Đến trước vách đá trên đỉnh núi, Kalinger thả tinh linh xuống, Sương vuốt ve lên vách đá nhám sì trong khi yêu cầu anh, “Ngài thợ săn tiền thưởng, xin ngài hãy hứa với tôi một điều.” Kalinger hỏi, “Đừng gọi tôi như thế, gọi tên của tôi dễ hơn mà?” Sương ngoái đầu nhìn anh rồi hỏi, “Xin lỗi… ngài tên là gì?” Kalinger dở khóc dở cười nhắc lại tên của mình, lần này Sương nghiêm túc nhẩm lẩm và lặp lại yêu cầu một lần nữa, “Ngài Kalinger, ngài hãy hứa với tôi, dù ngài nhìn thấy gì trong tháp cũng làm ơn hãy giữ bí mật.” “Đương nhiên rồi, thợ săn tiền thưởng đều rất kín tiếng.” – Kalinger hứa. Sương gật đầu yên tâm, niệm câu thần chú mở cổng, cánh cửa vào tháp Trụy Nguyệt xuất hiện trên vách đá như lần trước. Lần vào tháp này có thể cảm giác rõ ràng bầu không khí bên trong đã thay đổi, âm u và ẩm thấp hơn, cũng lạnh lẽo hơn, nói chung là càng không thích hợp để sinh sống. Sương dẫn Kalinger đi thẳng đến chiếc đĩa đá di động, Kalinger hỏi điều mà anh đã chắc chắn, “Có phải muốn xuống tận đáy tháp phải vượt qua hàng rào pháp thuật hay không?” Sương đáp, “Có rào bảo hộ thật, đơn giản là một mình ngài không thể vượt qua nhưng nếu đi cùng với tôi thì có thể, hàng rào chỉ mở ra với mình thầy Tịnh Hồ, người ngoài muốn vào phải được ông ấy dẫn đi cùng.” Lần di chuyển bằng đĩa di động lần trước vẫn có thể nhìn thấy rõ khung cảnh của từng tầng, nhưng lần này càng đi xuống sâu thì cảnh vật chung quanh càng nhòa dần đi, ranh giới giữa các tầng như bị bóng tối từ từ nuốt chửng. “Tôi từng thấy phòng thí nghiệm của ngài,” – Kalinger nói, “Có phải ngài bắt chúng về để thử nghiệm thuốc lần trước không?” “Vâng, nhưng tôi thật chậm chạp và dốt đặc, không tài ba như thầy Tĩnh Hồ.” Khi không gian hoàn toàn đen kịt cũng là lúc Sương và Kalinger đặt chân lên thềm đá, thềm đá ngăn cách hẳn với cầu thang nên chỉ dùng đĩa di động mới có thể tới. Hai người đi thêm đôi ba bước, khung cảnh lại biến đổi lần nãy. Lần này dưới chân họ không còn thềm đá trơn nhẵn nữa, mà là đường mòn gồ ghề được tạo nên từ đất sỏi. Hai người đi men theo con đường mòn, chẳng mấy chốc đã tới vách tường tinh thể khổng lồ. Kalinger vẫn cho rằng bản thân hiểu sâu biết rộng, nhưng cảnh tượng trước mắt vẫn làm anh choáng ngợp. Sương từ tốn quỳ xuống, gấu áo lấm bụi còn mái tóc vàng óng ả cũng rải rác trên đất đá, cậu áp vầng trán và hai tay lên vách tường tinh thể, bờ môi mấp máy thì thầm những từ ngữ không thành tiếng. Thoạt đầu Kalinger định dìu tinh linh dậy nhưng lại cảm thấy có lẽ rằng cậu đang niệm chú, anh bèn đứng yên một bên, không chạm vào cậu nữa. Bên trong mặt tinh thể, trong màn đêm tăm tối tù mù từ từ nổi lên một bóng hình nhạt nhòa, nó nhìn Sương từ xa và rồi mặt tinh thể rung lên bần bật, nó trườn đến trước mặt tinh linh và chỉ dừng lại khi cách tinh linh ở khoảng cách bằng một con người, rồi nó đuổi bắt theo từng cử động khi ngón tay Sương di chuyển. Khi thì nó lẩn sâu vào màn đêm, khi thì nó đập vào mặt tinh thể, như một con cá không thể thoát khỏi sự giam cầm của mặt nước. “Đấy