Vào lúc hai giờ chiều Chủ nhật, mẹ Charlie rời nhà. Chiếc limousine vàng óng đang chờ cô. Từ cửa sổ phòng mình, Charlie nhìn mẹ đi vào xe hơi. Nó tự hỏi liệu chiếc gương vỡ có tác dụng gì không. Có lẽ không còn thời gian để ngăn chặn tên bá tước đánh cắp mẹ nó. “Charlie!” Ông cậu Paton gọi từ ngưỡng cửa. “Có ai gọi con này.” Ông chìa cái điện thoại di động của ông ra cho nó. Giọng của Gabriel rỉ ra rừ chiếc điện thoại khi Charlie dí tai vào, “Charlie, em muốn biết về tấm áo choàng, nhưng em lại không đến quán cà phê.” “Em bị trễ, Gabe à. Nói cho em biết đi, anh đã thấy cái gì?” “Anh không thấy nhà vua gì hết, anh thấy một cái cây. Lá của nó vàng rực như thể đang bốc cháy vậy.” “Em biết rồi.” “Em biết rồi hả?” Gabriel nghe có vẻ thất vọng. “Em đã tìm thấy câu một thần chú. Em muốn kể cho tất cả mọi người nghe nhưng em đến trễ.” Một tiếng rầm bất chợt vang lên và Charlie suýt nữa đánh rơi cái di động. “Xin lỗi,” một giọng nói nghẹt nghẹt, “lũ chuột sổng ra. Anh phải đi. Gặp em lúc bốn giờ nhé.” “Tạm biệt...” Charlie trao lại cái điện thoại cho ông cậu. “Gabriel thấy một cái cây.” “Vậy là có chứng cớ thuyết phục,” Ông cậu Paton đút chiếc điện thoại vào túi quần. “Tại sao chúng ta không đi ngay lúc này đi?” Charlie nôn nóng. “Tại sao phải chờ cho đến tận bốn giờ?” “Hoàng hôn,” Ông cậu Paton nói. “Ngoài ra, còn nhiều người khác liên quan. Tất cả mọi thứ cần phải đâu vào đó. À mà, con phải cầm theo cái này,” ông giơ ra một cái lọ thủy tinh nhỏ. “Để làm gì ạ?” “Phòng trường hợp tất cả mọi thứ đều thất bại.” “Ông cậu Paton, con ước gì ông đừng đánh đố con nữa,” Charlie cầm cái lọ và đút vào túi quần. “Nghe đây, Charlie câu thần chú này... những con số không được đúng ngay từ đầu. Ông Onimous đã hơn hai mươi tuổi nhiều rồi – có thể vì thế nó sẽ không linh nghiệm như chúng ta hy vọng,” Ông cậu Paton nhún vai. “Hãy giữ kĩ cái lọ. Để hứng nước mắt của nhà Vua.” Charlie trải qua một tiếng đồng hồ tiếp theo trong nỗi hồi hộp cực độ. Cuối cùng nó không chịu nổi nữa, bèn đấm thình thình vào cánh cửa phòng Ông cậu và hét om, “Chúng ta đi được chưa, Ông cậu Paton?” Nội Bone nhoài người ra khỏi phòng tắm và hạch hỏi xem cái gì mà ỏm tỏi vậy. Charlie hầu như đã quên phéng sự tồn tại của bà nội và hình thù hiện ra đột ngột của bà khiến nó bị sốc. “Xin... xin lỗi, nội,” Charlie lắp bắp. “Ông cậu và con định đi dạo.” “Vào giờ này trong ngày? Đừng có điên,” nội Bone nói. Ông cậu Paton mở phòng mình ra, “Nó không điên đâu.Chúng tôi đi ra công viên đây.” “Mi còn ngu hơn nó nữa,” bà chị sỉ vả, “Mi sẽ gây ra tai nạn cho coi, vả lại nhân tiện nói luôn,” bà tiếp, “ta đã thu xếp để dời bà Maisie đi rồi.” “Dời đi!” Charlie thất kinh. “Đi đâu?” “Ta không thể để mụ ấy làm tắc nghẽn nhà tắm lâu thêm được nữa,” nội Bone chỉ nói có thế. “Grizelda!” Ông cậu Paton gầm lên. “Sao bà dám nói về bà Maisie như thế. Bà ấy là người đáng kính. Bà đã sắp xếp cái gì? Nói cho tôi biết ngay lập tức.” “Úi chà chà! Chúng ta hôm nay ai nầy đều hăng tiết cả nhỉ,” nội Bone trịch thượng cười khẩy. “Nếu mi cần