01. Trong tiệc cưới Đông Hoa không xuất hiện. Chín ngày sau tiệc cưới, Đông Hoa vẫn không xuất hiện. Trong chín ngày đó, bản thân mình đã làm những gì, đã nói những gì, Phượng Cửu cảm thấy, lúc này nhớ lại, ấn tượng vẫn vô cùng mờ nhạt. Chỉ còn nhớ rằng ngày mùng bốn tháng ba hôm đó quả là một ngày tốt, ánh nắng vô cùng ấm áp, làm cảnh sắc Bích Hải Thương Linh càng thêm đẹp đẽ, khiến chư vị tiên giả tới dự tiệc ai nấy đều hết lời khen ngợi. Mặc dù là tiệc cưới làm bù nhưng Trọng Lâm và mẫu thân của nàng đều vô cùng coi trọng, những lễ tiết phức tạp cần thiết trong lễ thành hôn, trừ việc bái thiên địa ra, tất cả đều được sắp xếp đầy đủ. Sau khi nàng được trang điểm kỹ càng, khi mẫu thân của nàng chân thành nói với nàng những quy tắc lễ nghi đó, mặc dù cảm thấy có chút phiền phức nhưng trong lòng nàng thực ra vừa hiếu kỳ lại vừa chờ đợi. Chư vị thần tiên trong bát hoang đều đến sớm dự tiệc, ngay cả Thiên Quân, người thường ngày hay thích ra vẻ cũng đến sát giờ, giờ lành đang từng khắc từng khắc đến gần, nhưng vẫn không thấy bóng dáng Đông Hoa đâu. Nàng cuối cùng có phần lo lắng, mới nhớ ra đêm qua, trước khi đi Đế Quân đã nói sẽ đến sau, chàng không nói cụ thể đến sau là đến vào lúc nào. Có thể chàng không về kịp lành rồi, nàng nghĩ, trong lòng bỗng có chút hụt hẫng. Nhưng suy nghĩ lại, lại cảm thấy liệu có phải bản thân mình hơi hẹp hòi không, mặc dù bữa tiệc thành hôn này vô cùng quan trọng, nhưng Tiểu Yến nói tính mạng Cơ Hoành như chỉ mành treo chuông, mặc dù Đế Quân đêm hôm đó đã nói chỉ đến thăm nàng ta một chút thôi, nhưng khi tới trước giường bệnh của nàng ta, chưa biết chừng cũng có chút thương cảm, lại muốn ở bên nàng ta thêm chút nữa, giúp nàng ta hoàn thành tâm nguyện cuối cùng trong đời. Dù sao thì người đã khuất nên được tôn trọng, nếu quả thực như vậy, Đế Quân không về kịp giờ lành thì thôi vậy, nàng còn tranh giành gì với một người sắp chết nữa. Khi nàng vừa suy nghĩ thông suốt về chuyện này, lại gặp Trọng lâm vội vàng đi tới. Sắc mặt của vị tiên quan tháo vát nhất cung Thái Thần lúc này lại không được tốt lắm, Trọng Lâm cụp mắt xuống, nói với nàng: “Đến giờ vẫn chưa thấy bóng dáng Đế Quân đâu cả, chắc chắn đã có việc gì đó rất quan trọng, lượng thứ cho thần to gan, nếu Đế Quân hôm nay không thể xuất hiện, thần xin ý chỉ của điện hạ, có nên bỏ hết các lễ tiết của tiệc thành hôn đi, biến bữa tiệc này thành yến tiệc thông thường không?”. Lời đề nghị này của Trọng Lâm hoàn toàn là vì thể diện của nàng, hôm trước khi phát thiệp mời đã nói rõ bữa tiệc này là tiệc cưới bù, tiệc cưới bù cần phải như thế nào, may mà chư vị thần tiên đều không hay biết, tổ chức thành một yến tiệc thông thường cũng coi như không có gì đường đột. Kiểu yến tiệc thông thường mượn cớ gì đó để chư vị tiên giả tới tụ họp uống rượu, Đế Quân không xuất hiện cũng không có vấn đề gì, các bậc tiên giả trưởng bối đều biết rằng Đế Quân xưa nay không thích các buổi yến tiệc, trước khi thoái ẩn, những bữa tiệc mừng công do chính ngài tổ chức nhưng ngài không xuất hiện cũng có nhiều rồi. Nhưng nếu như theo mọi sự sắp đặt của Trọng Lâm và mẫu thân của nàng trước đó, bữa tiệc này là một bữa tiệc cưới chính thống, Đế Quân không xuất hiện, lại khiến vị Đế Hậu mới đăng cơ là nàng bị mất mặt trước chư vị thần tiên của bát hoang. Trọng Lâm có thể nghĩ cho nàng chuyện đó, nàng rất cảm kích. Trọng Lâm nhìn thần sắc của nàng, đắn đo hồi lâu, nói: “Đế Quân rất coi trọng bữa tiệc này, nếu hôm nay không về kịp, nhất định là đã gặp chuyện lớn, tuyệt đối không phải là Đế Quân không nghĩ tới điện hạ, thần bạo gan nói một câu, Đế Quân đã giao bữa tiệc này cho thần, tức là đã tin tưởng rằng dù có xảy ra biến cố gì, thần luôn có thể bảo vệ cho điện hạ”. Nàng mỉm cười, khẽ nói: “Đúng vậy”. Khi giờ lành trôi qua, trong lòng nàng giống như được giải thoát. Nàng mặc dù dự đoán rằng chàng có thể sẽ không về kịp giờ lành, nhưng chung quy vẫn có một tia hy vọng. Đế Quân là do nàng đã mong mỏi chờ hơn hai nghìn năm, khó khăn lắm mới có được, có thể làm Đế Hậu của chàng, nàng đã vô cùng mãn nguyện rồi, nàng thực ra không coi trọng những lễ nghi đó như những tân nương khác, nhưng cả đời chỉ có duy nhất một lần xuất giá như vậy, vẫn không tránh khỏi việc mong ước nó hoàn hảo một chút. Còn chưa tới giờ lành, khát vọng thầm kín đó trong lòng nàng vẫn chưa thể tiêu tan. Lúc này mặc dù có chút thất vọng, nhưng cũng đã bình tĩnh hơn nhiều. Bên trong đại điện cách đó một hành lang, tiếng cười nói trong yến tiệc loáng thoáng vọng tới, nàng dỏng tai lên chăm chú lắng nghe một lát, cảm thấy trong điện chắc chắn đang rất náo nhiệt. Náo nhiệt như vậy, không hiểu sao nàng lại cảm thấy có chút cô đơn. Nàng cầm chén lên, tự rót cho mình một ly trà đặc, nhấp từng ngụm từng ngụm nhỏ. Buổi tiệc diễn ra được một nửa, mẫu thân và lão lão của nàng bỗng xuất hiện trước cửa phòng, Phục Mịch tiên mẫu – lão lão của nàng lo lắng ngồi trước mặt nàng: “Cửu Nhi, con hãy nói thật cho ta nghe, một ngày quan trọng như hôm nay sao Đế Quân lại không đến, có phải con và ngài ấy đã..”. Nàng vẫn nhấp từng ngụm từng ngụm trà nhỏ, mỉm cười an ủi lão lão: “Đế Quân quả là có một việc vô cùng quan trọng, trước khi đi đã dặn con, nếu chàng không về kịp thì hãy giao mọi việc cho Trọng Lâm tiên quan, lão lão xem, Trọng Lâm tiên quan chẳng phải đã ứng phó rất thỏa đáng hay sao?”