Jonathan Boling, trông có vẻ rất hào hứng, đang bước về phía Dance trong gian tiền sảnh trụ sở của CBI. Cô đưa cho anh một thẻ ra vào tạm thời. “Cảm ơn anh đã đến.” “Tôi bắt đầu thấy nhớ nơi này rồi đấy. Tôi cứ nghĩ mình đã bị đuổi việc.” Dance mỉm cười. Khi cô gọi tới Santa Cruz cho vị giáo sư, nữ đặc vụ đã làm gián đoạn việc chấm bài cho một lớp học hè của anh (cô tự hỏi liệu mình có thể làm gián đoạn trong lúc anh đang thu xếp một cuộc hẹn hò hay không) và Boling đã vui vẻ bỏ ngang việc đang làm, lái xe trở lại Monterey. Trong văn phòng của mình, Dance đưa cho anh nhiệm vụ mới nhất: Máy tính xách tay của Greg Schaeffer. “Tôi thực sự rất mong mỏi tìm ra Travis, hay thi thể của cậu ấy. Anh có thể xem qua trong đó, tìm kiếm bất cứ thông tin nào liên hệ tới các địa danh trong vùng, hướng lái xe, bản đồ… Bất cứ điều gì đại loại như thế được không?” “Tất nhiên là được,” anh chỉ về phía chiếc máy tính hiệu Toshiba. “Có mật khẩu không?” “Lần này thì không.” “Tốt.” Anh nhấc nắp máy lên và bắt đầu gõ bàn phím. “Tôi sẽ tìm kiếm mọi thứ có thời điểm thiết lập hoặc từng được truy cập trong hai tuần vừa qua. Như vậy nghe có ổn không?” “Chắc rồi.” Dance cố không mỉm cười thêm lần nữa khi quan sát anh cúi người ra trước đầy hào hứng. Các ngón tay anh lướt trên bàn phím như một nghệ sĩ piano. Sau một lúc, anh ngồi thẳng người trở lại. “À, có vẻ hắn không dùng nó nhiều lắm cho những gì hắn định làm ở đây, ngoài tìm kiếm các blog và đường dẫn RSS, cũng như để gửi email cho bạn bè và đối tác làm việc - và không ai trong số họ có liên quan gì tới kế hoạch giết Chilton của hắn. Song đó chỉ là những tập tin chưa bị xóa. Hắn đã thường xuyên xóa các tập tin và trang web truy cập trong tuần vừa qua. Tôi đoán đó sẽ là những thứ cô quan tâm nhiều hơn.” “Phải. Anh có thể tái tạo lại chúng không?” “Tôi sẽ lên mạng tải về một trong những phần mềm của Irv. Chương trình đó sẽ tìm kiếm trong không gian trống trên ổ C và tập hợp lại tất cả những gì hắn mới xóa đi gần đây. Một phần không còn nguyên vẹn và một phần chắc sẽ bị biến dạng. Nhưng đa số các tập dữ liệu sẽ có thể đọc được đến chín mươi phần trăm.” “Thế thì tuyệt quá, Jon.” Năm phút sau, phần mềm của Irv lặng lẽ mò mẫm trong máy tính của Schaeffer, tìm kiếm các phần của những tệp dữ liệu đã bị xóa, lắp ráp chúng lại và chuyển vào một thư mục mới Boling đã thiết lập. “Sẽ mất bao lâu?” Dance hỏi. “Sẽ mất vài giờ, tôi đoán vậy,” Boling nhìn đồng hồ đeo tay của mình rồi gợi ý họ nên đi ăn tối một chút. Hai người chui vào chiếc Audi của anh và tới một nhà hàng nằm cách trụ sở CBI cũng không mấy xa, tọa lạc trên một triền đồi nhìn xuống sân bay, xa xa hơn nữa là thành phố Monterey và khu vịnh. Họ chọn một bàn ngoài hiên, được làm ấm bởi những chiếc lò sưởi đốt bằng