biết thì ông Weedon tốt bụng đã đồng ý đến đây vào ngày mai để hốt mụ Maisie kia đi. Ông ta sẽ mang túi đựng xác tới cho nó khỏi rỏ nước ra thảm, sau đó ông ta sẽ đem mụ Maisie biến...” bà ta dừng lại một cách kịch tính, “... đi đâu đó.” “Lão ta đừng hòng làm thế nhé,” Ông cậu Paton tuyên bố. “Nếu lão Weedon mà dám động đến bà Maisie thì tôi sẽ quẳng lão xuống cầu thang.” “Hy vọng hão huyền,” nội Bone dè bỉu. “Cơ bắp ông ta rắn như sắt.” Bà ta cười mỉa mai và lướt vào phòng mình. Ông cậu đứng sựng đó, cứng họng, điên tiết, cánh tay thõng đờ xuống hai bên hông và nắm tay gồng cứng lại. “Đi đi, ông cậu,” Charlie giật giật ống tay áo ông. “Chúng ta đi thôi.” Trước khi họ rời nhà, Charlie đem con bướm trắng vào phòng tắm và thả cho nó muốn bay đâu tùy ý. Nó đến đậu bên những lọn tóc đông cứng của ngoại Maisie. “Canh chừng cho bà an toàn nhé,” Charlie bảo con bướm trắng. Bước đi giữa thành phố vắng hoe ngày Chủ nhật, Charlie cảm thấy như toàn bộ thế giới của mình như sắp sụp đổ tới nơi.Nếu câu thần chú không linh nghiệm thì nó sẽ đi về đâu? Không khí ở quán Cà Phê Thú Kiểng đã làm nó lên tinh thần đáng kể. Mọi bàn đều đã có người ngồi và quán cà phê náo nhiệt tiếng chuyện trò rôm rả, đúng như mong đợi. Gia đình Onimous tất bật cố phục vụ chu đáo cho tất cả mọi người; họ di chuyển thoăn thoắt phía sau quầy, múc thêm đồ ăn vào tô, dọn món cho bọn thú cưng cần chế độ ăn kiêng đặc biệt, châm trà... Đại gia đình Gunn chiếm nguyên một cái bàn. Charlie nhận thấy họ thậm chí còn mang theo nhạc cụ. Fidelio vẫy nó lại và bảo, “Em biết đấy, tụi này nghĩ sẽ giải trí cho tất cả mọi người, trong khi các bạn cứ làm điều gì đó các bạn định làm.” “Ý hay tuyệt!” Charlie nói, nhìn quanh quán cà phê, “Em không thấy đứa nào nhà Loom cả.” “Anh nghe nói chúng gặp rầy rà với lũ chó của chúng,” Fidelio nói, rồi chạy qua cô em út, Mimi! Chúc Charlie may mắn đi!” Khi nghe vậy, toàn thể thành viên của gia đình Gunn liền đồng ca, “Chúc may mắn, Charlie Bone!” Nhiều vị khách quay hướng nhìn về hướng Charlie. Nó đỏ bừng mặt, rút lui khỏi cái bàn đông đúc của gia đình Gunn và ngồi xuống giữa Benjamin và cô Brown. “Cả ba của Lysander cũng đến,” Benjamin bảo Charlie. “Nhìn kìa, Homer đang đậu trên đầu ấy.” Charlie ấn tượng quá chừng, nhất là khi ông thẩm phán gật đầu một cái thân thiện với Ông cậu Paton khi Ông cậu nó đi ngang qua. Các vị khách khác của quán có ngạc nhiên trước lượng người đông đúc thì không bộc ra, cho đến khi Tancerd cùng cha mẹ xuất hiện. Ngay khi nhà Torsson đặt chân vào quán cà phê, một luồng gió lạnh cắt da lùa vào khiến mọi con thú kiểng nhao nhác chạy đi tìm chỗ núp. “Xin lỗi!” Ông Torsson nói như sấm rền. “Chúng tôi không cố ý. Chỉ vì không kiềm chế được.” Ông ngồi xuống bên cạnh ông thẩm phán, người mà ông biết rất rõ, trong khi vợ ông len vào ngồi bên bác Sage gái, Tancred ngồi chung một ghế với Lysander. Billy đã ngồi vào bàn cùng với gia đình Silk và Rembrandt, ở chính giữa bàn – con chuột này đang khoái trá gây sự chú ý với mấy cô chuột cảnh. Cô Vertigo ăn mặc