Sau sự cố ở quán người đầu bếp già hôm đó, không khí trong nhà tôi càng căng thẳng hơn. Tôi không biết phải giải thích ra sao. Cứ như thể mỗi người trong ba chúng tôi đã tự giam bản thân vào thế giới riêng chật hẹp, ngột ngạt của mình. Mẹ cứ mãi chửi rủa bố và “con kia” với những từ ngữ mà tôi chưa bao giờ nghĩ sẽ tuôn ra từ miệng mẹ mình. Bà cố khắc sâu trong đầu chúng tôi rằng bố là một kẻ vô tích sự chưa từng tỏ ra có chút trách nhiệm nào với gia đình, không bao giờ thèm ngó ngàng đến chúng tôi một tẹo teo nào. Còn về “con kia”, ả đần độn, ích kỉ và hoàn toàn vô liêm sỉ. Nếu chúng tôi có việc gì không vừa ý bà, thậm chí những thứ nhỏ nhặt nhất, bà sẽ nổi cơn tam bành như thể đó là chuyện sống chết và sẽ đi đến kết luận rằng chúng tôi khốn nạn giống bố. Ning trở nên lặng lẽ bất thường. Nó thất vọng và thường chìm đắm vào suy tư, cứ như chỉ qua một đêm, nó đã trút bỏ lại cả tuổi ấu thơ. Không còn những tràng cười hồn nhiên, không còn vẻ mơ màng trong mắt nó, không còn niềm mê say với mọi thứ xung quanh, không còn nhảy cẫng lên vui sướng. Càng ngày nó nói càng ít, ngay cả với tôi, người từng gần gũi với nó xiết bao, và thậm chí còn ít hơn với mẹ, như thể Ning tránh phải đối diện với bà. Nó chỉ mở miệng khi cần và điều ấy khiến hố sâu ngăn cách giữa chúng tôi càng lớn. Còn với tôi, ngôi nhà đã trở thành một nơi tẻ ngắt. Vào những ngày có tiết vĩ cầm, tôi và Jom sẽ tới quán cóc, tiêu tốn thời gian vào kẹo lạc và cà phê đá, nghe đi nghe lại “Chai thời gian”. Mặc dù có nhiều đĩa khác, chúng tôi chỉ chọn nghe bài này, cảm thấy nó thuộc riêng về mình. Đây là quãng thời gian đẹp nhất của hai chúng tôi. Đôi lúc, chúng tôi ngồi trong im lặng tuyệt đối, như sợ rằng thoáng thanh âm mỏng nhất cũng sẽ làm phiền người khác, nhưng có lúc hai đứa lại buôn chuyện không ngừng mà chẳng hề để ý đến những người khác trong quán. Vào những ngày không có tiết vĩ cầm, tôi hay ngồi với Porm ở sân bóng hoặc trong căng tin, chán nản nhìn Eik và Chai tập luyện. Tôi chưa bao giờ có hứng thú với thể thao, có lẽ vì ở tôi sớm hình thành mặc cảm về ngoại hình mập mạp của mình. Khi còn nhỏ, bị kêu là yếu ớt vụng về, tôi bị đá ra khỏi đội. Thỉnh thoảng tôi vào chơi thế chỗ tạm thời cho ai đó và dù có cố hết sức cũng chỉ khiến đối phương cùng đội mình cười nhạo. Porm luôn đợi để về nhà cùng Eik và Chai, bỏ lại mình tôi chán nản lang thang ở các trung tâm thương mại. Chưa phải thật khuya thì tôi sẽ không về nhà, cốt để tiếp xúc với mẹ càng ít càng tốt. Tôi nhớ như in rằng sinh nhật lần thứ mười bốn của mình rơi vào một hôm thứ Tư bởi vì ngày hôm đó có nhiều chuyện xảy ra đã khắc sâu vào kí ức tôi. Vào thứ Ba, một ngày trước sinh nhật, tôi học vĩ cầm như mọi bữa. Hôm đó tâm trạng thầy rất tốt, quá giờ lâu rồi thầy vẫn say sưa chuyện trò với chúng tôi. Tôi không còn nhớ thầy nói gì, chỉ nhớ lúc thầy lại đứng lên chơi đàn để minh hoạ một điểm nào đó, và điều đó gợi tôi nhớ đến thầy giáo thể dục ở trường tiểu học. Tên thầy là But, quê thầy ở Nakhorn See Thammart thuộc miền