là cái gì vậy?” – Kalinger lần tay xuống chuôi kiếm theo bản năng dù lý trí mách bảo anh rằng thứ này không hề sợ đao kiếm bình thường. Sương trả lời rằng, “Nó chính là ngọn nguồn của sự lây nhiễm.” “Hình như nó còn sống nhưng không phải hài cốt ác ma…” – Kalinger lại gần, chăm chú nhìn bóng hình đang bơi phía bên trong tinh thể, “Nó khá giống sinh vật của bóng tối, hoặc là một loại sinh vật dị giới mà tôi không biết. Dù ngài nói rằng nó là nguồn lây nhiễm nhưng không phải như thế là bất thường hay sao, một người sống không thể lây bệnh hút máu, một ác ma sống cũng không thể gây ra sự lây nhiễm.” Sương gật đầu, “Ngài hiểu biết nhiều thật, quả là thợ săn tiền thưởng không hề đơn giản.” Kalinger cười thừa nhận, “Nghe được lời khen của ngài cũng khó lắm.” Sương tiếp tục giải thích, “Ngài nói đúng, thông thường một ác ma sống không thể gây ra sự lây nhiễm. Nhưng trong phòng thí nghiệm của những học giả nghiên cứu về gọi hồn hay dị giới thì đôi khi lẽ thường cũng bị phá vỡ. Tuy họ không thể khiến một ác ma sống lây lan sự truyền nhiễm, nhưng họ có thể tạo ra nguyên tố Vực sâu có khả năng lây lan, biến nó trở thành một thứ có linh hồn.” “Ý ngài là…” Sương vuốt nhè nhẹ lên vách tinh thể, “Ngài Kalinger, như ngài thấy đấy, thứ mà tinh thể chứa đựng chính là một bầy nguyên tố Vực sâu khổng lồ, đánh nhẽ nó chỉ nên là những nguyên tố vô tri như nước hay lửa mà thôi, thế nhưng bản thân chúng lại tự có ý thức, có tính công kính, theo một khía cạnh nào đó thì nó tương tự như một ác ma sống, đồng thời nó cũng có thể lan truyền sự lây nhiễm cho khí hậu và sinh vật chung quanh.” “Nếu tôi đoán không nhầm, thì… có phải nó chính là thành quả nghiên cứu của thầy ngài không?” “Là nó, nó là thành quả nghiên cứu của thầy tôi,” – Sương thì thầm thêm, “Cũng là bản thân thầy Tĩnh Hồ.” Kalinger nhìn về vách tường tinh thể, khi mà thứ bóng hình mờ nhạt kia đến sát bên mặt tinh thể, anh thấy rõ hình dáng của nó – một vật thể mang hình dáng con người. Nó cao lớn gấp nhiều lần một nhân loại bình thường, nhưng không chắc chắn hay cô đặc bằng một quái vật, nó uốn lượn, vặn vẹo, giống như bóng của con người đang nhảy múa hắt trên tảng đá dưới ánh sáng rạp xiếc tạo thành những đường cong vặn xoắn kỳ dị hơn. Sương nhìn tinh thể và thuật lại câu chuyện về người thầy Tịnh Hồ của cậu cho Kalinger nghe. * Mấy trăm năm trước khi Tịnh Hồ đến ngọn núi này với mục đích tìm kiếm những cuốn sách cổ ghi chép về tàn tích chiến trường và di chỉ kiến trúc xa xưa. Những người dân bản địa vẫn truyền tai nhau rằng dưới chân núi có chôn một ác ma, kỳ thật nửa đúng và nửa sai. Dĩ nhiên câu chuyện “vua rồng ăn ác ma hóa thành núi” không có thật, thế nhưng ở đây từng có chiến trường từ ngày xửa ngày xưa và sâu dưới lòng đất chôn cất di cốt mà phần lớn thuộc về sinh vật từ dị giới là sự thật. Ở thời gian càng xa xôi về trước, để tưởng niệm và canh gác nên con người đã dựng lên một thần điện hình xoắn ốc dựng đứng cắm sâu vào trong núi. Tịnh Hồ sửa sang di tích cổ xưa thành phòng nghiên