propane[1] từ trước, và ngồi thưởng thức một chai vang trắng Viognier. Lúc này mặt trời đã lặn xuống chạm mặt biển. [1. Propane: Một loại khí không màu có trong tự nhiên, dùng làm nhiên liệu để đốt hay sưởi.] Thái Bình Dương, loang rộng ra tận chân trời và nhuốm một màu đỏ cam chói lóa. Cả hai im lặng quan sát trong lúc vài vị khách du lịch gần đó hăng hái chụp lại những khuôn hình rồi đây sẽ cần phải được xử lý bằng Photoshop để có thể bắt kịp vẻ lộng lẫy của cảnh thực. Hai người trò chuyện về các con Dance, về chính tuổi thơ của họ, về quê hương bản quán của mỗi người. Boling bình luận rằng anh tin chỉ hai mươi phần trăm cư dân vùng bờ biển miền Trung là người California chính gốc. Lặng yên lại lần nữa xen vào giữa họ. Dance cảm nhận thấy đôi vai người đối thoại với cô đang nhô lên và chờ đợi những gì chuẩn bị xảy đến tiếp theo. “Tôi có thể hỏi cô một chuyện được không?” “Tất nhiên,” cô thực sự có ý đó, không hề giữ kẽ. “Chồng cô mất khi nào vậy?” “Chừng hai năm trước.” Hai năm, hai tháng, ba tuần. Cô có thể cho anh biết cả số ngày và số giờ nữa. “Tôi chưa bao giờ bị mất đi ai đó. Không phải theo cách đó,” có chút buồn bã trong giọng nói của anh, và hai bên mi chớp chớp giống như những khung cửa chớp lật dao động theo gió. “Chuyện gì đã xảy ra vậy, cô không ngại kể cho tôi chứ?” “Không hề. Bill là một nhân viên FBI, làm việc tại văn phòng địa phương. Song chuyện đó không có gì liên quan tới công việc cả. Một vụ tai nạn trên Xa lộ 1. Một chiếc xe tải. Người lái xe ngủ gật,” giọng cô cười chua chát. “Anh biết đấy, tôi chưa bao giờ nghĩ tới chuyện đó cho tới tận lúc này. Các đồng nghiệp và bạn bè của anh ấy vẫn tiếp tục đặt hoa bên đường trong chừng một năm sau khi vụ tai nạn xảy ra.” “Một cây thập tự?” “Không, chỉ hoa thôi,” cô lắc đầu. “Chúa ơi, tôi ghét điều đó. Những thứ nhắc người ta nhớ lại. Tôi đã lái xe vòng xa khỏi lộ trình bình thường của mình hàng dặm để tránh nơi ấy.” “Chắc phải kinh khủng lắm.” Dance cố gắng không thực hành các kỹ năng ngôn ngữ cơ thể của mình trong những dịp ra ngoài xã giao. Đôi khi cô quan sát bọn trẻ, đôi lúc lại đánh giá người có hẹn với mình. Song cô nhớ lúc bắt quả tang Wes nói dối về một chuyện nhỏ nhặt và cậu bé cằn nhằn, “Mẹ, mẹ cứ như Superman ấy. Mẹ đúng là có tia X để chiếu lời nói vậy.” Lúc này, cô biết rõ mặc dù Boling vẫn giữ một nụ cười thông cảm trên khuôn mặt, ngôn ngữ cơ thể của anh đã có sự thay đổi kín đáo. Bàn tay đang cầm ly rượu của anh dường như siết chặt hơn. Bên tay còn lại, các ngón cọ vào nhau một cách bồn chồn. Những hành vi cô biết thậm chí anh còn không ý thức được. Dance chỉ việc mồi bơm. “Thôi nào, Jon. Đến lượt anh kể chuyện rồi. Câu chuyện của anh là thế nào? Anh luôn rất mơ hồ về chủ đề độc thân.” “Ồ, chẳng có gì giống với tình