Nam. Vóc người thầy nhỏ bé nhưng săn chắc. Những buổi đầu đến trường, tôi khóc lóc giãy giụa đòi theo mẹ về, thầy But liền tóm tôi lại ôm cho tới lúc tôi nín. Lúc ấy tôi thấy thầy thật khổng lồ và đáng sợ, nhưng thời gian trôi qua, tôi cũng nhận ra rằng thực ra thầy là người nhỏ thó và chẳng có gì phải sợ. Trong tiết thể dục, sau khi chúng tôi khởi động vã mồ hôi, thầy But bảo chúng tôi ngồi thành vòng tròn vây quanh thầy rồi thầy kể cho nghe câu chuyện về một cậu nhóc tên Son Bé có trong tay một cây sáo thần. Mỗi khi gặp nguy hiểm, Son Bé sẽ rút cây sáo ra thổi - đến đoạn này tiếng kèn clarinet rộn rã của thầy But sẽ vang lên thay thế. Son Bé đã thổi sáo xua đi bao nguy hiểm khác nhau hết tuần này qua tuần khác kể từ thời khắc tôi bước vào lớp một cho đến thời khắc tôi học xong lớp năm, luôn có tiếng kèn clarinet vui tươi đồng hành. “Hôm nay chị phải về sớm.” Jom bảo tôi khi thầy Wa-thin cho lớp nghỉ. “Vậy thì không tới quán cóc nữa.” tôi thất vọng đáp. “Ừm...” Jom nhìn tôi như thể đang cân đo đong đếm trong đầu rồi liếc nhìn đồng hồ đeo tay. “Thật ra, chúng ta có thể đi, nhưng phải nhanh. Đi ô tô nhé, như vậy sẽ có chút thời gian nói chuyện.” “Được thôi,” tôi đồng ý, gượng cười kéo hộp đàn vĩ cầm khỏi tay chị. Jom quan sát điệu bộ sốt sắng của tôi với nụ cười vui thú. “Nếu cậu biết bay, chị cá là cậu đã cất cánh rồi.” “Chắc chắn. Nếu em bất ngờ hiện ra ở đó ngay lúc này thì còn hay hơn.” “Thế sao cậu không thử đào đường ngầm xem?” Jom vừa bước ra cửa vừa trêu tôi. “Không đời nào.” Tôi lắc đầu. Em sợ sẽ gặp Phra Ruang mất. Em không muốn lập tức biến thành đá như cái người Khmer trong truyền thuyết ấy đâu.”[1] [1] Theo truyền thuyết, Phra Ruang là một vị vua của vương quốc Sukho-thai đã xuất gia và mỗi lời của ngài đều trở thành sự thật. Ngài đã biến một kẻ sát nhân thành đá chỉ bằng cách bảo ông ta cứ đứng nguyên tại chỗ. “Thế không tốt sao? Cậu sẽ chẳng phải đi đâu và được nghe ‘Chai thời gian’ suốt cả ngày.” “Không, vậy không ổn.” Tôi bước một bước rồi quay sang nhìn chị. “Bài hát này là của chúng ta. Chúng ta nên cùng nghe mới phải.” Đó là lần đầu tiên tôi và Jom cùng ngồi trong chiếc xe Mercedes đen bóng tới quán cóc thay vì đi bộ buôn chuyện suốt dọc đường trong khi chú Maen lái chầm chậm phía sau như mọi khi. “Đợi chút,” Jom bảo tôi khi chúng tôi bước vào quán. Chị tới bên máy hát, lục trong túi áo lấy vài đồng xu đút vào máy. Cô gái mỉm cười khi bước trở lại bàn. Chiếc đĩa hát tự động trượt vào vị trí, kêu tách một cái. Tôi dỏng tai lắng nghe chăm chú. Nhưng không phải bài “Chai thời gian”. “Bạn nói hôm nay là sinh nhật bạn Nhưng đây cũng là ngày tôi chào đời... Mặc dù hôm nay là sinh nhật bạn Nhưng đây cũng là ngày tôi chào đời...” Ca khúc “Sinh nhật” của nhóm The Wings vang lên vui nhộn. “Chúc mừng sinh nhật, Béo.” Jom lại thọc tay vào túi áo, lấy một gói nhỏ ra dúi vào tay tôi. “Chúc mừng sinh nhật sớm.” “Cảm ơn,” tôi lầm bầm và hào hứng nhìn giấy gói dễ thương cùng ruy băng đỏ thắt nơ. “Gì vậy?” “Mở ra tự xem xem,” chị đáp