cứu, cư trú một thời gian dài, và lãng mạn đặt cho nó cái tên “tháp Trụy Nguyệt”. Lý do vì sao ông rời xa cố hương để sinh sống một mình thì Sương không biết, cậu chỉ từng đoán vì ông là tinh linh đến từ khu rừng phía tây nam, nơi ít tiếp xúc mới những nghiên cứu đen tối từ dị giới và linh hồn, cư dân ở đó khinh thường và xa lánh những kẻ theo đuổi chúng. Cuộc sống của pháp sư Tịnh Hồ cũng chẳng có gì đáng để kể, với người ngoài nghề thì đó là công việc ghi chép buồn tẻ. Tóm lại, tòa “tháp” và những máy móc trong tháp đều là tác phẩm của Tịnh Hồ, bao gồm cả bức tường kết tính khổng lồ này cũng được ông nghiên cứu tạo nên để đảm bảo an toàn khi nghiên cứu về nguyên tố của Vực sâu. Trong những năm tháng dài dằng dặc ấy, Tịnh Hồ và những cư dân cư ngụ dưới chân núi có một mối liên kết mỏng manh, trong ký ức của Sương thì Tịnh Hồ rất ít cười, nhưng mỗi lần nhận được thư hồi âm của cư dân sinh sống dưới chân núi đều làm ông phải cười nắc nẻ. Dù là thế thì khoảng cách giữa tinh linh và con người vẫn chưa bao giờ rút ngắn, Tịnh Hồ không muốn có tình cảm sâu đậm với con người, tinh linh, pháp sư hay hài cốt ác ma vẫn là những thứ ghê rợn với dân làng. Sương không nhớ mình đã ở bên cạnh Tịnh Hồ bao nhiêu năm, hẳn là dài hơn sinh mệnh của con người. Trước đây, Sương không tiếp xúc với thế giới bên ngoài chứ đừng nói đến việc thư từ với dân làng, chỉ đến mấy năm trở lại đây mới buộc phải liên lạc với họ. Vì thầy Tịnh Hồ biến mất. Trong một cuộc thí nghiệm thất bại, Tịnh Hồ chiết ra được nguyên tố Vực sâu song không thành công khống chế, dẫn đến kết cục là bị nó lây nhiễm. Nếu cứ để vậy, thân thể của Tịnh Hồ sẽ dần dần biến đổi, linh hồn tiêu tan, nhân tính biến mất khi cái chết ập đến và khi ấy ông sẽ trở thành một sinh vật Vực sâu hoàn chỉnh. Quá trình này không thể đảo ngược, chỉ có thể kéo dãn ra, nhưng Tịnh Hồ không nản chí hay sợ sệt, thậm chí ông còn hào hứng và phấn khích là đằng khác. Thay vì bỏ cuộc thì ông tiếp tục thí nghiệm mà vật thí nghiệm là chính bản thân ông ta, mẫu vật cuối cùng. “Vậy đây là thành quả đấy hử?” – Kalinger chăm chú quan sát bóng dáng bên trong tinh thể sau khi nghe xong câu chuyện, “Một đống nguyên tố dị giới có ý thức riêng là thứ mà ông ta muốn làm đấy hả? Rồi để làm gì?” Sương cười bẽn lẽn, “Tôi không biết, tôi không hiểu biết nhiều như thầy. Nhưng tôi hiểu rằng, muốn thay đổi hay tạo nên bất cứ thứ gì thì phải trải qua rất nhiều các thí nghiệm mà ban đầu không hề có kết quả, để rồi khi kế thừa, tiếp nối và phát triển mới thành công. Ví như trên thanh kiếm của ngài có chứa một loại phụ ma thần bí cao cấp tên là vũ khí nanh rồng, có lẽ trước kia khi các pháp sư mới nghiên cứu, họ mới chỉ viết được thần chú lên thép nóng và thậm chí câu thần chú ấy còn không hiệu quả, nhưng lúc ấy họ đâu biết trước được việc này mang lại lợi ích gì.” Kalinger gật gù tán thành, “Cũng đúng, nhưng thầy ngài đã biến đổi thành… ông ta vẫn muốn nghiên cứu ư? Dù ngài vẫn khẳng định là nó có tư duy nhưng theo tôi thấy thì nó chỉ là