hình của cô đâu,” anh đang cố giảm nhẹ điều gì đó rất đau khổ, cô có thể thấy rõ là vậy. Cô không phải là chuyên gia trị liệu tâm lý, đừng nói gì tới chuyện là chuyên gia của Jon. Song hai người họ đã kề vai sát cánh một thời gian, và cô muốn biết cái gì đang khiến anh bất an. Cô áp bàn tay lên cánh tay anh trong giây lát. “Thôi nào. Hãy nhớ tôi kiếm sống bằng việc thẩm vấn người khác. Sớm muộn gì tôi cũng sẽ tìm hiểu được nó từ anh.” “Tôi không bao giờ đi ăn với ai đó muốn dồn tôi vào thế bí ngay từ lần hẹn hò đầu tiên. À phải, cũng còn tùy.” Dance đã đi tới chỗ nhận ra Jon Boling là một người sử dụng những câu châm biếm thông minh làm áo giáp hộ thân. Anh nói tiếp, “Đây có lẽ là vở kịch tồi tệ nhất cô từng được nghe qua... Người con gái tôi gặp sau khi rời Thung lũng Silicon. Cô ấy có một hiệu sách ở Santa Cruz. Cô biết Bay Beach Books không?” “Tôi nghĩ mình đã từng tới đó.” “Chúng tôi rất hợp nhau, Cassie và tôi. Cùng nhau ra ngoài rất nhiều. Có vài chuyến đi thực sự tuyệt vời. Thậm chí cô ấy còn sống sót qua được vài buổi họp mặt cùng gia đình tôi - à, thực ra chỉ có mình tôi gặp vấn đề với những dịp như thế.” Anh nghĩ ngợi trong một phút. “Cái chính là chúng tôi cười rất nhiều. Tôi nghĩ điều đó mới quan trọng. Cô thích nhất loại phim nào? Chúng tôi chủ yếu xem phim hài. Tốt thôi, cô ấy đã ly thân, nhưng chưa ly hôn. Ly thân về pháp lý. Cassie hoàn toàn trung thực về chuyện đó. Cô ấy tự kể cho tôi tất cả. Lúc đó cô ấy đang thu xếp các thủ tục giấy tờ.” “Cô ấy có con?” “Phải, hai đứa. Một trai một gái, cũng như cô. Những đứa trẻ tuyệt vời. Phân chia thời gian sống bên cạnh cô ấy và người chồng cũ.” “Ý anh là người-chưa-hoàn-toàn-là-chồng-cũ của cô ấy,” Dance im lặng đính chính, và tất nhiên đoán ra phần còn lại của câu chuyện. Anh nhấp thêm một ngụm vang mát lạnh. Một cơn gió vừa thổi đến, mặt trời lặn dần, và nhiệt độ hạ xuống. “Chồng cũ của cô ấy là một kẻ bạo hành. Không phải về thể xác; hắn ta không bao giờ hành hung vợ hay bọn trẻ, nhưng luôn sỉ nhục, hành hạ vợ mình.” Anh buông ra một tiếng cười ngạc nhiên. “Cái này không đúng, cái kia không đúng. Cô ấy rất thông minh, tử tế, chu đáo. Nhưng luôn bị hắn ta miệt thị. Tối qua tôi đã nghĩ đến chuyện đó,” nói tới đây, giọng anh trầm xuống, sau khi vừa để lộ một chút thông tin mà anh ước gì không lỡ miệng nhắc đến. “Anh ta là một tên sát nhân hàng loạt về tình cảm.” “Một cách diễn đạt rất hay để nói về chuyện đó.” “Và thật tự nhiên, cô ấy quay lại với anh ta,” khuôn mặt Boling lặng thinh trong khoảnh khắc hồi tưởng lại một biến cố cụ thể, Dance thầm đoán. Trái tim chúng ta hiếm khi đáp lại điều gì đó trừu tượng; chính những phần hồi ức bé nhỏ sắc nét làm bùng lên cảm xúc. Rồi vẻ bề ngoài của anh trở lại dưới dạng một nụ cười với đôi môi