với nụ cười dạn dĩ. Tôi hăng hái mở hộp quà. “Tuyệt quá!” tôi kêu lên và cẩn thận đặt món quà của Jom lên bàn. Đó là một chiếc đồng hồ cát tí hon. Bốn chiếc cột mỏng mảnh của nó làm bằng gỗ đen, bên trong đồng hồ đựng thứ cát thật mịn, và những hạt thời gian không ngừng chảy qua eo nối. “Giờ thì em có thể lưu giữ thời gian trong chiếc chai rồi.” Tôi tì cằm lên nắm tay thoả mãn nhìn chiếc đồng hồ cát. “Ai bảo vậy?” Jom đan tay lại chống khuỷu tay lên bàn. “Thực tế là cậu đang hoài phí nó.” “Thật ư?” tôi ngẩng đầu trố mắt nhìn chị. “Thôi quên đi.” Jom mỉm cười trìu mến. “Dù sao thì thời gian và đồng hồ cát đều của cậu cả. Cậu muốn làm gì với chúng là quyền của cậu.” “Em hứa sẽ cố hết sức giữ gìn cả hai thật tốt,” tôi hứa. “Tốt,” chị nói. “Đứng dậy bỏ đĩa hát khác vào đi, đĩa của chúng ta ấy.” “Đương nhiên rồi,” tôi đồng tình, bắt chước giọng của phát thanh viên trên đài thông báo; “Cô Jom muốn tặng ca khúc này cho anh Béo nhân sinh nhật của anh. Khi bạn lắng nghe ca khúc, xin hãy giành chút thời gian nghĩ tới người yêu cầu bài hát.” “Ngốc!” Jom vơ mấy thanh kẹo lạc ném vào tôi. “Cậu điên rồi Béo!” Khi hai anh em tôi còn nhỏ, sinh nhật thật quan trọng và nhiều ý nghĩa. Mẹ sẽ chuẩn bị quàn áo mới cho chúng tôi cũng như mấy món ăn đặc biệt cùng với hoa, nhang và nến theo phong tục để cúng dường cho các nhà sư. Bà sẽ đánh thức hai anh em, bảo chúng tôi thay quần áo, rồi chúng tôi cùng khuân đủ thứ ra xe, lái loanh quanh tìm nơi thích hợp để đồ cúng dường, thường là khoảng nền rộng của cột Sao Ching Cha, hoặc đâu đó trong quận Bang Lamphu. Bố sẽ là người ra hiệu cho các nhà sư tới nhận đồ cúng dường của chúng tôi và ông chỉ chọn người nào nom thật tự chủ, điềm tĩnh. Khi gặp một nhà sư nom sốt ruột hoặc không sạch sẽ, ông giả bộ ngó lơ, đợi cho tới khi gặp đươc người ưng ý. “Ngay cả với việc cúng dường, anh cũng làm bộ quan trọng và chơi trò kén cá chọn canh,” mẹ luôn thích bới móc bố. “Chúng ta cúng dường là để đóng góp cho đạo chứ không phải để nuôi những kẻ mờ ám ẩn dưới áo cà sa,” bố trả miếng liền. “Nếu ta nuôi những kẻ như vậy thì có khác gì ta đang góp phần vào việc làm suy đồi tôn giáo.” “Hừ, anh quá lắm, thật đấy!” Mẹ buông một hơi thở dài não ruột. “Sao anh không thể chấp nhận sự việc như nó vốn có?” “Không đời nào,” bố phản bác. “Chả tốn mấy sức đâu: cứ ra cửa chợ là cô sẽ thấy ngay mấy nhà sư đứng trước quầy hàng cúng dường. Người cúng vừa quay lưng đi là đám sư sãi đó đã bưng đồ cúng tếch thẳng ra chỗ bọn bán hàng. Chúng móc ngoặc với nhau cả, mấy tay sư sãi lấy phần của mình, đó là trò khỉ sinh lời của chúng, tôi dám chắc.” Tôi và Ning vố quen ngưỡng mộ những quan điểm kì dị của bố, nhưng chúng chỉ khiến mẹ lắc đầu ngao ngán đến cực cùng. Còn sinh nhật tôi năm nay, không quần áo mới, không cúng dường, và không bố. Ning đánh thức tôi từ sớm tinh mơ. Nó đặt một hộp quà dẹt xuống giường cạnh tôi. “Chúc mừng sinh nhật, anh trai.” Nó mỉm cười nhìn tôi. Tôi ngồi dậy, với tay lấy món quà của Ning mở ra. “Đẹp lắm!” tôi kêu lên khi