lôi thôi lếch thếch có phần quá trớn.Trong mái tóc giả màu xám, chiếc áo mưa màu nâu rách tươm và bộ mặt lem luốc, nhợt nhạt, hẳn là chẳng ai nhận ra cô nếu như không có Olivia đi cùng. Cô Ingledew giật mình đánh thót, ngỡ ngàng khi nhận ra người đang ngồi kế bên mình là ai. “Em không biết anh đã nói gì với tất cả mọi người,” cô Ingledew thì thào với Ông cậu Paton khi ông kéo ghế ngồi cạnh cô, “nhưng chắc chắn là đã có tác dụng rồi đấy.” Ông nháy mắt và bóp nhanh bàn tay cô một cái. Charlie lia khắp phòng tìm Naren. Không có dấu hiệu nào cho thấy có cô bé. Nó đá ánh mắt tuyệt vọng qua Ông cậu và lắc đầu. “Có chuyện gì vậy?” Cô Vertigo hỏi bằng giọng bà già gấp ba tuổi cô. “Tôi nghĩ Charlie đang cố nói cho tôi biết người chúng tôi trông chờ sẽ tới lại chưa tới,” Ông cậu Paton đáp. “Tuy vậy, điều đó không hề làm tôi ngạc nhiên.” Ông vừa nhìn ra cửa sổ vừa nói câu này, và một vẻ nhẹ nhõm pha lẫn sửng sốt nháng qua mặt ông lúc ông Bartholodew Bloor bước vô. Theo sau là Naren và mẹ cô bé. Ông Bartholodew trông thấy Ông cậu Pton ngay tức thì. Ai mà có thể bỏ qua được người đàn ông đeo kính đen cao hơn hết thảy mọi người hẳn một cái đầu! Nhà thám hiểm bước thẳng đến Ông cậu Paton và dấm dẳn, “Paton, ta muốn giới thiệu anh với vợ ta, Meng, và con gái ta, Naren.” Ông cậu Paotn đứng lên và tất cả cùng bắt tay nhau. “Ta cũng muốn xin lỗi,” ông Barhtolomew tiếp, hơi lóng ngóng. “Charlie khiến ta phải nhìn lại và ta muốn chú biết rằng ta không giống như những người còn lại trong gia đình ta.” “Dĩ nhiên là không,” Ông cậu Paton bắt tay ông Bartholodew bằng cả hai tay. Ông Bartholodew hạ thấp giọng và nói, “Nào, giờ thì mọi người muốn chúng tôi làm gì đây trong khi những đứa trẻ khác... đều có việc?” “Không làm gì cả, Barth à,” Ồng cậu Paton đáp. “Chỉ cảnh giác thôi.Tôi nghĩ chúng ta sẽ bắt đầu ngay thôi.” Ông nhìn đồng hồ rồi nói với Naren. “Cháu thân mến, cháu hãy tới Charlie và bảo cậu ấy, bảo khẽ thôi, là đã đến giờ rồi, được không? Sau đó hãy đi cùng cậu ấy đến quầy. Cậu ấy sẽ biết phải làm gì tiếp theo.” “Vâng, thưa ông Yewbeam.” Với nụ cười háo hức, Naren len ra chỗ Charlie và nói, “Tới giờ rồi.” Charlie đứng lên và Benjamin nói, “Chúc may mắn, Charlie!” Khi Charlie và Naren bước về phía quầy, Charlie vỗ vai Tancred và Lysander. Hai anh lớn không để lộ cảm xúc gì, nhưng chỉ một phút sau khi Charlie và Naren biến mất nơi vòng cua của quầy, Tancred đã khều lưng Billy và Gabriel khi anh bước đằng sau chúng. Nhà bếp của gia đình Onimuos dần dà chật kín những đứa trẻ được ban phép thuật. Không nghe một tiếng nói nào. Mỗi đứa đều nhận thức rõ, rằng đây có lẽ là ngày trọng đại nhất cuộc đời mình. Bà Onimuos đã cho Una uống một tách trà cúc an thần và cô bé đã nhu mì hơn thường ngày rất nhiều, mặc dù đôi mắt đen cứ lấp la lấp lánh đầy háo hức. Charlie nhận thấy vài đứa liếc nhìn Naren một cách ái ngại, nó vội vàng giới thiệu cô bé là một người bạn giấu mặt bấy lâu nay. “Bạn ấy cũng có tài phép vô cùng kỳ diệu,” nó thêm. Khi tất cả chín đứa trẻ đã tập hợp đủ, ông Onimous