Thủ chết rồi, Khuê vẫn tiếp tục hiện về. Đôi khi cả nhà chỉ linh cảm thấy chứ ko hề trông thấy thực sự. Bà Chánh sang ngủ hẳn bên Cúc, bỏ trống căn buồng bên kia. Ông Chánh có về thì cũng nằm một mình chứ bà ko chịu chung chăn chung gối với ông nữa. Cái chết của Thủ làm ông vui mừng lúc đầu nhưng càng ngày càng cảm thấy sợ. Thằng Sử nói đúng, Khuê sống khôn thác thiên, hồn còn phản phất ở dương gian chưa siêu thoát được. Mà ông thì tự ái, nhất định ko chịu rước thầy cúng, thầy pháp đến cầu siêu cho con. Thậm chí hễ bà Chánh hay Cúc nhắc đến việc Khuê hiện về, ông còn trợn mắt mắng át đi: - Chỉ nói láo nói lếu. Tao gần 50 tuổi rồi, tao chưa có thấy ai chết mà hiện về cả. Bà Chánh bực mình nói bóng gió: - Tôi ko muốn tin thì cũng phải tin đây này. Tôi muốn con tôi yên gnhỉ chứ về làm gì, nhưng mà nó chết oan thì hồn chưa yên nghỉ được. Ông đọc Kiều, ko nhớ cái đoạn viếng mả Đạm Tiên hay sao? Ông thử nghỉ mà xem tại sao thằng Thủ đi mất biệt cả mấy tháng, bổng dưng mò về thắt cổ ngay tại chổ con mình chết? Ai xui khiến nó chớ? Ko phải là hồn cái Khuê hay sao? Không phải là con tôi chết tức chết tưởi hay sao? Ông Chánh muốn cãi thâm, nhưng bà Chánh đã vùng vằng bỏ đi chổ khác. Ông biết con ông về chứ, nhưng đời nào ông thú nhận chuyện đó. Ông chán nản và lại bỏ sang nhà cô vợ trẻ. Mọi khi mỗi lần ông đi, bà Chánh cũng đều níu kéo hoặc hờn dỗi vì ghen tương nhưng bây giờ thì bà để mặc. Bà còn thương nhớ Khuê lắm cho nên ko muốn nhìn gương mặt ông chồng tàn ác. Ông sang ở nhà vợ lẽ được mấy hôm thì tự dưng lại thấy bồn chồn muốn về. Mấy hôm nay ông bổng nhớ lại lời ông thầy địa lý người tàu bảo ông sau khi tao ngộ xong ngoài cánh đồng làng, thầy địa lý nói: - Sách có câu rằng: Đức năng thắng số, tiên sinh nên ăn chay cầu đạo, làm phúc phóng sinh, rộng tay bố thí để bớt đi cái hạn xấu cho mình. Cái thế đất của nhà tiên sinh nằm vào bãi địa, tôi sợ ko phát được đến đời thứ hai. Lúc ấy ông Chánh chỉ cười. Ở vào địa vị ông, vừa giàu vừa oai, thế lực quen biết cả huyện lẫn tỉnh làm sao gọi là bãi nhiệm được? Nhưng bây giờ thì ông linh cảm thấy thầy địa lý nói đúng, cái hung vận của ông bắt đầu xảy đến mà khởi đầu là cái chết của Khuê do sự khắc nghiệt của ông. Ông nằm bên cô vợt rẻ mà hình dung những bất trắc của tương lai và vì vậy mới được vài hôm ông lại thấp thỏm về nhà. Đêm hôm đó trời muà hè trong và thoáng mát, ông nằm một mình trong buồng. Bà Chánh nhất định chỉ có sang ngủ với con gái như thường lệ từ ngày Khuê mất mà ông Chánh thì cứ làm ra vẻ cứng cỏi bề ngoài, giả vờ ko tin chuyện hồn ma nên ông cố giữ nét bình thản cho vợ con nể. Trăng trung tuần vằng vặc xuyên qua cửa sổ, in một khoảng sáng rực phủ gần kín cái giường cẩm lai của ông Chánh. Buồng ngủ của ông rộng lắm, ngoài cái giường lớn sát vách sau, còn có một khoảng trống kê hai cái tủ nặng chình chịch để ông giấu vàng bạc tiền của cùng những thứ văn tự nhà đất cùng những thứ giấy tờ tùy thân. Khu vườn sau có đến mấy cây bưởi, muà nở hoa đưa hương thơm ngào ngạt theo cửa sổ vào buồng. Ông nhớ lại lúc còn bé, Khuê thường lấy hoa bưởi xâu vào sợi chỉ rồi đeo trước ngực hoặc bỏ trong túi áo cánh. Mới nghĩ đến đứa con bạc mệnh, ông vội lắc đầu xua đi để đỡ bận tâm. Ông ngã đầu trên cái gối cao và cầm cái quạt giấy phe phẩy theo thói quen dù trời đang dịu mát. Ở giữa buồng ngủ của ông, đối diện hai cái tủ đứng là bộ bàn ghế, trên đó lúc nào cũng có khay trà và cái đĩa bát thuộc loại đồ cổ đắt giá mà ông Lý Trưởng mua tặng hồi mới nhậm chức. Ngoài cùng tính từ cái giường ngủ là cái vơng điều căng ngang để buổi trưa ông Chánh nằm căng ngang dỗ giấc ngủ. Ông xoay người, dùng hai thanh tre căng ngang hai đầu vơng rồi trãi chiếc chiếu nhỏ lên trên trong rất tiện lợi và đẹp mắt. Ông Chánh ngồi dậy xoay người vói tay để vặn ngọn đèn dầu đặt trên cái đôn cây sắt đầu giường rồi lại nằm xuống. Bổng có con mèo đen từ vườn sau lao vọt lên thành cửa sổ kêu thét lên một tiếng rồi đứng yên ở đó, đôi mắt xanh ngắt đăm đăm nhìn ông. Ông Chánh giật mình, gấp vội cái quạt giấy và giơ lên đuổi nhưng con mèo gan lì, đứng yên như thách thức. Ánh mắt ma quái đến rợn người. ông phải ngồi hẳn lên, đập mạnh cái quạt hai ba lần, con mèo mới quay đầu nhảy vọt xuống kêu lên mấy tiếng ai oán và mất dần trong lùm cây xanh rậm. Giữa ánh trăng vằng vặt, ít có đêm nào sáng như đêm nay, ông Chánh thở mạnh và đặt bàn tay lên ngực rồi nhắm mắt lại. Ông thấy rõ tim mình vẫn còn đập thình thịch vì kinh hãi. Bổng ông nghe xa xa từ phía cuối vườn có tiếng gọi mơ hồ, tuy vẫn nhận ra giọng Khuê nhưng âm vang sâu thẳm đến lạnh người: - Bố ơi bố, về với con, về với con bố ơi... Ông co rúm người thảng thốt nhìn ra vườn, mắt ông trợn trừng, mồm há ra nhưng á khẩu ko kêu được. Dưới ánh trăng trong suốt, ông thấy con gái ông mặc bộ đồ trắng toát đứng khép nép đằng xa dưới rặng tre dùng để làm hàng rào ngăn lảnh thổ nhà ông với nhà hàng xóm, bổng đang tiếp tục gọi ông như thúc giục: - Bố ơi bố, về với con. Ông ko dám ngó ra vườn nữa, ông ngồi co rúm trên giường một lúc để trấn áp nổi kinh sợ, toàn thân ông run rẩy và lạnh toát. Một lúc sau ko thấy tiếng gọi hồn nữa, ông mới đưa tay toan hạ liếp cửa sổ thì bổng thấy một vệt đen khá lớn quét ngang giường ngủ như cái bóng râm của một người đi trên nền đất khi đi giữa ánh mặt trời. Cái bóng đen lướt nhanh qua người ông, từ từ in trên nền nhà và biến mất ở bức vách cuối vườn. Khi ngang qua người ông, mùi hoa bưởi toát ra thật nồng nàn. Ông hoang mang ngồi thêm một chút rồi lại nằm xuống. Bổng ông nghe tiếng vơng đưa kẻo kẹt, ông giật thót người quay nhìn sang sửng sốt vì cái vơng trong buồng ông chỉ cách giường ông nằm chừng ba thước đang đong đưa như có người nằm trên đó. Ông run lập cập, ngồi thu mình trong góc giường mắt mở trừng trừng nhìn cái vơng vẫn lắc lư đều đặn và tiếng kêu kẻo kẹt phát ra như có người khá nặng nề trì xuống. Tim ông gần nghẹt thở, ông lật đật bám lấy thành giường bước xuống, quơ tay vơ lấy cái ba ton dựng ngay ở cuối giường để tự vệ. Mắt vẫn lăm đăm nhìn về phía cái vơng, bàn tay ông run run nắm được cây gậy quen thuộc.