Một sự im lặng kéo dài, mãi rồi Billy mới thì thầm: “Em chỉ muốn được nhận làm con nuôi thôi. Như vậy là sai hả anh?” Charlie không trả lời. Ngày hôm sau, nhịp sống trở lại bình thường. Điều khác biệt duy nhất là hầu hết các giáo viên đều biết thông cảm hơn mọi thường. Họ giả đò lờ đi những cái ngáp và vài lỗi quên của Charlie. Thực ra thì nó đã ngủ gật trong giờ Ngữ Văn. Chỉ có thầy Paltry là vẫn nóng tính như thường lệ. Và rồi, vào giờ ăn trưa, Fidelio nhảy xổ đến chỗ Charlie, loan báo một tin hết sức động trời: anh trai Felix của nó đã đến, lấy cớ là để giao cây vĩ cầm vừa sửa xong, nhưng kỳ thực là để báo cho Fidelio hay những gì đang xảy ra ở thế giới bên ngoài. “Emma và cô Ingledew cứ khoá cửa, ở trong tiệm sách suốt,” Fidelio báo. “Hai dì cháu không cho ai vô. Gia đình Moon nện cửa ầm ầm, đòi Emma phải về với họ. Họ nói cuộn băng của tiến sĩ Tolly chẳng chứng minh được gì cả. Không có giấy tờ và chữ ký thì họ không tin Emma là con gái của nhà phát minh.” Charlie bật dậy. “Tức là sau những gì tụi mình đã làm, cô Ingledew vẫn không thể giữ Emma lại suốt đời hả?” “Có lẽ thế thật,” Fidelio buồn bã. “Trừ phi tìm thấy giấy tờ.” “Giấy tờ gì?” Charlie hỏi. “Em biết đó, những thứ giấy chứng minh xem em là ai. Đại loại như là giấy khai sinh, giấy nhận con nuôi vậy đó.” Charlie rên rỉ. “Cái bọn gia đình Bloor ấy, chúng nó có những loại giấy tờ đó mà, phải không? Em cá là bọn họ giấu ở đâu đó.” “Chắc chắn,” Fidelio tán thành. “Việc kế tiếp chúng ta phải làm là tìm cho ra những giấy tờ đó.” Charlie hình dung ra viễn cảnh khủng khiếp là một ngày kia nó bị bắt quả tang đang leo vô những gác mái tối hù, và bị cầm túc năm này qua năm khác. “Không dễ đâu,” nó làu bàu. Nhưng việc ấy đã diễn ra mà Fidelio và Charlie không phải làm gì cả. Có người khác đã làm thay chúng, theo một cách cực kỳ ấn tượng. Những tiếng nổ bắt đầu diễn ra trước khi đèn tắt một giờ. Tiếng nổ đầu tiên thật khó mà nghe thấy. Chiếc đèn lồng treo phía trên cổng chính nổ bụp một tiếng nhỏ, và những mảnh thuỷ tinh văng ra. Tiếng nổ kế tiếp lớn hơn. Một tấm kính cửa sổ của chái phía tây nứt ra và vỡ vụn xuống lớp sỏi trên khoảng sân gạch. Lũ trẻ bật ra khỏi giường, hoặc bươn ra từ các nhà tắm, quýnh quáng vứt cả khăn tắm và bàn chải, để xem chuyện gì đang xảy ra. Charlie mở cửa sổ trong phòng ngủ chung, mười hai cái đầu thò ra khỏi các bậu cửa sổ. Phía dưới, chúng thấy một người đàn ông cao lớn, khoác áo dài đen sẫm. Ông đeo bao tay đen, mang khăn quàng trắng, và mái tóc đen rậm rạp óng ánh như viên đá được đánh bóng. “Ôi chao!” “Ông ta là ai thế?” “Ông ta làm gì vậy?” Những tiếng xì xầm làm ong ong cả đầu Charlie. Nó thấy các cửa sổ khác cũng đã mở, lũ trẻ đang trao tráo dòm xuống sân. “Đó là Ông cậu của mình,” Charlie kiêu hãnh trả lời, kèm theo một nụ cười đắc ý. “Ông cậu của bồ?” “Ông ấy muốn gì?” “Ông ấy làm bể cái cửa sổ đó phải không?” “Ông ta làm bằng cách nào vậy?” “Trông ông ấy đâu có giống mấy thằng hay đi đập bể cửa sổ đó!” Lời bàn tán mỗi lúc mỗi rôm rả hơn, và tiếng bà giám thị từ hành lang, quát quàng quạc. “Đóng cửa sổ lại! Vô giường mau! Tắt đèn! Tắt đèn!” Một vài đứa vội vàng trở về giường, nhưng những đứa khác vẫn mải miết ngó người đàn ông dưới sân. Bây giờ ông đang chậm rãi bước thành những vòng nhỏ, và ngước lên nhìn bọn trẻ. Khi thấy Charlie, ông cười hết cỡ. Charlie nín thở. Nó cảm thấy có tiếng ngâm nga rất lạ, vốn luôn xuất hiện trước khi xảy ra sự cố bể bóng đèn. “Bloor!” Ông cậu Paton bất ngờ hét lớn. “Ông biết ta đến đây vì cái gì rồi đấy. Hãy cho ta vô.” Cánh cửa được trang trí bằng đinh tán đồng vẫn đóng im ỉm. Tiếng xì xào dứt hẳn. Tất cả mọi người nín thở chờ xem điều gì sẽ xảy ra.