. Đế Quân đương nhiên chưa từng nói với nàng như vậy, nhưng nếu nói thật với mẫu thân và lão lão, nàng biết bọn họ chắc chắn sẽ không đồng ý. Lão lão và mẫu thân của nàng cuối cùng cũng yên tâm. Buổi đại tiệc này, chư vị tiên giả đều được uống thỏa thích, những người đầu óc còn tỉnh táo đã cáo từ ra về ngay trong ngày, còn một vài vị tiên giả ham uống rượu vì uống quá say, đã nghỉ lại một ngày trong phòng khách của cung điện bằng đá, đến ngày hôm sau cũng lần lượt cáo từ. Bích Hải Thương Linh lại trở về với trạng thái tĩnh mịch. Người nhà họ Bạch ở lại hai ngày rồi cũng trở về Thanh Khâu, duy có Trọng Lâm và nàng ở lại nơi này. Thực ra trong lòng nàng cũng có đôi chút ấm ức, trong hai ngày đầu, không tránh khỏi việc thi thoảng suy nghĩ xem tại sao Đế Quân lại lỡ hẹn lâu như vậy, cho dù là hoàn thành tâm nguyện của Cơ Hoành cũng không cần lâu như vậy, nếu thật sự thương xót Cơ Hoành, muốn ở lại bên nàng ta lâu hơn một chút, tại sao không sai người quay về thông báo một tiếng. Nửa đêm ngày thứ ba, nàng bỗng nhiên giật mình tỉnh dậy khỏi một cơn ác mộng. Thực ra nàng hoàn toàn không nhớ nổi mình đã mơ thấy gì, chỉ bỗng nhiên nghĩ tới việc đã mấy ngày liền không có tin tức của Đế Quân, liệu có phải đã có chuyện gì xảy ra với chàng không? Sắc mặt nàng trở nên trắng nhợt, nửa đêm khuya khoắt gấp gáp cho gọi Trọng Lâm tới, lập cà lập cập nói rõ nghi hoặc của mình. Nhưng mặc dù nàng biết Đế Quân tới chỗ Cơ Hoành, đêm hôm đó nàng lại quên không hỏi Cơ Hoành ở đâu. Trong lòng nàng lại càng hoảng hốt, giục Trọng Lâm cùng nàng rời khỏi Bích Hải Thương Linh ngay trong đêm, một người đi về phía Tây Nam tìm Tiểu Yến, một người đi về phía Đông Nam tìm Hú Dương – ca ca của Cơ Hoành. Ba ngày sau hai người gặp lại ở Bích Hải Thương Linh, vì liên tục đi gấp nhiều ngày, gương mặt ai nấy đều nhuốm gió sương. Khi nàng tới địa bàn của Thanh chi Ma tộc, nói rõ lý do viếng thăm, một Ma sứ rất điềm tĩnh ở đó cau mày thở ngắn than dài với nàng, Ma quân của bọn họ đã gần một năm nay chưa từng về tộc, bọn họ cũng không biết phải tìm Ma quân ở đâu, nếu khi nào nàng nhìn thấy ngài ấy, cũng mong nàng chuyển lời tới Ma quân, bảo ngài ấy mau chóng quay về một chuyến, ơn chuyển lời nhắn nhủ của nàng, Thanh chi Ma tộc nhất định sẽ khắc ghi. Còn khi Trọng Lâm tới Xích chi Ma tộc, Hú Dương nói, ba trăm năm trước, khi muội muội của chàng ta bỏ trốn cùng tiểu thị vệ Mẫn Tô, Xích chi Ma tộc đã đuổi nàng ta đi, từ đó về sau Cơ Hoành không có mối liên hệ gì với Xích chi Ma tộc nữa, giờ nàng ấy ở đâu, bộ tộc bọn họ quả thực không thể biết được. Đế Quân đang ở đâu, lúc này lại hoàn toàn không chút manh mối, nàng loạng choạng một bước tựa như muốn ngã, Trọng Lâm vội vàng đỡ lấy nàng. Trong lúc đầu óc quay cuồng lại thấy mấy đám mây lành bỗng nhiên xuất hiện, trên hai đám mây lành phía trước là gia gia, nãi nãi (bà nội) của nàng, trên hai đám mây phía sau là song thân của nàng. Ánh mắt của Bạch Chỉ Đế Quân – gia gia của nàng cuộn trào nộ khí tột đỉnh, khi nhìn thấy nàng, vẻ tức giận đó đã mang thêm một chút thương xót, hồi lâu, gia gia của nàng nói: “Phu quân của con, rốt cuộc là đang ở đâu?”. Nàng cố gắng tỏ ra điềm tĩnh, nói: “Chàng có một việc rất quan trọng…”. Bạch Chỉ Đế Quân nổi giận cắt ngang lời nàng: “Cái gọi là chuyện quan trọng chính là bỏ rơi con trong tiệc thành hôn, rồi đi dây dưa lằng nhằng với Cơ Hoành của Xích chi Ma tộc ư?”. Mấy ngày nay tâm tư của nàng quả thực rất hỗn loạn, nhưng nàng nghĩ họ đã là phu thê, nàng cần phải tin tưởng chàng, biện hộ cho chàng theo bản năng, nói: “Sao gia gia lại nói dây dưa lằng nhằng, việc này con cũng biết, tính mệnh của Cơ Hoành như chỉ mành treo chuông, Đế Quân chỉ là thương xót nàng ấy mà tới nhìn mặt nàng ấy lần cuối cùng, chúng ta là thần tiên, cũng cần có lòng thương xót với người sắp ra đi chứ ạ”. Bạch Chỉ Đế Quân cười nhạt: “Nhìn mặt lần cuối cùng? Tại sao ta lại nghe nói rằng sáng sớm hôm nay hắn bế Cơ Hoành uy phong lẫm liệt xông vào cung Đan Linh của Xích chi Ma tộc, ra mặt cho Cơ Hoành trước mặt Hú Dương, lấy gương Diệu Hoa của Đệ Thất Thiên làm vật trao đổi, cưỡng ép Xích chi Ma tộc phải đón vị công chúa đã bị đuổi khỏi dòng tộc quay trở lại? Nghe nói lúc đó vị công chúa ấy yếu ớt nằm trong lòng của hắn, chẳng có vẻ gì là gặp nguy hiểm tới tính mạng cả!” Đầu óc nàng bỗng nổ tung. Bạch Chỉ Đế Quân lắc đầu thở dài, nói: “May mà Xích chi Ma tộc phong tỏa thông tin, rất ít người biết được chuyện này, nếu không, thông tin nếu được lan truyền vào tai chư tiên trong bát hoang, thể diện của nhà họ Bạch chúng ta biết để vào đâu?”. Nhìn nàng, lại nói: “Thực ra chuyện thể diện cũng không phải là vô cùng quan trọng, chỉ là Đông Hoa đã phụ con như vậy, gia gia phải nhẫn nhịn như thế nào đây?”. Khuôn mặt nàng trở nên trắng bệch, không còn một chút sắc máu, hồi lâu mới nói: “Con muốn nghe xem Đế Quân nói thế nào”. Bạch Chỉ Đế Quân còn muốn nói thêm, nhưng đã bị nãi nãi của nàng đưa tay ngăn lại, nãi nãi dịu giọng khuyên nhủ nàng: “Con hãy cùng chúng ta quay về Thanh Khâu nghỉ ngơi trước đã, nếu Đông Hoa có lòng, sẽ tự đến Thanh Khâu tìm con”. Nàng bước đến bên cạnh nãi nãi như người mộng du, lại quay nhìn Trọng Lâm như người mộng du, giọng nói phiêu diêu: “Từ Bích Hải Thương Linh tới Xích chi Ma tộc cần mất một ngày, từ Xích chỉ Ma tộc tới Thanh Khâu mất một ngày, ngươi hãy nói với Đế Quân, ta đợi chàng hai ngày”. Nhà họ Bạch từ trên xuống dưới đều đến để cướp người, Trọng Lâm tự biết không thể ngăn cản được, đành phải khẽ vâng một tiếng. Hai ngày ở Thanh Khâu đó, nàng ở trong trạng thái mông mông lung