hắng giọng và làm một bài diễn văn nho nhỏ. “E hèm! Tất cả chúng ta đều biết tại sao chúng ta ở đây, nhưng trước khi đi xa hơn, tôi chỉ muốn nói rằng bây giờ tôi sẽ chỉ cho các bạn một nơi mà suốt bao thế kỷ nay vẫn còn là chốn bí mật. Đó là một đường hầm mà chỉ có gia đình tôi biết, với ngoại lệ là Charlie và Billy. Đường hầm đó sẽ dẫn vào lâu đài của Vua Đỏ. Tôi yêu cầu các bạn làm ơn giữ bí mật giùm. Các bạn có ý kiến gì không?” Tất cả bọn trẻ đều long trọng thì thầm, “Vâng, thưa ngài.” “Xin cảm ơn. Tôi sẽ dẫn đường cùng với Una. Tôi đề nghị tất cả các bạn hãy đi theo hàng một,” ông Onimous nhấc cái đèn lồng ở trên bàn và đi tới một cái cửa nhỏ ở đầu kia nhà bếp. “Xin lỗi,” Tancred lên tiếng. “Nhưng có ai biết chúng ta sẽ đi đâu một khi đã đến khu đổ nát chưa?” “Em biết,” Emma nhỏ nhẹ. “Có hai bức tường cổ, có lẽ chỉ rộng cỡ hai người đi lọt.Ta sẽ đi vô giữa hai bức tường đó.Chúng chạy thẳng thẳng tắp được chừng nửa dặm, rồi sau đó lượn vòng, lươn vòng, giống như ở trong vỏ ốc sên vậy; nhà vua ở trong một mảng trống cuối vòng trôn ốc ấy.” Nghe nhắc tới nhà vua, tất cả bọn trẻ đều nghiêm trang đứng xếp vào hàng. Ông Onimuos mở cánh cửa ra và Charlie, bám ngay sau ông, thấy mình đã đứng trong cái nhà kho quen thuộc.Tới hang động có một bao khoai tây che giấu cánh cửa bí mật, ông Onimuos chờ cho đến khi tất cả đám trẻ đều quây quần trong căn phòng nhỏ đầy nấm mốc. “Chúng ta sắp đi vào đường hầm,” ông Onimous nói gần như thì thầm. “Hãy chú ý. Rất tối và ẩm ướt, và có rất ít không khí. Quãng đường đi khá dài đấy, Lysander, anh chàng thân mến, ta đề nghị anh đi cuối cùng, với Tancred. Những người khác có thể đi bất cứ vị trí nào ở giữa hàng. Lysander sẽ đóng cửa lại khi tất cả chúng ta đã đi qua. Tất cả đã sắn sàng rồi chứ?” Cả đám gật đầu. Vài đứa còn nói, “Rồi ạ, thưa ngài.” Ông Onimuos vật cái bao khoai to tướng ra khỏi bức tường, để lộ một cánh cửa rất thấp, rất cổ. Người đàn ông bé nhỏ mò tìm trong áo khoác bằng len của mình, lôi ra một chiếc chìa khóa nhỏ xâu vào sợi dây bằng vàng. Tra chìa khóa vào ổ, ông vặn nó một vòng và cánh cửa mở bật vào trong, nghe một tiếng kịch rất lớn. Cánh cửa không cao hơn ông Onimuos là bao, và mấy đứa con trai lớn phải cúi đầu mới chui lọt. Giơ chiếc đèn lồng lên cao hết cỡ, ông Onimuos nắm chặt tay Una và mở đường đi tới trước. Emma bước đằng sau họ, sẵn sàng chỉ đường một khi họ vào đến khu đổ nát. Naren đi theo sau Emma, Billy lũn cũn đằng sau Naren. Tiếp đến là Charlie, Olivia, Gabriel và Tancred. Lysander đi bọc hậu. Tất cả mọi chi tiết ông Onimuos đã mô tả về đường hầm đều chứng tỏ là có thật – có điều không đứa nào ngờ là nó còn tối hơn, ẩm ướt hơn và ngột ngạt hơn. Gabriel bắt dầu ho. Charlie hít thở thật sâu và dựa người vào bức tường nhớp nháp để giữ bình tĩnh. Olivia hét khẽ một tiếng khi vấp phải một hòn đá, bổ nhào vào Charlie và ngã oạch xuống đất. “Tớ không thấy gì cả,” con nhỏ rên rỉ. ”Đằng ấy không thể nào không mang ủng nhọn hoắt thì phải?” Charlie trách móc, kéo con nhỏ đứng lên. Ánh đèn lồng lúc