mím chặt. “Hắn ta được thuyên chuyển đến Trung Quốc, và họ phải đi theo, Cassie và bọn trẻ. Cô ấy nói rất xin lỗi, cô ấy luôn yêu tôi, nhưng cô ấy phải quay lại với chồng... Tôi chưa bao giờ thực sự hiểu được phần bắt buộc trong các mối quan hệ. Chẳng hạn, cô cần phải thở, cô cần phải ăn... Nhưng ở lại với một gã khốn ư? Tôi chẳng thể thấy được sự cần thiết. Nhưng giờ tôi lại đang nói về... à, hay chúng ta sẽ gọi câu chuyện là một tiếng gọi tồi tệ ‘khổng lồ’ về phần của tôi, còn cô có một bi kịch thực sự.” Dance nhún vai. “Trong công việc của tôi, cho dù đó là một vụ giết người có chủ ý, truy sát hay làm chết người không định trước trong quá trình gây án, một cái chết vẫn là một cái chết. Cũng giống như tình yêu vậy; khi nó tan vỡ, cho dù lý do là gì, nỗi đau vẫn luôn hiện hữu.” “Tôi đoán thế. Nhưng yêu một người đã kết hôn quả là một ý tưởng tồi, đó là tất cả những gì tôi muốn nói.” Amen, Kathryn Dance lại thầm nghĩ, và thiếu chút nữa bật cười thành tiếng. Cô rót thêm một chút vang vào ly của mình. “Cô thấy chuyện đó thế nào?” anh hỏi. “Chuyện gì cơ?” “Chúng ta đã thành công trong việc đề cập tới hai câu chuyện cực kỳ riêng tư và buồn phiền trong một khoảng thời gian rất ngắn. Thật hay vì không phải chúng ta đang hẹn hò,” anh nói thêm với một nụ cười toe toét. Dance mở thực đơn ra. “Hãy cùng gọi chút đồ ăn nào. Ở đây họ có...” “...Những chiếc calamari burger ngon nhất thành phố,” Boling nói. Dance bật cười. Cô đang định nói ra đúng những lời này. ~*~ Cuộc tìm kiếm trong máy tính tỏ ra vô ích. Dance trở lại phòng làm việc của cô với giáo sư sau khi thưởng thức món mực ống và salad, cả hai đều nóng lòng muốn biết những gì phần mềm của Irv đã tìm thấy. Boling ngồi xuống, lướt qua các tệp dữ liệu và tuyên bố kèm theo một tiếng thở dài, “Số không.” “Không có gì cả sao?” “Hắn xóa các email, tệp dữ liệu và truy vấn đó đi chỉ nhằm tiết kiệm bộ nhớ. Không có gì bí mật, cũng không có gì liên quan tới vấn đề chúng ta tìm kiếm.” Cảm giác thất vọng thật khó chịu, nhưng không còn gì hơn để làm. “Cảm ơn anh, Jon. Ít nhất nhờ nó tôi cũng có được một bữa tối rất tuyệt.” “Xin lỗi,” Boling có vẻ thực sự thất vọng khi không thể giúp được nhiều hơn. “Tôi đoán mình nên quay về chấm nốt chỗ bài kiểm tra. Và sắp đồ.” “À phải, cuộc gặp gia đình cuối tuần của anh.” Boling gật đầu. Nở nụ cười căng thẳng và nói, “Woooo - hoooo” với vẻ hăng hái gượng gạo. Dance bật cười. Anh đưa người ra trước lại gần cô. “Tôi sẽ gọi cho cô khi trở về. Tôi muốn biết mọi việc kết thúc ra sao. Và chúc cô gặp may với Travis. Hy vọng cậu ấy sẽ không sao.” “Cảm ơn anh, Jon. Vì tất cả.” Cô bắt tay Jon thật chặt. “Và tôi đặc biệt mừng vì anh đã không bị đâm chết.” Một nụ cười. Vị giáo sư nắm chặt tay cô rồi quay đi. Trong lúc Dance nhìn theo