lung, phần lớn thời gian ngồi ngây người trong phòng. Phụ thân của nàng thở ngắn than dài, thì thầm với mẫu thân của nàng rằng không thể chịu được khi nàng trở nên lặng lẽ như vậy, khi nàng hoạt bát chạy nhảy lung tung mặc dù khiến ngài tức đến nỗi nổ đom đóm mắt nhưng bây giờ ngài lại rất nhớ dáng vẻ của nàng trước đây. Mẫu thân của nàng lại đưa tay áo lên lau nước mắt. Thực ra nàng không muốn làm song thân lo lắng, nàng chỉ là đang chờ đợi một kết quả, trước khi có kết quả, nàng nhìn bất cứ thứ gì cũng có phần uể oải. Trong giấc mộng của A Lan Nhược, ở Bích Hải Thương Linh, nàng cảm thấy Đế Quân đối với nàng không phải là giả dối, nhưng tại sao chàng lại không tới tìm nàng, chàng không lo lắng cho nàng ư, nàng không thể hiểu được. Nàng suy nghĩ nhiều, đôi khi lại cảm thấy đau đầu, tựa như có dùi nhọn xuyên thẳng vào đỉnh đầu vậy, từng cơn từng cơn đau đớn một cách đáng sợ. Mỗi lần cơn đau qua đi, lại có một vài đoạn ký ức khó hiểu hiện lên trong đầu. Ví dụ như nàng vốn dĩ nhớ rằng khi nàng bị rơi vào trong giấc mộng của A Lan Nhược, Đế Quân lao tới cứu nàng, khi nàng tỉnh lại Đế Quân đã nói rất nhiều lời ngọt ngào để dỗ dành nàng, nói rằng năm xưa khi nàng còn là tiểu hồ ly, chàng không nhận ra nàng nên mới khiến nàng phải chịu nhiều ấm ức như vậy, đó là lỗi của chàng; nàng khóc hỏi chàng tại sao lại tráo đổi quả tần bà của nàng, chàng kiên trì lau nước mắt cho nàng, thẳng thắn thừa nhận vì nàng nói sẽ mang quả tần bà làm bánh cho Tiểu Yến nên chàng ghen với Tiểu Yến; khi nàng nhắc tới Cơ Hoành, chàng cau mày đáp: “Sao nàng lại nghĩ như vậy, nàng ấy và ta chẳng có quan hệ gì cả”. Nàng liền tin chàng, còn tha thứ cho chàng nữa. Nhưng đoạn ký ức thi thoảng xuất hiện trong đầu, lại là rừng cây bạch lộ bên đầm Thủy Nguyệt, trên một chiếc giường rộng, nàng trần tình với Đế Quân rằng có thể họ không có duyên phận với nhau, vì vậy xa nhau chưa biết chừng sẽ tốt hơn, chàng lại nhìn nàng dường như đang suy nghĩ gì đó: “Không có vì vậy gì cả, thực ra chúng ta đã thành thân, bởi vì Tiểu Bạch nàng, chẳng phải rất thích ta sao?”. Rõ ràng trong ấn tượng, trong giấc mộng của A Lan Nhược, nàng luôn biết Tức Trạch chính là Đế Quân, một vài mảnh ký ức thi thoảng hiện lên, lại có lời chỉ bảo của Tô Mạch Diệp đối với nàng: “Nếu ngươi quả thực thích ngài ấy, đừng cảm thấy áp lực, có thể ngươi vốn thích kiểu người như vậy, thật trùng hợp cả Đế Quân và ngài ấy đều là kiểu người đó”. “Ngài ấy” là ai? Nếu là Tức Trạch, chẳng phải từ trước tới nay nàng vẫn biết rằng bọn họ chính là một người hay sao? Nàng không nhớ được Đế Quân đã nói với nàng những lời đó khi nào, cũng không nhớ nổi Tô Mạch Diệp đã đả thông tư tưởng cho nàng khi nào. Cố gắng suy nghĩ thêm, lại nghĩ đến mức đầu óc đau đớn đến nỗi muốn vỡ tung, chỉ có cách ôm đầu mới đỡ hơn đôi chút. Mẫu thân của nàng bắt gặp cảnh nàng đang cuộn tròn người lại cố gắng chịu đựng cơn đau, trong lúc thất kinh đã vội vàng mời thượng thần Chiết Nhan ở rừng đào mười dặm tới. Mà hôm đó đã là sáng sớm của ngày thứ ba, sớm đã qua thời hạn hai ngày mà nàng đưa ra cho Đông Hoa. Nàng khổ sở chờ đợi suốt hai ngày, cuối cùng đã đợi được kết quả. Đông Hoa không đến, Trọng Lâm cũng không đến. Đầu nàng đau một cách dữ dội. Bên ngoài trời nắng ấm áp, thượng thần Chiết Nhan giẫm lên ánh mặt trời, bước vào trong động hồ ly. Chiết Nhan bắt mạch của nàng, lại đưa tay kiểm tra nguyên thần của nàng, khi thu tay lại ánh mắt hơi lay động, ho một tiếng rồi bảo mẫu thân của nàng ra ngoài chuẩn bị cho nàng chút kẹo sâm, đợi đến khi trong phòng chỉ còn lại hai người mới nói: “Trí nhớ của cháu đã bị người khác sửa lại, cháu có biết không?”. Nàng nhất thời không hiểu nổi lời ngài ấy nói, hoang mang lắc đầu. Chiết Nhan thở dài: “Có thể dùng linh đan để thay đổi trí nhớ của con người, cả bát hoang cũng chỉ có vài người làm được, tính ra cũng chỉ có Đông Hoa, Mặc Uyên, Phật Tổ ở Tây Phương và ta. Mặc Uyên và ta, thêm cả đức Phật Tổ ở Tây Phương nữa đều không có lý gì lại sửa đổi trí nhớ của cháu. Cho dù ta luôn hơi phóng túng một chút, nhưng việc phạm vào tiên đạo như thế này…”. Ngài ấy ngước mắt lên nhìn nàng, ánh mắt lại thoáng lộ vẻ thương xót giống như ánh mắt của gia gia nàng ba ngày trước tới Bích Hải Thương Linh đưa nàng đi. Chiết Nhan lấy từ trong tay áo ra một viên tiên đan: “Cháu hãy nuốt cái này trước, ta sẽ lập tức mở lò luyện linh đan cho cháu, uống cái đó vào chắc sẽ có thể khôi phục lại trí nhớ”. Nàng đờ đẫn cầm viên kim đan trước mặt, soi lên ánh nắng chiếu vào qua ô cửa sổ, khẽ nói: “Viên linh đan này không tìm lại được trí nhớ của cháu ư? Vậy cháu uống thứ này có tác dụng gì?”. Một chân của Chiết Nhan đã bước qua bậc cửa, nghe vậy liền quay đầu lại, lại thở dài một tiếng: “Cháu và Đông Hoa, ta đã nghe tiểu thúc của cháu nói rồi, lúc này xảy ra việc này không biết đối với cháu là tốt hay xấu”, điệu bộ của ngài ấy dường như vô cùng giằng co, cuối cùng cũng lên tiếng: “Đó là thuốc bảo thai, cháu hoài thai rồi”. Trong phòng nhất thời trở nên vô cùng yên lặng, viên thuốc bảo thai lấp lánh đó lăn lông lốc trên nền đất. Chiết Nhan nhặt viên linh đan lên, chậm rãi bước lại bên nàng, đặt viên linh đan vào trong tay nàng, hồi lâu, đưa tay vuốt tóc nàng. Chín ngày qua nàng chưa từng rơi nước mắt, lúc này cuối cùng đã bật khóc, nước mắt trào ra khỏi khóe mắt, chỉ trong chốc lát đã thấm ướt hai gò má, nhưng không có âm thanh, cũng không có biểu hiện gì cả, chỉ là trong giọng nói có chút run rẩy, khẽ hỏi: “Tiểu thúc phụ, ngài nói xem, sao chàng lại có thể lừa dối cháu chứ?”