này đã ở rất xa và những đứa đi đằng sau bắt đầu va nhùng nhằng vào nhau. Charlie đang định đổi chỗ cho Olivia thì Billy quay lại và trao cho Charlie một cây đèn cầy thắp sáng. “Chuyền xuống đi,” Billy thì thào. “Em có tới năm cây.” Charlie đưa cây nến cho Olivia và bảo, “Chuyển tiếp đi.” Khi tất cả năm cây nến cháy sáng đã được giơ lên cao thì đường hầm như ngập trong ánh trăng. Nhưng còn hơn cả chiếu sáng, những cây nến mang đến sự an ủi cho bọn trẻ đang lo sợ; không khí dường như trong lành hơn, bước chân chúng hình như nhẹ hơn, và thậm chí dù chúng đã phải đi thêm gần một dặm nữa thì thời gian vẫn trôi qua rất nhanh. Cuối cùng, cả đám nhô ra một khu rừng đặc kín những cây bu-lô gầy guộc. Thẳng trước mặt chúng có hai bức tường. “Không được chạy,” ông Onimous ra lệnh. “Bây giờ xin cẩn thận.” Lối mòn giữa hai bức tường bắt đầu dẫn vào rừng, nhưng đi được vài bước họ đã ra khỏi rừng cây và bước đi dưới bầu trời xanh, nổi vân vài đám mây chiều. “Hoàng hôn,” Charlie lẩm bẩm một mình. Tất cả mọi người lại rơi vào im lặng. m thanh duy nhất là tiếng bước chân dội âm âm xuống đất, nện trên lối đi lát đá cổ xưa. Khi cả đám bắt đầu đi vòng vèo qua những ngóc ngách hình ốc sên, tim Charlie đập loạn đến nỗi nó phải đè tay lên ngực. Bên cạnh nó, Emma giục, “nhanh lên.” Và rồi thì tất cả đã đến nơi. Hoàng hậu đang đứng đợi bên cạnh cái cây. Bà hí lên khẽ khàng và bước nhẹ về phía đoàn người, ngẩng cao đầu lên chào đón. Sau đó bà bước đi khỏi và để mọi người lại với nhà vua. Cả đám đứng trước một cái cây ngất, sừng sững như ngọn tháp; những đôi mắt mở to và những gương mặt ngửa hẳn ra sau, nhưng không một tiếng nói.Chúng đã nhìn thấy những dòng chất sậm màu chảy xuống thân cây, và theo bản năng, tất cả tiến lại gần hơn. Charlie đã thuộc lòng từng chữ trong câu thần chú. Nó nắm tay Naren và bắt đầu lẩm bẩm lời thần chú. Những người khác nối vòng tay lại nhưng tất cả đều phải cúi rạt xuống bên dưới những tán cành đu đưa xào xạc mới có thể tạp thành một vồng tròn không đứt. “Ba lần,” Charlie thì thào. “Hãy chạy quanh nhà vua, chạy quanh, chạy quanh cho tới khi nước mắt ngài khô đi.” Chúng vây quanh cái cây, với vẻ mặt rất nghiêm trang, tất cả đều nhìn đau đáu vào những giọt nước mắt đỏ như máu. Một lần, hai lần, ba lần. Chạy quanh, chạy quanh cái cây. Khi đã hoàn thành cả ba vòng, Charlie kéo mạnh tay Billy và chạy nhanh hơn nữa. “Chúng ta chạy ba lần rồi mà,” Billy nói. “Cứ chạy nữa,” Charlie tuyệt vọng hối. Nước mắt nhà vua càng sậm lại hơn bao giờ hết, nhưng Charlie không bỏ cuộc. Cả đám quay tít quanh cái cây cho đến khi bắt đầu chóng mặt. Và rồi, với đôi mắt ngấn nước, ông Onimuos buông vòng tròn ra, hét lên, “Không xong rồi, bọn nhỏ. Đó là vì ta. Ta là kẻ phá bĩnh. Làm gì có ai tin ta chưa đến hai mươi tuổi cơ chứ? Bất cứ ai làm ra câu thần chú này đều ngụ ý rằng từng từ của nó phải được tuân thủ.” Bọn trẻ nhìn trân trối vào khoảng trống giữa Olivia và Emma, tuy rằng không đứa nào bỏ vòng. Chúng đứng bên dưới cái cây trong khi ông Onimuos vục đầu vào tay khóc nức