thấy vỏ gối màu lơ nhạt thêu nguệch ngoạc đôi chim bồ câu đậu trên một trái tim. “Đáng yêu quá!” Ning chộp lấy chiếc đồng hồ cát ở đầu giường ngắm nghía. “Anh mua ở đâu vậy?” “Anh không mua,” tôi đáp trong khi gấp vỏ gối đặt trở lại hộp. “Chị Jom tặng sinh nhật anh.” “Thật ra em muốn mua một món quà thật đẹp cho anh, anh Nat à.” Ning đặt chiếc đồng hồ cát về lại chỗ cũ. “Em đã ngắm bao nhiêu thứ, nhưng em không có tiền. Vậy nên em tặng anh bài thủ công của em.” “Không sao đâu, thế này là quá đủ rồi,” tôi an ủi cô em gái mặt đã trắng bệch. “Em đã tặng anh bài thủ công của em trong khi đáng lẽ phải nộp cho cô giáo.” “Em có thể làm lại mà.” Ning nhìn tôi chăm chú. “Mất mấy ngày thôi.” Tôi gật đầu và dịu dàng vuốt tóc con bé. Ning ghét nhất việc may vá nhưng mẹ lại thích vô cùng và bà luôn ép Ning phải giống mình. “Nộp cái này cho cô giáo trước đi. Đưa anh sau cũng được.” Tôi trả con bé gói quà. “Không.” Ning lắc đầu nguầy nguậy tới mức mớ tóc mái lăng bên này qua bên nọ. “Em thêu nó cho anh. Anh cầm đi.” “Ngốc ạ.” Tôi cầm hộp quà lên khẽ cụng vào đầu nó. “Mẹ dậy chưa?” “Chưa,” con bé đáp rồi ngoảnh ra ngoài cửa sổ nhìn về phía một chú chim ác là nhỏ bé đang nhảy nhót trên cành xoài. “Chắc đêm qua mẹ dùng nhiều thuốc ngủ.” Tôi thở dài. Gần đây mẹ khó ngủ nên thường phải dùng đến thuốc. Thi thoảng thuốc khiến mẹ ngủ tới tận trưa. Đêm xuống, mẹ vẫn tỉnh như sáo, vậy là bà lại phải uống thêm thuốc, cứ như thế bà luẩn quẩn trong cái vòng hung hiểm do chính mình tạo ra, như một chú cún rượt theo cái đuôi của chính mình. “Nat, anh có muốn đi chào mẹ bây giờ không?” Ning dịu dàng hỏi. Đã thành truyền thống, cứ mỗi dịp sinh nhật là chúng tôi lại tới quỳ lạy chào bố mẹ và đợi lời chúc của hai người. Nhưng năm nay, tôi cảm thấy chán ngán khôn tả. “Có lẽ để tối đi,” tôi vươn người. “Anh không muốn làm phiền mẹ bây giờ.” “Vậy em đi thay đồ. Như thế hai anh em mình có thể đón cùng xe buýt.” Ning đứng dậy. “Mau lên,” tôi vừa hét theo nó vừa ra khỏi giường. Lối đi từ nhà chúng tôi ra đường lớn thật yên tĩnh vào buổi sớm và ngập tràn không khí ngoại ô. Con đường đẫm sương mai, đám cỏ dày bên đường còn vương lóng lánh những hạt sương. Bụi cây trái nổ vươn những cánh hoa tím mỏng manh đón chào lũ bướm và chuồn chuồn. Ning dừng chân hái trái nổ. Nó bóp mở trái bằng bàn tay ướt đẫm và một giây sau những trái màu nâu sẫm bật tách ra. Tôi nhớ lại mấy năm về trước bố đưa hai đứa tới Hua Hin. Hai anh em - tôi và Ning – đi hái trái cườm thảo suốt cả ngày. Khi ấy chúng tôi thấy những hạt đen đen chấm đỏ ấy quá dị thường đến nỗi đem khoe hết với mọi người xung quanh. Xa xa, một nhà sư đang bước tới, tấm áo cà sa chói mắt, Ning đứng lại nhìn tôi. Hai mắt chúng tôi thoáng gặp nhau rồi cùng lảng đi. “Nat?” Ning khẽ gọi tên tôi. “Thôi bỏ đi.” Tôi lắc đầu. Vị sư lặng lẽ bước qua chúng tôi. Đầu cúi gằm, ông ta dán mắt xuống đất không hề liếc chúng tôi lấy một cái hay lưu tâm gìtới cảnh vật xung quanh. Tôi quay đầu nhìn vị sư lần nữa trước khi theo Ning bước vào đường lớn.