. Thì thầm nhắc lại: “Sao chàng lại có thể lừa dối cháu chứ?”. Mặc dù nàng không thích khóc nhưng mỗi lần khóc, đều lo rằng không thể khóc một cách thương tâm để khiến người ta thương người ta xót, lúc này sắc mặt lại hết sức bình tĩnh, chỉ có nước mắt tuôn rơi xối xả như dòng Thiên Hà bị vỡ đê, từng hàng nước mắt lăn dài theo gò má, từ cằm rớt xuống chiếc váy đỏ, vệt nước thấm ướt lại giống như một chuỗi hoa phật linh nở rộ. Chín ngày này quả thực quá dài. Ngày hôm sau, linh đan do Chiết Nhan mới luyện được đưa tới, khi ký ức thực sự được nạp lại vào đầu, tâm trạng của nàng lại không biến động một cách dữ dội như nàng tưởng, chắc là do nàng mệt mỏi quá rồi. Nàng cuối cùng đã nhớ ra, Đế Quân thực sự chưa từng nói với nàng lý do vì sao lúc đó chàng tráo đổi quả tần bà của nàng, lúc đó Cơ Hoành xin quả quý, chàng liền đồng ý luôn. Chàng nói chàng và Cơ Hoành không có quan hệ gì, nhưng nàng lại thấy rất rõ thái độ của chàng đối với Cơ Hoành không bình thường. Giờ đây cuối cùng nàng đã có thời gian rảnh ngồi suy nghĩ lại những việc đó. Chàng quả thực có tình cảm với mình, nhưng chàng chưa chắc đã vô tình với Cơ Hoành, vốn là một tôn thần không nhuốm hồng trần nhất trên trời dưới đất, cuối cùng là nàng hay Cơ Hoành đã kéo chàng vào cõi hồng trần vấn vương không dứt này? Khi nàng rơi vào trong giấc mộng của A Lan Nhược, tính mạng ở giữa sự sống và cái chết, chàng đã chọn nàng. Hôm nay Cơ Hoành gặp nguy hiểm tới tính mạng, chàng bèn chọn Cơ Hoành. Rốt cuộc là ai không nhìn rõ tấm lòng chân thật của mình? Chắc chàng cũng hiểu rằng cuối cùng chàng lựa chọn Cơ Hoành có phần không phải với nàng nên mới không còn mặt mũi nào tới Thanh Khâu tìm nàng chăng. Nàng nghĩ nàng và Đế Quân quả thực đã đi một đoạn đường rất dài, nửa đoạn trước, một mình nàng theo đuổi hình bóng của chàng một cách vô cùng khổ sở, may mà nửa đoạn sau, ông trời khai ân nên cuối cùng mới khiến nàng đuổi kịp chàng. Bởi vì ngay từ đầu là do nàng muốn có được chàng, nên dù theo đuổi có mệt đến mấy nàng cũng cảm thấy không có vấn đề gì. Tình cảm này có được một cách không dễ dàng như vậy, nàng luôn nghĩ rằng cần phải trân trọng nó. Chàng bỏ lỡ tiệc thành hôn, nàng thực ra rất để tâm đến chuyện đó, nhưng nàng nghĩ nàng có thể giả bộ như mình không quan tâm. Khi gia gia nói chàng và Cơ Hoành có tình riêng, đầu óc nàng trong chốc lát trở nên trống rỗng, nhưng sau cảm giác trống rỗng, nàng vẫn muốn tin tưởng chàng, ít nhất cũng muốn nghe đích thân chàng nói chuyện này với mình. Nàng đã rất cố gắng, nàng nghĩ nàng đã cho chàng đủ thời gian, chỉ cần chàng có thể tới đây, cho dù chàng nói gì nàng cũng tin. Nhưng người yêu trước luôn là người hèn mọn. Từ nay về sau, con đường này, nàng phải tự đi một mình rồi. Nàng rất mệt, cũng không muốn có chàng nữa. 02. Làm thần tiên, thực ra cũng rất không dễ dàng, tiên đồ dài dằng dặc lại rất cô đơn, để ngày tháng trôi qua không nhạt nhẽo vô vị, những thần tiên biết cách làm thần tiên phần lớn đều nuôi dưỡng một sở thích để gửi gắm tình cảm, ví dụ như Thái Thượng Lão Quân thích luyện linh đan, Nam Cực Tiên Ông thích chơi cờ, Bạch Thiển thượng thần thích đọc truyện, chính là vì đạo lý đó. Đám tiểu tiên mới phi thăng còn chưa kịp nuôi dưỡng sở thích vì không có việc gì để làm, bàn tán tin đồn trong giới thần tiên tự nhiên trở thành việc quan trọng đầu tiên của họ sau khi trở thành thần tiên. Nhưng cho dù là người nghe tám chuyện hay là người tám chuyện, đều có một yêu cầu, nhân vật chính trong tin đồn phải là người mà đôi bên đều biết, câu chuyện bàn tán mới thú vị, nghe mới hứng thú. Vị tôn thần đầu tiên mà đám tiểu tiên sau khi bay lên trời biết tới đương nhiên là Đông Hoa Tứ Phủ Thiếu Dương Quân Đông Hoa Đế Quân của Nhất Thập Tam Thiên. Mà tình cờ là, tin đồn lớn nhất trong giới thần tiên của tứ hải bát hoang trong gần hai trăm năm trở lại đây chính là việc Đế Quân bị mất vợ. Nghe đồn, người vợ này của Đế Quân mặc dù tuổi còn trẻ nhưng cũng là một nhân vật tầm cỡ, là cháu gái của thượng thần Bạch Thiển – thái tử phi trên Cửu Trùng Thiên, là cháu nội của Bạch Chỉ Đế Quân nước Thanh Khâu, hơn nữa bốn trăm năm trước đã kế thừa ngôi vị nữ vương của Đông Hoang ở Thanh Khâu. Trong lễ Tàng binh ở Thanh Khâu hai trăm năm trước, vị điện hạ này đã cất thanh kiếm Hợp Hư vào đỉnh núi Đường Đình, phong tư phá tan kiếm trận trăm người với dải lụa đỏ bịt mắt từng khiến chúng sinh khuynh đảo, trong bảng xếp hạng mỹ nhân của bát hoang, chỉ kém cô cô Bạch Thiển của nàng một bậc, nàng đứng thứ hai. Đám tiểu tiên nghe lời đồn đại này, đều rất mong mỏi được nhìn thấy người vợ này của Đế Quân, lại càng hiếu kỳ vì sao Đế Quân lại bị mất vợ, nhưng ngấm ngầm bàn luận chuyện của Đế Quân thì còn được, không phải ai cũng gánh được tội bàn luận bừa bãi về tôn thần, chư vị đều không có gan tìm hiểu kỹ, chỉ loáng thoáng nghe nói rằng từ sau khi vị điện hạ đó mất tích, Thanh Khâu và cung Thái Thần ở Nhất Thập Tam Thiên có phần bất hòa. Mà Đế Quân mất vợ, hai trăm năm nay ngày đêm lật tung trời đất để tìm kiếm, còn nhà họ Bạch mất con gái, lại không hề có động tĩnh gì. Thượng thần Bạch Thiển hòa nhã, dễ nói chuyện, khi Ti Mệnh Tinh Quân uống trà cùng Bạch Thiển đã từng hỏi thăm, thượng thần Bạch Thiển vuốt ve chiếc quạt làm ra vẻ nghi hoặc nói: “Mất tích? Chẳng qua chỉ là cô nương nhà họ Bạch chúng ta đến tuổi đều phải ra ngoài rèn luyện mà thôi, bản thượng thần chưa từng nghe thấy tin đồn này, tin này là do ai đồn đại vậy, đồn đại chẳng ra sao cả”. Ti Mệnh Tinh Quân đắn đo một lát rồi cung kính hỏi lại: “Vậy điện hạ Phượng Cửu tới nơi nào rèn luyện, không biết thượng thần có thể chỉ giáo một chút không?”