nở, và bầu trời dần dần ken đặc những đám mây đen. Trời ập tối dưới bóng những tán cây xòe rộng, tối đến nỗi chúng gần như không trông thấy mặt nhau. Nhưng có gì đó cứ giữ chúng đứng chôn chân tại chỗ. Đám cỏ cao ở rìa trảng trống bỗng lay động và run rẩy, mặc dù không có gió. Có cái gì đó bò ra khỏi cỏ và đứng lên. “Con thú,” ông Onimuos la lên, giọng ông hơi hốt hoảng. “Asa,” Charlie nói trong hơi thở. Hướng về phía vòng tròn, một sinh vật lờ mờ, lưng gù, gớm guốc. Không đứa nào cục cựa. Con thú bước vào chỗ trống giữa hai đứa con gái, và Emma, với trái tim tọt lên tận cổ họng, đặt bàn tay lên đầu con thú. Olivia trố mắt nhìn Emma, á khẩu, cũng làm tương tự. Những đứa khác nhìn chết trân khi con thú cho phép hai đứa con gái luồn ngón tay vào mớ lông dài, cứng quèo của nó.Vòng tròn một lần nữa lại được khép kín. Không nói một lời, vòng tròn những đứa trẻ bắt đầu chuyển động, và con thú cùng di chuyển với chúng. Vòng quanh, vòng quanh nhà vua, vòng quanh, vòng quanh. Mắt Charlie gắn chặt vào thân cây sứt sẹo. Dòng nước mắt đỏ như máu chảy nhanh hơn; chúng tuôn chảy xuông đất ẩm ướt, và rồi trôi đi thành những dòng nước nhỏ, sáng lấp lánh. Những đứa trẻ bắt đầu vòng thứ hai. Lớp vỏ cây xám ngập chìm trong những dòng nước sậm màu và một cái hồ bắt đầu được hình thành ở dưới gốc cây. Vòng quanh, vòng quanh nhà vua, vòng quanh, vòng quanh. Chúng bắt đầu đi vòng thứ ba. Và lần này Charlie cố dứt ánh mắt ra khỏi dòng nước mắt kinh khủng. Chúng không dừng lại đâu, chúng sẽ vĩnh viễn không dừng lại, Charlie nghĩ, ngay cả khi vòng tròn trẻ đã ngập đầu gối trong hồ nước màu đỏ bầm. Nước mắt bây giờ chảy nhanh đến nỗi không khí rung động và những cành cây phải thở dài. Làn gió nhẹ bắt đầu trở nên hung bạo và quất vào mặt những đứa trẻ, rúc vào tóc chúng và thổi phồng áp quần mùa đông của chúng. Rồi một làn gió lạnh, thanh thoát, sung sướng mê ly nghe như khúc nhạc cổ xưa. “Nhìn kìa, Charlie! Nhìn kìa!” Billy hét lên. Charlie sợ quá không dám nhìn. Một hạt nước lạnh bắn vào mặt nó. “Nhìn kìa! Nhìn kìa! Nhìn kìa!” Những giọng khác hòa cùng giọng Billy. Charlie đưa mắt nhìn lại cái cây. Mưa đổ qua cành lá và chạy dọc xuống thân cây. Những vết sẹo sâu hoắm, được nước mắt rửa thành trong trẻo, giờ là một lớp nước sạch đóng băng trắng toát. Những bàn tay của bọn trẻ rớt thõng xuống hông. Chúng ngẩng đầu nhìn lên tàng cây và gió phủ đầy mặt nước một trận mưa lá vàng và đỏ. Vỏ cây được rửa sạch ánh lên màu xám của ngọc trai, trong khi gió mang bộ áo thụng mùa thu của nhà vua ra đi. Đám lá lướt bay trên không trung như những ngọn lửa nhảy múa, vượt khỏi những bức tường lâu đài, qua dòng sông, qua những ngôi nhà, khiến những đám mây đỏ và vàng che phủ toàn thành phố: những mái nhà, những vườn cây, những con hẻm và đường phố, ngay giữa mùa đông mà trải dày một lớp thảm lá mùa thu. Trong một căn hộ sang trọng của cửa hàng Vương Quốc, cô Amy Bone kinh hãi nhìn vào ngón tay mình. Cô mở tung cửa sổ, tháo chiếc nhẫn ngọc lục bảo ra và quăng nó lên trời. “Khôôông!” Tên thầy bùa