời, sẽ mãi mãi ở bên chàng, đánh đàn múa hát bên chàng. Chỉ cần chàng nắm tay thiếp, nói một câu, “Sính Đình, ta đến tìm nàng”, thiếp sẽ quên đi tất thảy, quên hết chuyện trước đây, quên cả chiến tranh khói lửa, quên vầng trăng tàn nhẫn đêm mồng Sáu. Thiếp sẽ nhặt từng mảnh tim vỡ, chỉ cần chàng xuất hiện. Thiếp muốn gặp chàng, muốn nhìn thấy chàng. Chàng đã nói yêu thiếp. Chàng đã nói sẽ trở về. Thiếp đã dốc toàn sức lực đợi vầng trăng mồng Sáu lên đến đỉnh, nhưng chẳng thấy bóng chàng. Thiếp muốn nhìn thấy chàng, dù chỉ là cái bóng. Chàng có biết, thế gian này, không từ nào có thể lột tả hết nỗi tuyệt vọng trong thiếp? Chàng từng nói chúng ta thề với ánh trăng, cả đời này không phụ bạc. Có thể không phụ bạc chăng? Có thật là không phụ bạc? “Hận chàng…” Bầu trời xám xịt dần trở nên tối đen, trong cơn đau đớn như đứt lìa thân xác, Sính Đình nghe thấy tiếng khóc kiệt sức đến khản đặc của bản thân: “Thiếp hận chàng! Thiếp hận chàng!”. “Hận chàng! Hận chàng…” Toàn bộ sức lực phát tiết, cho đến khi chìm vào màn đêm đen tối, nàng mới cảm nhận được rằng, hận một người dễ hơn nhiều so với quên đi một người.