anh bước đi dọc hành lang, một giọng phụ nữ vang lên làm gián đoạn dòng suy nghĩ của cô. “Này, K.” Dance quay lại và trông thấy Connie Ramirez đang bước qua sảnh về phía cô. “Con.” Đặc vụ cao cấp kia đưa mắt nhìn quanh rồi gật đầu về phía phòng làm việc của Dance. Cả hai cùng bước vào, đóng cửa lại. “Chị tìm thấy vài thứ và nghĩ em sẽ muốn biết. Từ bệnh viện.” “Ồ, cảm ơn chị, Con. Chị làm được bằng cách nào vậy?” Ramirez ngẫm nghĩ. “Chị đã trung thực một cách trí trá.” “Em thích chuyện đó.” “Chị giơ phù hiệu ra và tung cho họ vài chi tiết về một vụ khác mà mình đang điều tra. Vụ gian lận chi phí y tế.” CBI cũng điều tra các loại tội phạm tài chính. Trường hợp Ramirez vừa nhắc đến là một vụ gian lận bảo hiểm nghiêm trọng - các đối tượng sử dụng danh tính những bác sĩ đã qua đời để dựng lên các hồ sơ y khoa giả dưới tên của họ. Dance thầm nghĩ, đây là kiểu vụ việc mà Chilton rất có thể sẽ viết đến trên blog của ông ta. Và đó lại là một lựa chọn thật thông minh của Connie; nhiều nhân viên của bệnh viện có mặt trong danh sách nạn nhân, và lợi ích của họ gắn liền với việc giúp đỡ nhân viên điều tra. “Chị yêu cầu họ cho xem sổ đăng ký vào viện. Trong cả tháng, như thế Henry sẽ không nghi ngờ. Họ rất nhiệt tình hợp tác. Và đây là thứ tìm được: Vào ngày Juan Millar qua đời có một bác sĩ khách mời - bệnh viện đang tổ chức hàng loạt khóa giảng chuyên ngành diễn ra liên tục, và có lẽ vị bác sĩ tới vì việc này. Có sáu người đến xin việc - hai người cho các vị trí bảo trì, một người tại nhà ăn tự phục vụ và ba y tá. Chị đã sao lại lý lịch của họ. Theo như chị thấy, không ai có vẻ đáng ngờ. Còn bây giờ là điều thú vị đây: Có sáu mươi tư người vào bệnh viện hôm đó. Chị đã kiểm tra tên những người này với bệnh nhân được thăm viếng, và tất cả đều đăng ký ra về. Trừ một người.” “Ai vậy?” “Thật khó đọc được cái tên này, cho dù là bản in ra hay chữ ký. Nhưng chị nghĩ đó là Jose Lopez.” “Anh ta vào thăm ai vậy?” “Người này chỉ ghi ‘bệnh nhân’.” “Quả là dễ tìm trong một bệnh viện,” Dance mỉa mai nói. “Sao chuyện này lại đáng ngờ?” “À, chị nghĩ nếu ai đó có mặt tại bệnh viện để giết Juan Millar, anh ta hay cô ta hẳn trước đó từng phải đến bệnh viện - hoặc vào thăm, hoặc để kiểm tra bố trí an ninh và những thứ khác. Vậy là chị tìm hiểu tất cả những người trước đó từng đăng ký vào thăm cậu cảnh sát.” “Hay lắm. Và chị kiểm tra chữ viết tay của họ.” “Chính xác. Chị không phải là chuyên gia giám định giấy tờ, nhưng chị đã tìm ra một người khách từng vào gặp chàng cảnh sát nhiều lần, và gần như có thể cam đoan rằng chữ viết của y cũng chính là của Jose Lopez.” Dance ngồi nhổm người ra trước. “Ai vậy?” “Julio Millar.” “Anh trai cậu ấy!” “Chị chắc đến chín mươi phần trăm. Chị đã sao lại mọi thứ,” Ramirez đưa cho Dance