rú lên. Nhưng một đám mây lá đỏ rực đã bay ùa vào phòng và quét hắn ra khỏi cửa sổ – như một trái banh màu xanh lá cây bị những lưỡi lửa đỏ rực liếm rụi. Cô Amy thở hổn hển trước cảnh tượng đó, vội đóng ập cửa sổ lại và hấp tấp rời khỏi cửa hàng. Tại nhà số 9 đường Filbert, bà Maisie Jones, với đầy đủ quần áo, ngồi bật dậy trong bồn tắm. Một con bướm có đôi cánh bạc đậu trên đầu gối bà. “Trời ơi!” Ngoại Maise nói với con bướm trắng. “Ai để cửa sổ mở thế này?” Bởi vì người bà phủ đầy những lá. Lá cũng tìm ra đường để vào Học viện Bloor. Nương theo những cơn gió hoang dại, chúng buộc cánh cửa đôi đồ sộ mở ra và tràn vào vào tiền sảnh. Chúng cuồn cuộn thốc lên những cầu thang cổ xưa, băng qua những hành lang, đập vào những bức tường, luồn qua những khe nứt và lướt xuống dưới những khe cửa. “Ngăn chúng lại! Ngăn chúng lại!” Lão Ezekiel rú lên khi cố đẩy cái xe lăn đi ngược dòng thủy triều lá. “Có chuyện gì xảy ra vậy?” Tiến sĩ Bloor hớt hải hỏi, nhìn vào con trai mình. “Làm sao tôi biết? Tốt hơn chúng ta ai ở đâu hãy ở yên đấy.” Manfred giật chiếc xe lăn của lão Ezekiel lại, đẩy lão vào thư phòng của tiến sĩ Bloor và khóa chốt cửa lại. “Giờ thì chúng đừng hòng bắt được chúng ta.” Rồi hắn xoa hai tay vào nhau cho đến khi những tia lửa tóe ra. Trên đỉnh Tháp Nhạc, thầy Pilgrim nhìn lá múa may như những đốm lửa bay bên ngoài cửa sổ phòng thầy. Những cái tên bất giác bật ra trong đầu thầy. Thầy cố ghi nhớ lấy chúng. Thầy cảm thấy mình đang bơi qua một dòng nước đen, sâu thật sâu. Thầy trông thấy một gương mặt. Và gương mặt đó trôi đi. Bên ngoài quán Cà Phê Thú Kiểng, những bậc phụ huynh và con cái họ đã tụ tập ngoài trời để ngắm dòng thác lá đỏ qua bầu trời. Ông Bartholodew Bloor đang định cùng gia đình ra về thì Charlie níu tay ông. “xin cảm ơn, ông Bloor,” nó nói, “chính câu thần chú trong những quyển sổ nhật kí của ông đã làm nên điều đó đấy.” “Điều gì, Charlie?” Nhà thám hiểm hỏi. “Tốt hơn cháu hãy đợi xem chuyện gì xảy ra đã rồi hẵng cảm ơn ta.” “Vâng ạ.Nhưng dù sao cũng chúc ông ngủ ngon.” Lần này đến lượt ông Bartholodew mỉm cười, “Chúc ngủ ngon, Charlie.” Khi ông sải bước đi khỏi, Naren quay đầu lại và vẫy tay với Charlie, “Ba không xấu đâu nhỉ,” cô bé nói. “Hẹn gặp lại anh, Charlie Bone!” Những gia đình khác cũng vội vã cáo từ, con cái họ vẫn còn đang hưng phấn, cha mẹ chúng hài lòng, nhưng họ nóng lòng mong cho cuộc sống mau trở lại bình thường. Một sứ mạng vừa được hoàn thành, một ước muốn vừa được thực hiện, nhưng cho đến khi Charlie Bone về nhà, vẫn chưa ai biết kết cục thế nào. Hứa hẹn sẽ gọi điện cho từng đứa bạn để báo tin lành hay tin dữ, Charlie và Ông cậu Paton lên đường về nhà số 9. Ngay khi nhìn thấy những ngọn nến thắp sáng ở bậu cửa sổ nhà bếp, họ biết đã diến ra một sự thay đổi. Nội Bone không đời nào lại chu đáo như thế. Charlie chạy ù lên những bậc cấp, Ông cậu nó sải bước ngay đằng sau. Họ thấy cô Amy và ngoại Maise đang thưởng thức tách trà ngon. “Con đi đâu vậy?” Mẹ Charlie ôm chặt lấy nó. “Con làm mẹ lo quá.” Nó không hỏi mẹ nó đi