đống hỗn độn thôi, trí tuệ của nó chắc gì đã bằng một con quỷ hạ đẳng?” “À vâng, nó còn không thông minh bằng chó.” – Sương đáp. Kalinger lặng thinh mất mấy giây, “… ngài nhận xét thầy mình như thế thật đấy à?” “Vâng, là thế đấy, tuy nó là Tịnh Hồ, nhưng thực tế… Tịnh Hồ đã biến mất rồi.” “Ngài so sánh thứ đó với chó thật đấy hở?” “Tôi đã thực hiện các thí nghiệm tương tác cơ bản với nó, sau đó đối chiếu một vài chỉ số với các loài động vật và con người mà.” Sương trả lời nghiêm túc như không hề nhận ra trò đùa tinh tế trong lời nói của Kalinger. Lúc viết thư thì có thể nhả ra hàng tá các từ ngữ ‘kỳ diệu’, khi nói chuyện trực tiếp thì thật chân thành và mềm mỏng… làm Kalinger muốn bông đùa đôi câu để hòa tan đi bầu không khí nặng nề, nhưng cuối cùng chính Kalinger lại mang cảm giác tội lỗi. Ngoài chuyện đó ra thì Kalinger vẫn rất tò mò một chuyện: nếu trong tinh thể là “thành quả” của quá trình biến đổi Tịnh Hồ, bên ngoài tinh thể chính là thi thể của ông ta đang ngồi… Vậy rốt cuộc “Sương” là ai? Hoặc là thứ gì? Trong câu chuyện của Sương, Kalinger luôn mường tượng ra hai tinh linh giống hệt nhau, nhưng rõ ràng là không phải vậy. Sương hiện giờ là thi thể của Tịnh Hồ, vậy trước đấy Sương mang hình dạng gì? Sương tiết lộ nhiều bí mật của tháp Trụy Nguyệt nhưng không đả động đến danh tính của mình một lời nào. Chắc chắn không phải vì lãng quên, mà vì cậu ta cố ý lảng tránh hoặc lần chần. Những chấn động từ sâu bên trong tinh thể càng ngày dữ dội, cơn chấn động đã lan tràn cả ra mặt đất. Sương lại áp cả người lên mặt vách băng, thì thầm như trấn an bầy nguyên tố bên trong. Đến khi bóng dáng ấy lùi vào tận sâu và không còn đập vào bề mặt bức tường nữa, Sương mới bám vào vách tinh thể từ từ đứng dậy, tập tễnh trở về con đường mòn và ngồi lên sườn dốc, Kalinger cũng đi theo, cầm kiếm và khoanh tay trước mặt tinh linh. Sương tiếp tục kể, “Thầy Tĩnh Hồ đã lường trước được kết quả ngày hôm nay. Bầy nguyên tố này sinh ra trong phòng thí nghiệm, là một tác phẩm quá ưu việt, nó nguy hiểm hơn mọi đồ vật của Dị giới. Nếu không khống chế được nó thì không chỉ động vật của khu rừng bị lây nhiễm, mà làng Cây Đen dưới núi hay thậm chí cả những thành thị ở xa hơn cũng chung số phận. Nên thầy đã chuẩn bị sẵn phương án để đối phó với nó, đó là để tôi thực hiện, chỉ cần tôi lần lượt làm theo các bước mà thầy đã chỉ dẫn là có thể diệt trừ nó tận gốc.” “Diệt trừ bằng cách nào?” – Kalinger hỏi. “Giống cách mà ngài biết, giết hết các cá thể bị nhiễm.” “Giết được nguyên tố ư?” Sương đáp, “Tôi hiểu những thắc mắc của ngài. Nguyên tố không phải ác ma nên không thể giết chết, chỉ có thể phong ấn, tống khứ hoặc để nó tự tan biến. Nhưng bầy nguyên tố này thì khác, nó chứa linh hồn của thầy Tịnh Hồ nên nó là một vật sống.” “Vậy giết thế nào? Đừng bảo tôi là phá tinh thể thả nó ra đấy nhé?” Sương lắc đầu, “Không thể được, khi thầy tinh luyên nguyên tố đã sử dụng toàn bộ hài cốt ác ma của chiến trường cổ xưa, nên thứ mà đứng trước mặt chúng ta quá khủng khiếp… Ngài