. Thượng thần Bạch Thiển tươi cười xòe quạt: “Con cháu nhà họ Bạch đều được nuôi dưỡng kiểu tự do, nó muốn tới chỗ nào rèn luyện thì tới chỗ đó, trong nhà không quản lý việc này, ngươi xin bản thượng thần chỉ giáo, bản thượng thần thực ra cũng không biết rõ”. Ti Mệnh Tinh Quân ngây người trong giây lát, mới nói: “Chỉ cần điện hạ bình an, tiểu tiên bèn yên lòng rồi”. Phượng Cửu điện hạ, người mặc dù còn trẻ tuổi nhưng cũng là một nhân vật tầm cỡ trong lời đồn đại của bát hoang lúc này đang ngồi xổm trên ngọn núi nhỏ dưới phàm giới cầm dao gọt sơn dược. Con trai của nàng Bạch Cổn Cổn mấy ngày gần đây ăn nhiều thịt quá nên có phần đầy bụng, lão tú tài mở y quán ở dưới núi mới kê một phương thuốc thực bổ[1] cho nàng, trên có viết lấy sơn dược nấu cháo gạo hoặc sơn tra xào đường đỏ cũng có thể chữa được bệnh đầy bụng cho trẻ nhỏ. Bạch Cổn Cổn không thích ăn đồ ngọt, Phượng Cửu xét rằng không cần làm món sơn tra xào đường đỏ, lát nữa lại xuống núi mua một ít muối, nấu thành món cháo mặn, Bạch Cổn Cổn thích ăn vị mặn. [1] Bồi bổ bằng món ăn. Về việc Phượng Cửu mất tích, thượng thần Bạch Thiển lại nói là đi rèn luyện, thực ra cũng không phải là lừa dối Ti Mệnh. Còn nhớ thời đại hồng hoang, trong Học cung Thủy Chiều Trạch do Phụ thần mở cho các tộc Thần Ma Tiên Yêu cùng theo học, có một môn học đặc biệt quan trọng là tới phàm thể rèn luyện. Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới tổng cộng có vài tỷ phàm thế, nếu ở mỗi phàm thế một năm cũng phải mất một tỷ năm. Nhưng may mà năm xưa Phụ thần còn có chút thần tính, chỉ chọn bừa mười vạn phàm thế để các cao đồ của ngài tới rèn luyện. Tương truyền cao đồ có cơ duyên đi rèn luyện đó bao gồm: Đông Hoa Đế Quân – người sau này trở thành bá chủ của trời đất, thượng thần Mặc Uyên – chiến thần của Thiên tộc, nữ quân Thiển Quán – nữ thần thủy tổ của Ma tộc, thượng thần Chiết Nhan – con phượng hoàng đầu tiên của hồng hoang, còn có cả gia gia và nãi nãi của Phượng Cửu. Có thể thấy những cao đồ đó sau khi tới phàm thế rèn luyện đều thành tài, hơn nữa còn thành đại tài. Năm xưa khi Phượng Cửu kế thừa ngôi vị nữ vương Đông Hoang, phụ thân nàng Bạch Dịch thực ra đã có phần thiển cận làm liều, một lòng muốn tìm kiếm một chàng rể hiền để trợ giúp cho nàng, điểm này còn xa mới bắt kịp được tầm nhìn của gia gia nàng. Bạch Chỉ Đế Quân ban đầu thực ra đã sớm có dự định, đợi qua lễ Tàng binh sẽ đưa Phượng Cửu tới phàm thế rèn luyện, là nữ vương, dựa vào chàng rể có bản lĩnh thì còn ra thể thống gì, tự mình vẫn phải có chút bản lĩnh. Khi ngài nói dự định này của mình với cô cháu gái, không ngờ Phượng Cửu lại rất tán đồng khiến ngài vô cùng vui mừng. Nhưng lại có một vài chuyện xảy ra sau lễ Tàng binh. Bạch Chỉ Đế Quân nhân đức, vốn dự định để cô cháu gái đang bị tổn thương tinh thần nghỉ ngơi thêm vài ba năm rồi mới gửi nàng tới phàm thế, không ngờ cô cháu gái chỉ nghỉ ngơi chưa đầy vài ba ngày đã tự chuẩn bị sẵn tay nải tới từ biệt. Thấy cháu gái nhỏ có chí tiến thủ như vậy, Bạch Chỉ Đế Quân đương nhiên đã đồng ý. Trước khi lên đường đã tặng cho nàng một chiếc phong bì và một tờ giấy viết thư, nói rằng tờ giấy và phong thư cùng bộ với chúng để ở chỗ cô cô nàng là thượng thần Bạch Thiển, một mình nàng ở bên ngoài, nếu có việc gì gấp cần thương lượng với gia đình, hãy lấy bút viết lên trang giấy này, cô cô của nàng tất sẽ đọc được trên tờ giấy viết thư mình cầm. Trước khi tới phàm thế, Phượng Cửu còn tới minh giới, gặp Tạ Cô Châu, bạn nàng, lại lưu lại ở minh giới ba ngày, lấy quả tần bà tạo thân xác cho Diệp Thanh Đề, thuận lợi lấy hồn phách của chàng ta đặt vào trong tiên thể đó. Về lý mà nói, ba tháng sau, Diệp Thanh Đề sẽ có thể sống lại, nàng lại không đợi được tới khi chàng ta sống lại, chỉ nhờ Tạ Cô Châu thay nàng chăm sóc cho chàng ta, đợi khi chàng ta tỉnh lại hãy dạy cho chàng ta một vài pháp môn tu hành để hóa giải yêu khí trong hồn phách, ba trăm năm sau, khi thời gian tu hành của chàng ta đã hết, sắp phi thăng thành tiên, nàng sẽ tới giúp chàng ta tới Dao Trì ở Cửu Thiên để gội rửa bụi trần, gia nhập vào tiên giới. Những người có thể phi thăng thành tiên nhờ kỳ duyên, lại phải tới Dao Trì để gột rửa bụi trần, lễ gột rửa bụi trần bắt buộc phải do người đã tạo tiên thể của người đó thực hiện, đây là quy định ghi trong tiên tịch. Sắp xếp mọi chuyện ổn thỏa xong, nàng liền mang theo Bạch Cổn Cổn trong bụng tới phàm giới cắm lều dựng trại. Trong phàm thế đầu tiên, Phượng Cửu sinh ra Bạch Cổn Cổn. Sau đó ba năm nàng lại thay đổi phàm thế một lần. Mặc dù ở phàm thế có pháp tắc nếu thực hiện pháp thuật sẽ dễ bị phản đòn, hạn chế nàng không thể động một chút là sử dụng pháp thuật được, nhưng may mà nàng vốn nhanh nhẹn, kiếm thuật lại cao siêu nên nàng sống ở phàm thế cũng rất ổn. Trong hai trăm năm, nàng đã từng mở tửu lầu trong thành, mở hiệu sách trong trấn, mở tạp hóa trong chợ, bày hàng nước chốn hoang dã, lúc thì làm chủ, lúc lại làm người giúp việc, kiếm tiền son phấn của các cô gái lầu xanh bên cạnh Di Hồng Các, thu được tiền coi vận mệnh cho các bà các cô dưới miếu Thành Hoàng, luân chuyển hơn mười chỗ ở, thật sự giống như đang tu hành trong cõi hồng trần, tu mãi tu mãi, bèn tự cảm thấy đã nhìn thấu nhân