đâu. Nó biết mẹ không bao giờ có thể trả lời được. “Gặp lại mẹ con mừng quá,” nó thì thào. “Ta chả biết có gì xảy ra với thời tiết thế không biết.” ngoại Maisie chép miệng. “Nhưng ta cảm thấy khó chịu kinh khủng. Ở đây nóng quá đi.” “NÓNG gì mà nóng!” Nội Bone quát ra từ hành lang. “Lạnh thấu xương thấu tủy. Chết tiệt. Ai đó nói cho bà kia biết rằng bà ta điên rồi đi.” “Đừng có mơ, Grizelda,” Ông cậu Paton nói. “Tôi thì thấy trời như đang sôi lên đây này.” Nhà bếp rộ lên tiếng cười vui vẻ, trong khi nội Bone lạch bạch về phòng khách và đóng sầm cửa lại. Ngọai Maisie đã xoay xở làm xong một cái bánh xốp nhân mứt thật to – quả là một kì công đối với người mà mới một giờ trước thân nhiệt đã tụt xuống dưới điểm đông. Bốn người ngồi xuống dùng bữa trà gia đình y như thường lệ, và sau đó khi Ông cậu Paton phán đoán đã đến thời điểm thích hợp, ông cầm lấy bàn tay cô Amy và nói rất khẽ, “Amy, chúng tôi đã tìm ra chồng cô rồi.” “Lyell à?” Bàn tay cô Amy áp chặt vào tim. “Làm sao được?” Với sự giúp đỡ của Charlie, Ông cậu Paton kể cho cô nghe tất cả mọi điều mà ông nghĩ là cô nên biết. Lyell đã bị Manfred Bloor thôi miên ra sao, vào lúc quyền phép của hắn đang ở đỉnh điểm, thời hắn còn là một đứa trẻ. Và Charlie đã tìm thấy cha mình nhờ sự giúp đỡ của Gương Thần của Amoret như thế nào. Tên thầy bùa không được Charlie và Ông cậu Paton nhắc tới, và hiện tại, họ nghĩ tốt nhất cũng không nên nhắc lại việc ngoại Maisie bị đông cứng. “Anh ấy sẽ hồi tỉnh à?” Cô Amy hỏi. “Chúng ta sẽ làm gì?” “Tôi nghĩ anh ấy sắp hồi tỉnh rồi,” Ông cậu Paton nghiêm nghị. “Nhưng cần phải làm một số việc. Dẫu sao cũng mười năm rồi còn gì.” Cô Amy đứng lên, “Tôi phải đi tìm anh ấy, ngay bây giờ.” ‘Không được,” Ông cậu ngăn lại. “Chưa đâu. Lyell bị thôi miên vào lúc chuông điểm mười hai giờ. Chúng ta phải chờ cho đến gần nửa đêm. Đồng hồ nhà thờ lớn sẽ giúp chúng ta đánh thức anh ấy. Nhưng còn việc nữa,” ông quay sang Charlie và hỏi nhỏ, “Nước mắt nhà vua đâu?” “Con có đây,” Charlie nói. “Và cô Amy này,” Ông cậu Paton cầm bàn tay trái của cô. “Tôi yêu cầu cô đeo nhẫn của cô vào được không?” Cô Amy trợn tròn mắt nhìn vào bàn tay trống trơn của mình. “Làm thế nào lại tuột mất vậy?” Cô đâm bổ lên lầu. Vào lúc mười một giờ mười phút, nội Bone đang ngáy pho pho trước màn hình ti vi thì tiếng động trong hành lang đánh thức bà ta dậy. Bà thấy cô Amy và Charlie đi giày bốt và khoác áo ấm vào. Trời lại bắt đầu đổ tuyết. “Hai đứa bay đi đâu vào giờ này?” Nột Bone hỏi trịch thượng. Ông cậu Paton đi ra khỏi bếp và nói, “Chúng tôi đã tìm thấy con trai bà, Grizelda à.” Nội Bone thốt lên một tiếng kêu nghẹt ứ và nhìn chưng hửng vào Ông cậu Paton, khiếp vía. Miệng bà ta há xệ ra và bà bấu chặt lấy khung cửa. Ông cậu Paton đi lại gần nội Bone, “Bà giấu anh ấy khỏi chúng tôi rất khéo. Trò lừa quá ranh ma đã giữ anh ta ở ngay trước mũi chúng tôi. Hừ, bây giờ chúng tôi biết anh ấy ở đâu rồi, và cô Amy và Charlie sẽ đến để đưa anh ấy về nhà.” Nội Bone lùi lại và ngã phịch vào một cái ghế. “Thế à,” bà ta lẩm bẩm.