Kalinger, ngài biết hệ thống cây sức mạnh của sinh vật Vực sâu chứ?” Kalinger thẳng thắn trả lời, “Số ác ma tôi từng giết đâu chỉ một con.” Sương tiếp lời, “Vậy ví dụ một cách trực quan thì… sức mạnh của bầy nguyên tố này tương đương với một chúa quỷ. Nếu ngài hiểu về các sinh vật Vực sâu thì hẳn ngài cũng hiểu rằng đó không phải thứ mà một vài thợ săn tiền thưởng hay pháp sư có thể đối phó.” Kalinger chậm chạp gật đầu. Cách lớp tinh thể, anh không thể cảm nhận chính xác sức mạnh của thứ đó. Anh biết nhiều về chúng nên nếu những điều Sương nói là thật, thì để tiêu diệt một sinh vật Vực sâu tầm cỡ chúa quỷ cần tối thiểu một đội ngũ từ binh đoàn kỵ sĩ kết hợp với những vị pháp sư tối thượng bí ẩn… nhưng ngay cả khi dành chiến thắng thì thương vong cũng rất nặng nề. “Nhưng cũng không cần quá lo lắng đâu, thưa ngài,” – Sương mỉm cười, “Nó được thầy tạo ra nên thầy ắt có cách tiêu diệt nó. Trong mấy năm này, tôi luôn làm theo các bước chỉ dẫn được thầy để lại, tôi có thể làm bầy nguyên tố này yếu đi và đến một thời điểm thích hợp là có thể vô hiệu hóa nó. Hiện giờ, phép thuật đã sắp được chuẩn bị xong, mối tai họa này sắp qua rồi.” “Phép thuật gì?” – Kalinger hỏi. Sương trả lời với vẻ khó xử, “Tôi cũng không giải thích được… vì tôi không thông minh cho lắm, tôi chỉ biết làm theo lời thầy thôi.” Cậu vẫn không thích đối diện với người khác, và lúc này khi ngẩng đầu, đôi mắt cậu sa nhẹ vào ánh mắt Kalinger nên vội vàng lảng đi. “Ngài không tin phải không?” – Sương thì thầm hỏi, “Nếu ngài biết một pháp sư nào khác, ngài có thể nói với họ, họ sẽ hiểu, còn học đồ thì không phải ai cũng thông hiểu những gì người thầy của họ nghiên cứu, nhưng dù không hiểu thì họ vẫn có thể chấp hành các chỉ dẫn mà.” Kalinger càng thắc mắc, “Điều đó được viết trong bút ký của Tịnh Hồ à?” Sương đáp, “Vâng, tất cả đều được viết trong bút ký mà thầy để lại cho nhân loại, cũng vì vậy nên thầy mới không do dự hủy diệt thí nghiệm thành công đầu tiên của mình. Tương lai sẽ có người tiếp nối những nghiên cứu này trong điều kiện an toàn hơn. Bút ký của thầy ở thư phòng, nếu ngài muốn thì có thể đọc.” Kalinger nghĩ bụng – ghi chép nghiên cứu của pháp sư mấy người toàn viết bằng ngôn ngữ thần bí, tôi hiểu thế quái nào được… Sương cứ quả quyết rằng cậu ta không hiểu những ghi chép của Tịnh Hồ, và chẳng ai kiểm chứng được điều đó có phải sự thật hay không, hay chỉ vì cậu ta biết chắc rằng những người khác cũng không thể hiểu nổi nội dung của chúng. Sương vẫn tiếp tục nói, “Hôm nay, vào lúc mặt trời lặn, tôi muốn khởi động phép thuật cuối cùng, nhưng trước đó tôi phải xử lý nốt một số việc. Nếu ngài vẫn muốn giúp đỡ thì thật lòng tôi muốn nhờ cậy ngài một việc, có thể không?” Kalinger thoải mái đáp ứng, “Được chứ, ngài cứ nói đi.” “Đầu tiên là về các sinh vật bị lây nhiễm,” – Sương nói, “Để tập trung làm phép nên tôi sẽ phải rút hết pháp thuật bảo vệ trên ngọn núi và liên kết phép thuật với các golem, tôi chỉ có thể để lại ánh sáng ma pháp trong rừng ở mức thấp nhất thôi. Nhưng