tình thế thái. Phượng Cửu sau khi đã nhìn thấu nhân tình thế thái, năm ngoái đã chuyển tới phàm thế này, không muốn tiếp tục lăn lộn trong chốn phù hoa nữa, dự định thay đổi khẩu vị bằng cách thử sống ẩn dật, vì thế nàng đã đưa con trai Bạch Cổn Cổn chạy tới khe núi này. Khe núi nghèo này nhìn có vẻ nghèo, trên thực tế cũng rất nghèo, nhưng nó lại có một cái tên đầy bá khí, gọi là khe Tàng Long. Trong khe Tàng Long có thôn Tàng Long, thôn Tàng Long đương nhiên cũng rất nghèo, nhưng tốt ở chỗ đây là một thôn lớn có khoảng gần hai mươi hộ gia đình, nghèo thì nghèo, nhưng mỗi ngày hai mươi hộ mỗi hộ để dành một củ khoai lang, vẫn có thể nuôi được một ông thầy dạy chữ. Thầy dạy chữ là một người tú tài đã thi bao nhiêu lần vẫn không đỗ, khi đã già rồi mới đốn ngộ ra rằng đời này mình không có số làm quan lão gia, năm sáu mươi tuổi về quê làm phu tử, coi như kiếm miếng cơm sống qua ngày. Lớp học rách nát của vị tiên sinh đó nằm ở rìa thôn, vừa hay đối diện với hai gian nhà cỏ được dựng lên trên triền núi của Phượng Cửu. Ngày nào Bạch Cổn Cổn cũng ra khỏi nhà từ khi mặt trời mọc, đến khi mặt trời lặn mới về nhà, khoác theo chiếc túi vải nhỏ mà mẫu thân nó may cho, từ lều cỏ của nhà mình vượt qua nửa ngọn núi tới lều cỏ của phu tử để học chữ. Bạch Cổn Cổn năm nay đã được một trăm chín mươi bảy tuổi, nhưng trông không khác gì những đứa trẻ người phàm hai, ba tuổi, vẫn còn bé như hạt đậu. Nếu nói có điểm gì khác biệt, chẳng qua chỉ là hạt đậu này mũm mĩm đáng yêu hơn một chút so với đám đậu nhỏ của người phàm, hơn nữa, nó có mái tóc trắng từ khi mới sinh ra, trông xuất chúng hơn đám đậu nhỏ của người phàm một chút. Nhưng sự xuất chúng về màu tóc lại không phải là việc gì tốt đẹp, do đó Bạch Cổn Cổn ngay từ nhỏ đã bắt đầu nhuộm tóc. Nó từng hỏi mẫu thân mình lý do tại sao, mẫu thân cười tít mắt nói với nó rằng, bởi vì bọn họ là thần tiên, nó là một tiểu tiên đồng, tất cả các tiểu tiên đồng đều có mái tóc trắng, lại mọc rất chậm. Bạch Cổn Cổn liền tin ngay, bởi vì nó chưa từng được gặp một vị thần tiên hay tiểu tiên đồng nào khác. Nhưng sau đó Bạch Cổn Cổn phát hiện ra rằng, từ sau khi mẫu thân nó nói bọn họ là thần tiên, có rất nhiều việc, mẫu thân nó đều thích đem chuyện này ra để viện cớ. Ví dụ như trong nhà làm bảy chiếc bánh hạt dẻ, mẫu thân nó lấy hai chiếc đĩa để chia bánh, chia cho mình bốn chiếc, chỉ chia cho nó ba chiếc, khi nó nghiêm mặt nói với mẫu thân rằng mẫu thân của các bạn học ở trong lớp đều không tranh ăn bánh với con mình như vậy, mẫu thân nó liền xoa xoa mũi ừ hữ rồi nói với nó rằng, bởi vì chúng ta là thần tiên, bọn họ là người phàm, trong việc này quy định của thần tiên và người phàm không giống nhau! Lại ví dụ như mẫu thân nó khi ngủ hay đạp chăn, từ khi hiểu chuyện, hàng ngày cứ đến đêm nó lại trở dậy đắp chăn cho mẫu thân, nó luôn nghĩ rằng phận làm con đương nhiên nửa đêm phải dậy đắp chăn cho mẫu thân. Mãi cho tới một năm, khi nó trò chuyện với đám bạn nhỏ trong lớp, nó mới phát hiện ra rằng những nhà khác đều hoàn toàn trái ngược với nhà mình. Nó về nhà nghiêm túc bàn bạc với mẫu thân rằng sau này nhà mình cũng nên như vậy, mẫu thân nó vẫn xoa xoa mũi ừ hữ, trong giới thần tiên thực ra đều là con trai nửa đêm trở dậy đắp chăn cho mẫu thân, bọn họ là người phàm, bọn họ không hiểu giới thần tiên chúng ta! À, còn một chuyện này nữa, chuyện này rất rất quan trọng. Bạch Cổn Cổn đã không còn nhớ rõ đó là vào khi nào, lần đầu tiên nó biết được rằng đám trẻ con ở phàm giới không chỉ có mẫu thân mà còn có phụ thân. Một đứa bạn thân của nó đã có lần hỏi rằng phụ thân của nó đâu, nó liền về nhà hỏi mẫu thân, mẫu thân nó lúc ấy đang phơi ngô trong sân, nghe hỏi vậy, một chùm bắp ngô đang cầm trên tay rơi thẳng xuống, đập ngay vào mu bàn chân. Mẫu thân nó cố gắng nén đau, miễn cưỡng mỉm cười: “Con là do một mình ta sinh ra, không có phụ thân”. Nó nhấc đôi chân ngắn cũn lon ton chạy đến xoa chân cho mẫu thân, nghi hoặc nói: “Nhưng đám bạn cùng lớp con ai cũng đều có phụ thân cả”. Giọng nói của mẫu thân nó nghe có phần xa xôi: “Bởi vì chúng ta là thần tiên mà, tiểu tiên đồng trong giới thần tiên có thể chỉ có mẫu thân, không có phụ thân”. Bạch Cổn Cổn cảm thấy, sự việc có chút gì đó không ổn. Nhưng nó cũng không có cách nào để tìm sự thật, đành chỉ thầm nghi ngờ trong lòng. Nó thực lòng hy vọng người lớn trong giới thần tiên thực ra không tranh giành bánh ngọt với trẻ con, người lớn nửa đêm phải tỉnh dậy giúp trẻ con đắp chăn, hơn nữa các tiểu tiên đồng bắt buộc phải có phụ thân. Bởi vì như vậy, nó mới có thể có phụ thân. Nó từng nghĩ nếu nó cũng có phụ thân, phụ thân của nó sẽ như thế nào. Lấy song thân của đám bạn cùng học với nó ra so sánh, ngoài ngoại hình ra, tất cả các mặt khác đều là phụ thân mạnh hơn mẫu thân. Vì vậy nếu nó có phụ thân, tài nấu bếp của phụ thân nó nhất định phải cao hơn mẫu thân nó, kiếm thuật phải giỏi hơn mẫu thân nó, dậy đúng giờ, không bao giờ đạp chăn. Nhưng nó chỉ thầm suy nghĩ trong lòng, nó chưa bao giờ nói với mẫu thân suy tính nhỏ này. Cuộc sống ẩn cư ở khe Tàng Long nhàn rỗi mà biếng nhác, nơi đây có chim đêm về tổ, có núi xanh biếc, có ánh trăng sáng, mặc dù không hoa mỹ như tiên cảnh ở bát hoang nhưng cũng có vẻ đẹp tĩnh mịch riêng, khi Phượng Cửu đang suy nghĩ xem có thể lưu lại khe núi này thêm mấy năm, bỗng nhiên cảm thấy ngực rất nóng. Nàng liền lấy phong thư luôn mang theo bên mình mà gia gia đã tặng nàng ra, vừa mở phong thư, quả nhiên là Bạch