một tập giấy. “Ôi, Connie, tuyệt quá.” “Chúc may mắn. Nếu em cần gì thêm, cứ cho chị biết.” Dance ngồi một mình trong phòng làm việc, ngẫm nghĩ về thông tin vừa nhận được. Có lẽ nào Julio thực sự giết em trai mình? Thoạt đầu, việc này có vẻ không có khả năng, nếu căn cứ vào sự tận tâm và tình yêu Julio dành cho người em trai. Thế nhưng, không nghi ngờ gì nữa, vụ giết người là một hành động nhân đạo, và Dance có thể hình dung ra một cuộc trò chuyện giữa hai anh em - Julio cúi người xuống trong lúc Juan thì thào cầu xin anh trai hãy giải thoát cậu ta khỏi nỗi thống khổ. Giết em đi... Ngoài ra, tại sao Julio lại mạo danh trong tờ đăng ký vào thăm? Tại sao Harper và các nhân viên điều tra tiểu bang lại bỏ sót mối liên hệ này? Cô giận sôi lên, thầm nghi ngờ rằng họ biết về nó, nhưng đã dìm vụ việc này xuống vì truy cứu mẹ đẻ một nhân viên thực thi luật pháp của tiểu bang sẽ là một màn quảng cáo ấn tượng hơn cho Robert Harper để chống lại dự luật chết-trong-phẩm-giá. Những suy nghĩ về cách hành xử thiếu trung thực của vị công tố viên cứ ong lên trong đầu cô. Dance gọi cho George Sheedy và để lại lời nhắn về khám phá của Connie Ramirez. Sau đó cô gọi cho mẹ để trực tiếp báo cho bà biết. Không ai trả lời máy. Khỉ thật. Chẳng lẽ mẹ cô không nhận cuộc gọi? Cô ngắt liên lạc rồi ngồi xuống, ngẫm nghĩ về Travis. Liệu cậu ta còn sống không và sẽ cầm cự được trong bao lâu? Vài ngày, nếu không có nước. Sẽ là một cái chết khủng khiếp biết chừng nào. Một cái bóng nữa hiện lên trên khung cửa phòng. TJ Scanlon xuất hiện, “Này, sếp.” Cô cảm thấy có điều gì đó khẩn cấp. “Kết quả điều tra hiện trường à?” “Vẫn chưa, song tôi đang theo sát vụ đó. Rawhide, sếp nhớ chứ? Chuyện này là việc khác. Tôi vừa nhận được tin từ MCSO. Họ nhận được một cuộc điện thoại nặc danh... liên quan tới vụ Cây thập tự ven đường.” Dance hơi nhổm người lên. “Là chuyện gì vậy?” “Người gọi điện cho hay anh ta nhìn thấy, xin trích nguyên lời, ‘thứ gì đó gần đường Harrison và đường Pine Grove’. Ở ngay phía nam Carmel.” “Không có gì thêm sao?” “Không. Chỉ là ‘thứ gì đó’, tôi đã tìm hiểu vị trí nơi ấy. Nó nằm gần khu công trường xây dựng bỏ hoang. Và cuộc gọi được thực hiện từ điện thoại công cộng.” Dance do dự trong khoảnh khắc. Đôi mắt nhìn chăm chăm vào một tờ giấy, mẫu in những bài viết trên Bản tin Chilton. Cô đứng dậy, vớ lấy áo khoác. “Sếp định tới đó để kiểm tra?” TJ hỏi với vẻ không mấy chắc chắn. “Phải. Tôi thực sự muốn tìm ra cậu ấy nếu có bất kỳ cách nào.” “Chỗ đó có vẻ là một khu vực không an toàn lắm đâu, sếp. Muốn hỗ trợ không?” Dance mỉm cười. “Tôi không nghĩ mình sẽ gặp nhiều nguy hiểm.” Khó có chuyện đó, khi thủ phạm giờ đây đang nằm trong nhà xác của hạt Monterey. ~*~ Trần tầng hầm được sơn đen kịt. Bên trên có mười tám thanh