như thế thì các cá thể nhiễm bệnh còn sót lại sẽ tràn xuống chân núi, tôi đã từng phái golem lùng sục cả ngọn núi nhưng tôi vẫn lo có những con lọt lưới ẩn nấp ngoài kia. Nên tôi hy vọng ngài có thể giúp tôi lục soát và tiêu diệt những con còn sống.” Kalinger đáp ứng, “Đây là chức trách của tôi, dù ngài không yêu cầu thì đằng nào tôi cũng thực hiện. Nhưng… ngài nói muốn càn quét cả ngọn núi ư? Ngài có biết ngọn núi này rộng thế nào không đấy?” Sương gật đầu hiểu chứ, cậu lấy một chiếc túi nhung nho nhỏ từ trong áo choàng đưa cho Kalinger. Trong chiếc túi chứa mấy viên thuốc màu trắng đục, giống loại mà Sương từng đưa anh, khác là lần này hình dáng chúng không đồng đều như lần trước, có viên to có viên nhỏ, có viên tròn trịa có viên lại méo mó, giống như vội vàng chế tạo. Sương giải thích, “Ngài cầm theo nó vào rừng, nhỏ vài giọt máu lên và bóp vụn rồi bôi lên người hoặc vũ khí, máu con gì cũng được, hoặc lát nữa ngài ghé qua phòng thí nghiệm tìm các lọ có dán nhãn trắng trên kệ, chúng chứa máu và đều dùng được. Trước khi ra ngoài, ngài hãy lấy gậy phát sáng, đèn có thể bị tắt nên dùng nó thuận tiện hơn.” “Ngài chu đáo thật đấy.” – Kalinger gật đầu, nhận chiếc túi nhung. Sương lặng im suy nghĩ một lúc mới ngẩng đầu, tự dưng cậu có can đảm đối diện với người này. Cậu nói với Kalinger, “Ngoài ra, tôi còn một việc muốn nhờ ngài.” “Cứ nói đi, đừng ngại.” “Tôi muốn nhờ ngài đến Liên đoàn OFFA, tôi không biết họ ở đâu vì tôi chưa từng đến. Nhưng tôi muốn nhờ ngài tìm họ, thuật lại sự tình trong tháp Trụy Nguyệt và dẫn họ tới đây. Sau khi dọn dẹp ngọn núi xong, ngài đừng quay trở lại đây, hãy xuống núi và khởi hành ngay, vì tôi mong rằng ngài có thể nhanh chóng lên đường.” Nghe yêu cầu phó thác lạ lùng này, Kalinger tò mò hỏi, “Vì sao phải tìm Liên đoàn OFFA?” Sương đáp, “Vì thầy ghi lại như vậy, những cuốn sách trong tháp Trụy Nguyệt không chỉ chứa đựng chi tiết các cuộc thí nghiệm mà còn nhiều thành quả quý giá khác mà thầy để lại. Thầy dặn tôi phải bảo vệ những cuốn sách và chi chép của người, rằng trên thế gian sẽ có người tìm đến di tích và mang những thành quả nghiên cứu ấy đến tay những người hiểu biết chúng. Một mình tôi không thể mang nhiều sách đến vậy, và tôi chỉ là một học đồ, tôi cần những pháp sư giàu kinh nghiệm đến hỗ trợ tôi phân loại chúng.” Kalinger chưa đáp ứng, anh nhíu mày nhìn Sương đăm chiêu làm cậu áy náy gục đầu xuống lần nữa. Thấy Kalinger cứ lầm lì không nói, Sương nhỏ nhẹ hỏi, “Ngài… có thể giúp tôi việc này chứ?” “Được thì được, nhưng mà…” – Kalinger vuốt cằm, “Tôi nhận công việc là tiêu diệt ác ma, lãnh chúa sẽ trả tiền khi tôi hoàn thành nó, còn truyền tin không nằm trong nhiệm vụ của tôi. Tôi là thợ săn tiền thưởng mà, ngài phải trả thù lao mới được.” “Vậy, ngài muốn bao nhiêu? Hay món đồ gì? Miễn là tôi có đủ khả năng?” “Chà, rẻ thôi.” – Kalinger đáp, “Tôi muốn biết ngài là gì, tôi muốn ngài cho tôi biết mà không tránh né hay che giấu, Sương là ai, ngài là ai?” Sương vẫn loanh quanh trốn tránh chủ đề