Thiển lại viết thư cho nàng. Trong hai trăm năm qua cô cô Bạch Thiển của nàng vẫn thường xuyên viết thư cho nàng, bức thư đầu tiên được gửi đến là tháng thứ hai sau khi nàng mới xuống phàm trần. Trong thư có nói bảy mươi ba ngày sau, Đông Hoa cuối cùng đã tới Thanh Khâu tìm nàng, chắc nghĩ rằng lúc đó nàng vẫn đang ở Thanh Khâu. Bạch Chỉ Đế Quân không thể ngăn cản được, đồng ý cho chàng vào trong cốc, nhưng đương nhiên không tìm thấy nàng. Cô cô nói rằng sắc mặt của Đế Quân lúc đó rất khó coi, tuy nhiên Bạch Chỉ cũng không vừa, lạnh lùng nói với Đông Hoa: “Đế Quân tôn kính vô song, nhà họ Bạch vốn đã không với được tới hôn sự này, chỉ là do Cửu nha đầu bướng bỉnh, may mà lần này nó cuối cùng đã hiểu biết một chút, hiểu rằng nó không đủ tư cách để cùng chung phu quân với công chúa của Ma tộc, cam tâm tình nguyện rút lui, mong Đế Quân ban cho tờ giấy hưu thê (bỏ vợ)”. Khuôn mặt của Đông Hoa mặc dù không còn chút sắc máu nhưng vẫn rất bình tĩnh: “Đây không phải là lời Tiểu Bạch nói ra”. Vừa hay gặp thượng thần Chiết Nhan mang rượu hoa đào tới động hồ ly, thấy tình thế căng thẳng, bèn khách khí nói chen vào một câu: “Thôi, thôi, để ta nói một câu công bằng, Cửu nha đầu quả là không nói rút lui gì cả, tuy nhiên, nó đã hỏi ta một câu rằng tại sao Đế Quân ngài lại lừa dối nó hết lần này đến lần khác, có phải thấy nó ngốc nghếch dễ lừa, khi nào ngài muốn có nó thì muốn, không muốn nữa thì bỏ mặc nó không buồn để ý đến không, nó cảm thấy mệt mỏi, cũng không muốn có ngài nữa”. Thượng thần Chiết Nhan xòe tay ra: “Tuy những câu này nghe có vẻ như những câu nói hờn dỗi của một đứa trẻ, nào ngờ ngày hôm sau nó quả nhiên đã thu dọn tay nải đi mất rồi, cho tới tận hôm nay, ngay cả ta cũng chưa gặp được nó”. Khi Đế Quân nghe được những lời ấy, sắc mặt rất trống rỗng. Khi nhận được bức thư ấy, Phượng Cửu đang nằm trên ghế phơi nắng. Bảy mươi ba ngày, nàng im lặng trong giây lát, cầm bút hỏi cô cô xem gần đây có phải công chúa Cơ Hoành của Ma tộc đã khỏi bệnh, có phải gương Diệu Hoa của Đệ Thất Thiên trên Cửu Trùng Thiên hiện đang ở Xích chi Ma tộc hay không. Hồi lâu, cô cô trả lời một chữ “Đúng”. Nàng chăm chú nhìn chữ “Đúng” đó, ngây người ra hồi lâu, cảm thấy Đế Quân chàng quả thực rất chu đáo, chăm sóc cho Cơ Hoành thỏa đáng rồi mới tới tìm nàng, lẽ nào trước đây nàng đã bám chàng quá chặt nên mới khiến chàng tin chắc rằng nàng sẽ ở chỗ cũ để đợi chàng? Sau khi ngồi ngây ra hồi lâu mới cảm thấy mình thật khó hiểu, đi thì cũng đã đi rồi, còn để ý tới những việc nhỏ nhặt đó làm gì nữa. Từ đó về sau, nếu cô cô còn nhắc tới Đông Hoa trong thư, nàng đều không hồi âm. May mà cô cô của nàng cũng không nhắc tới chàng nhiều. Sau đó chỉ có một lần, cô cô nói rằng Đông Hoa có thể đã biết nàng xuống phàm giới rồi. Thượng thần Bạch Thiển tỏ ý rằng thực ra bản thân rất khâm phục thủ đoạn của Đế Quân, nói ngày hôm đó Đế Quân không tìm thấy nàng ở Thanh Khâu, đã lập tức quay trở về Cửu Trùng Thiên đến chỗ Thiên Quân cưỡng chế lấy đi hai bức văn điệp, lại kết hợp với ngọc phổ của cung Thái Thần, lệnh cho các vị tiên bá dưới trướng đưa tới Ma tộc và Quỷ tộc. Bảy vị quân vương của Ma tộc và Quỷ vương Ly Kính của Quỷ tộc nhận được tờ văn điệp đó, đã lập tức giúp tìm người trong địa bàn mỗi tộc, cũng không biết trong văn điệp rốt cuộc đã viết gì nữa. Đế Quân làm vậy dường như hoàn toàn không hề để tâm đến việc khắp bát hoang biết việc chàng mất vợ, động tĩnh tìm nàng quả thực rất lớn, nhưng cũng quả thực có công hiệu, chỉ dùng một trăm tám mươi năm đã lật tung cả bát hoang lên. Lật tung từng tấc đất của bát hoang lên cũng không tìm được thấy bóng dáng của nàng, Đế Quân đương nhiên sẽ nghĩ ra nàng ẩn mình ở đâu. Trong thư thượng thần Bạch Thiển cười nói rằng dù Đế Quân đã biết nàng trốn xuống phàm giới, phàm giới có vài tỷ phàm thế, cho dù chỉ ngồi trước gương Diệu Hoa chăm chú quan sát hết phàm thế này tới phàm thế khác cũng chưa chắc đã có duyên tình cờ nhìn thấy được nơi nàng đang ở. Hơn nữa gương Diệu Hoa lúc này đã được chuyển tới Xích chi Ma tộc rồi, nghe nói vẫn chưa tìm được nơi thích hợp để lắp đặt. Gương Diệu Hoa gỡ xuống thì dễ nhưng lắp lên thì rất khó, cho dù đích thân Đông Hoa tới đó lắp, một thác nước rộng lớn hùng vĩ như vậy, muốn lắp đặt xong cũng phải mất mấy chục năm, tuy nhiên việc này là do chàng tự làm tự chịu. Cuối thư thượng thần Bạch Thiển còn viết thêm một câu, gần đây cô cô vô tình gặp Đông Hoa một lần, thấy Đế Quân trông thiếu sức sống hơn trước kia, hơn nữa lại gầy đi một cách ghê gớm, sắc mặt giống như đang bị bệnh. Tuy nhiên, lại lập tức nói, gần đây khí hậu trên trời không tốt lắm, ngay cả cô cô cũng bị nhiễm chút phong hàn, có lẽ Đế Quân cũng bị phong hàn chăng. Khi bức thư này tới tay Phượng Cửu, nàng đang đưa Bạch Cổn Cổn ngồi khoanh tròn trên một đỉnh núi khuất trong mây nghe tiếng sấm sét. Gió mạnh quất vào đá núi, giống như tiếng trống tế trời của người phàm, Bạch Cổn Cổn nghe một cách đầy kích động, dù mái tóc bị gió thổi rối tung nhưng khuôn mặt nhỏ đầy nghiêm nghị, lồng ngực nhỏ còn phập phồng phập phồng. Phượng Cửu hoa mắt chóng mặt đọc hết phong thư này giữa cơn cuồng phong, so với trăm năm trước đây nàng suy nghĩ mọi việc đã có phần ung dung hơn rồi, mặc dù thấy Đông Hoa tìm nàng như vậy có chút kỳ lạ, nàng cũng không phải là đau lòng bỏ đi, như vậy có vẻ giống như nàng đang trốn tránh chàng, nàng lại không làm sai điều gì, chẳng việc gì phải trốn tránh. Năm xưa, khi nàng ra đi, cũng