xà, tất cả cũng đều màu đen. Các bức tường tuyền một màu trắng bẩn thỉu, được phết qua quýt bằng loại sơn rẻ tiền, được tạo nên từ tám trăm chín mươi hai khối gạch xỉ. Có hai cái tủ kê sát tường, một tủ kim loại màu xám, một tủ gỗ có màu trắng không đồng màu. Bên trong đó chứa một lượng lớn thực phẩm đóng hộp, những hộp đựng pasta, soda và rượu vang, dụng cụ, đinh, đồ dùng cá nhân như kem đánh răng, nước khử mùi. Bốn trụ bằng kim loại chĩa lên trần, chống đỡ tầng một. Ba cây nằm khá sát nhau, một trụ nằm cách xa hơn. Chúng được sơn màu nâu sẫm, nhưng đã bị hoen gỉ và thật khó lòng phân biệt được đâu là sơn, đâu là kết quả của quá trình ôxy hóa. Sàn tầng hầm láng bê tông, các vết nứt trên sàn tạo ra những hình thù quen thuộc nếu bạn nhìn thật chăm chú vào chúng đủ lâu: Một con gấu trúc đang ngồi, bang Texas, chiếc xe tải. Một cái lò sưởi cũ, bụi bặm méo mó, nằm trong góc. Nó chạy bằng ga và hiếm khi được bật lên. Song ngay cả khi được khởi động, nó cũng chẳng làm khu tầng hầm ấm lên là mấy. Kích thước gian tầng hầm một chiều ba mươi bảy foot, một chiều hai mươi tám foot, điều này có thể tính toán được dễ dàng từ các khối gạch xỉ, vốn có kích thước chính xác rộng mười hai inch[2] và cao chín inch, cho dù bạn còn phải cộng thêm một phần tám inch cho mỗi mạch vữa gắn kết chúng với nhau. [2. Inch: Đơn vị đo độ dài của Anh, bằng 2.54 cm.] Cũng có kha khá sinh vật sống ở nơi này. Phần lớn là nhện. Bạn có thể đếm được bảy gia đình, nếu quả thực lũ nhện có sống thành gia đình, và dường như chúng phân định lãnh thổ rất rõ ràng để tránh xâm phạm lẫn nhau và bị các gia đình khác chén thịt. Lũ bọ rùa và rết cũng có mặt. Thỉnh thoảng có cả muỗi và ruồi. Có một sinh vật nào đó lớn hơn đã bày tỏ sự quan tâm tới việc dự trữ thức ăn và đồ uống ở góc xa của tầng hầm, một con chuột nhắt hay chuột cống. Nhưng sau đó nó dần trở nên dè dặt và rời đi không quay lại. Hay đã bị đánh bả và chết. Một ô cửa sổ, ở cao tít trên tường, cho phép chút ánh sáng lờ mờ chiếu qua, song không đủ để nhìn thấy gì; nó đã bị sơn lại bằng màu trăng trắng. Bây giờ chắc đã tám hay chín giờ tối, và khung cửa gần như tối đen. Bầu không khí im lặng đột nhiên bị phá vỡ khi tiếng bước chân vang lên ở tầng một, phía trên đầu. Một khoảng ngừng. Rồi cửa trước mở, sau đó lại bị đóng sập lại. Cuối cùng, khi kẻ bắt cóc cậu ta đã rời đi, Travis Brigham có thể thả lỏng. Theo lịch trình mọi thứ diễn ra trong mấy ngày vừa qua, sau khi kẻ bắt cóc đi khỏi vào buổi tối, hắn sẽ chỉ quay lại vào sáng hôm sau. Lúc này Travis nằm co ro trên giường, kéo cái chăn gamy sát quanh người. Đây là thời điểm nhẹ nhõm nhất trong ngày của cậu: Ngủ. Travis đã học được rằng, ít nhất trong giấc ngủ, cậu cũng có được một quãng thời gian thoát ra khỏi cảm giác tuyệt vọng.