này, nhưng nghe cái giá được Kalinger đề nghị thì thay vì lo lắng, cậu lại tỏ ra nhẹ nhõm. “Giờ thì chưa được,” – cậu mỉm cười nhỏ nhẹ đáp ứng, “Khi nào ngài đưa các pháp sư trở lại đây, tôi sẽ tiết lộ cho ngài biết, được chứ?” Kalinger hỏi, “Lúc đó tôi sẽ biết thật chứ?” “Ngài sẽ biết.” “Được rồi,” – Kalinger đến gần Sương, “Tôi tạm thời tin ngài một thời gian và nhận thù lao sau vậy.” “Giờ thì đi thôi, tôi đưa ngài ra ngoài tháp…” – trước khi Sương kịp nói dứt đã bị Kalinger đột ngột vươn tay ra, cậu giật mình khi bị thợ săn bế bổng lên. Đi lại thật sự quá vất vả nên Sương yên lặng chấp nhận ý tốt của thợ săn. Họ tới phòng thí nghiệm lấy bình máu và gậy phát sáng, sau đó Kalinger sẽ ra ngoài để thực hiện công việc dọn dẹp cánh rừng của mình. Cánh cửa tháp Trụy Nguyệt được mở ra lần nữa và ánh mặt trời nhảy nhót trên chân hai người. Kalinger thả Sương đứng xuống, cậu tựa người vào cánh cửa. Sương dặn, “Lần này tôi sẽ để cửa tháp mở để ngài có thể trở về và nghỉ ngơi bất cứ lúc nào trong cuộc đi săn. Vào lúc hoàng hôn, tôi sẽ khởi động pháp thuật và đóng cửa tháp hoàn toàn. Vào thời điểm đó, nếu ngài còn trong tháp thì hãy rời đi ngay, nếu ngài ở ngoài tháp thì đừng trở về. Những người không liên quan xuất hiện trong tháp sẽ ảnh hưởng đến quá trình làm phép, câu thần chú sẽ thất bại. Đây không phải trò đùa nên ngài hãy nghiêm túc thực hiện nó.” Kalinger đáp, “Tôi biết rồi, sau đó tôi sẽ thực hiện yêu cầu thứ hai của ngài.” “Vâng, chính xác là vậy.” – Sương mỉm cười gật đầu. ________ P/s 1: Sau nhiều lần băn khoăn thì hiện tại mình sẽ đổi “làng Hắc Thụ” thành “làng Cây Đen” cho hợp với bối cảnh trong truyện:)) còn tháp Trụy Nguyệt thì vẫn giữ nguyên vì đây là tên do Tịnh Hồ đặt – mình nghĩ ông đặt như thế 1 phần vì nhớ quê hương nên mình sẽ để nguyên. Mình sẽ sửa lại ở các chương trước cho đồng bộ, yên tâm là mấy chương sau chả còn mấy lần nhắc lại ngôi làng đáng iu này nữa đâu:)) P/s 2: Mấy ngày nghỉ dịch mình ở nhà và lười đến mức độ phải ngồi dậy edit, mình phát hiện thì ra lười cũng có giới hạn. Chắc sau khi edit cuốn này và tình hình dịch bệnh chấm dứt cũng là lúc mình quay trở lại công việc, và lúc đó chắc lại thèm lười và chẳng còn dư thời gian lười để edit nữa, nhưng nói chung thì đào hố rồi thì vẫn sẽ cố lấp thôi. Cũng trong thời gian này mình nhận ra trình độ edit của mình hơi ẹ, có thể do thời gian edit của mình không liền mạch làm mình bị lụt nghề, hoặc do mình bị ì, hoặc do mình lười động não quá… nói chung là dạo này mình thấy mình không edit hay như trước, hoặc thực tế thì từ trước đến giờ mình vẫn edit như hạch, khác ở chỗ trước hạch nhiều, giờ thì đã đỡ thôi:)) nói chung mình tự thấy chán mình quá:(( P/s 3: Lúc edit trong chương này thì mình nhận ra mình ăn bớt chữ của tác giả quá thể đáng, raw 5k9 mà bị mình rút gọn còn có 4k, trong 5 ngày:)) em rất xin lỗi tác giả:)) Tâm hự vậy thôi, mình sẽ tự thưởng cho bản thân vì đã chăm chỉ edit bằng mấy ngày cày phim hí hí. Chỉ còn 5 chap nữa hoy, mọi người đón đọc nhé. Thưn!.