không hề cố tình giấu giếm nơi đến, chỉ là người nhà họ Bạch thấy chướng mắt, tìm cách gây khó khăn cho Đông Hoa mà thôi. Có điều nghĩ lại nàng và Đông Hoa quả thực cũng không còn gì để nói nữa, không gặp lại cũng có cái hay của không gặp lại. Nàng liền hít một hơi thật dài trong cơn gió lớn, kết quả là lại khiến bản thân bị sặc. Nàng không biết rằng, trong phong thư này, Bạch Thiển thực ra đã có điều giấu nàng. Thượng thần Bạch Thiển quả thực đã gặp Đông Hoa Đế Quân, nhưng không phải là vô tình gặp, mà là do Đế Quân đích thân gửi thiệp mời nàng tới Dao Trì ngồi ngắm hoa sen mới nở trong ao. Về lý mà nói, mặc dù thượng thần Bạch Thiển là thượng thần tôn quý, nhưng so với Đế Quân thì vẫn là bậc tiểu bối, trưởng bối cho gọi tiểu bối tới cùng thưởng hoa, chỉ cần sai một người tới thông báo một tiếng là được, Đế Quân lại đích thân viết thiệp mời cho nàng, nét chữ trên tấm thiệp uốn lượn như móc bạc, rất có cốt cách. Hương trà ngào ngạt trong tiểu đình bên cạnh Dao Trì, hai người ngồi yên lặng, trong hương trà ngào ngạt, Đế Quân hỏi thẳng: “Tiểu Bạch đã xuống phàm giới đúng không?”. Bạch Thiển sững người lại, khách khí cười nói: “Ti Mệnh vì có chút tình bằng hữu với nha đầu Phượng Cửu, lúc đầu cũng tới hỏi ta, nhà họ Bạch chúng ta luôn không quá quan tâm tới việc tu hành của con cháu, chỉ biết rằng nó hiện giờ đang rèn luyện ở bên ngoài, rốt cuộc là đang rèn luyện ở đâu, lại quả thực không biết”. Đế Quân nhìn thẳng vào nàng, ngữ điệu lạnh lùng: “Ngươi biết”. Nụ cười trên khuôn mặt của thượng thần Bạch Thiển nhạt đi, nói: “Đế Quân có muốn nghe một câu chuyện không?”. Không đợi ngài trả lời đã nói luôi: “Nha đầu Phượng Cửu giỏi nấu ăn, bất cứ món ăn nào dưới gầm trời này nó đều biết làm, nhưng duy chỉ có một món nó không nấu, đó là Kỳ Lân Châu, Đế Quân có biết vì sao không?”. Nàng tự rót cho mình một ly trà, nói: “Không phải là nó ghét khẩu vị của món Kỳ Lân Châu hoặc cơ thể bị dị ứng với món ăn này, chỉ là bởi vì loài Kỳ Lân Châu chỉ mọc ở Tây Phương Phạn giới, không thể sống ở vùng thổ nhưỡng khác. Hồi nhỏ nó vì thích ăn Kỳ Lân Châu, đã tốn rất nhiều công sức trông một cây Kỳ Lân Châu ở Thanh Khâu, đã tốn mất ba trăm năm, còn vì việc đó mà bỏ bê việc học, bị phụ thân nó đánh đòn đau vài lần, quả thực đã dốc hết tâm sức nhưng Kỳ Lân Châu vẫn không thể sống ở Thanh Khâu. Nó bị giày vò đến nỗi mệt nhoài, đã dứt khoát hoàn toàn từ bỏ loài cây ấy, từ đó về sau không bao giờ nói tới việc làm món ăn liên quan tới Kỳ Lân Châu, ngay cả ăn cũng không ăn món đó nữa”. Nàng nhìn Đông Hoa, ánh mắt đầy hàm ý: “Nha đầu đó khi đã tuyệt tình thì tuyệt tình hơn tất cả, một người lạnh lùng như ta khi so sánh với nó, lại vẫn là một người có trái tim nồng nhiệt một cách hiếm thấy, hơn nữa, điều kỳ diệu là ở chỗ nha đầu đó luôn cho rằng mình là một người đa cảm lại đa tình, chưa từng ý thức được việc mình là một người tuyệt tình, cũng giống như cho tới giờ nó vẫn chưa ý thức được việc nó không ăn lại món Kỳ Lân Châu nữa”. Đế Quân bỗng ho một tiếng, tiếp sau đó là một tràng ho liên tiếp, cơn ho này kéo dài rất lâu mới dừng lại, chàng nói với Bạch Thiển bằng một chất giọng có chút khàn đục: “Ngươi so sánh rất đúng, bản quân giờ đây chính là một cây Kỳ Lân Châu bị nàng vứt bỏ”. Nói xong lại ho thêm một tràng rồi mới nói: “Cây trước vì không có được sự yêu mến của nàng, bị vứt bỏ rồi cũng không có gì để nói, còn cây này của bản quân, lại muốn tìm nàng để thử một lần nữa xem”. Một nét kinh ngạc thoáng hiện lên trên khuôn mặt của Bạch Thiển, nàng nói: “Vậy, trong bàn cược mấy tỷ phàm thế này, xin mời Đế Quân đánh cược, xem ngài và Phượng Cửu có duyên phận với nhau hay không”. Thần sắc vốn rất ảm đạm trong mắt Đế Quân lại càng trở nên ảm đạm hơn sau lời nói này của Bạch Thiển, hồi lâu mới nói: “Chúng ta vô duyên ngươi bảo ta đặt cược duyên phận, có thể ta vĩnh viễn sẽ không tìm thấy được nàng”. Trong đôi mắt vốn cũng được coi là ôn hòa của Bạch Thiển dần dần nhuốm chút lạnh lùng, nàng đùa nghịch nắp ly trà trong tay chậm rãi nói: “Nếu Đế Quân đã cảm thấy vốn không có duyên phận với Phượng Cửu, hà tất phải đi tìm nó, nếu thành tâm muốn tìm nó, rồi cũng sẽ có cách thôi”. Sau khi chuyện đó xảy ra không lâu, Đông Hoa quả nhiên đã tìm ra được một cách khác, chính là lúc Phượng Cửu đang suy nghĩ cho tương lại ở khe Tàng Long thì nhận được bức thư này của Bạch Thiển. Bức thư này quả thực khiến Phượng Cửu kinh ngạc. Trong thư viết, ngày mùng năm tháng năm năm đó, khi Đế Quân ban phẩm cấp cho các thần tiên mới phi thăng, sẽ mở Dao Trì Cửu Thiên lần cuối cùng, cho phép các tiên giả vì kỳ duyên mà được phi thăng được tới làm lễ gột rửa bụi trần, sau đó Dao Trì sẽ phong kín mãi mãi, thiên đình sẽ không cho phép các tiên giả vì kỳ duyên mà tu thành tiên quả được liệt vào tiên tịch nữa. Cuối thư, Bạch Thiển đã muôn phần cảm khái, nói rằng không biết Đông Hoa đã điều tra được chuyện của Diệp Thanh Đề từ khi nào, hành động này rõ ràng là muốn đem Diệp Thanh Đề ra để ép buộc nàng, ngài quả là đã tìm ra được một cách hay để tìm nàng. Lại nói năm xưa Phụ thần đã đánh giá cửu trụ tâm của Đông Hoa đã đạt tới cảnh giới chuyên trụ nhất thù chi lưỡng thụ (nhất tâm bất loạn), phán rằng chàng niệm vi thần nhất niệm vi ma, cách làm này của chàng quả thực thiếu lòng từ bi, không biết có phải là đã đánh mất cửu trụ tam, thẳng tiến tới ma đạo không nữa? Phượng Cửu cầm bức thư này, ngón tay không kìm được run rẩy. Đã nhiều năm rồi, nàng chưa từng như vậy.