Triệu Khuông Dận muốn rời giá về kinh, tren đường ông ta chậm rãi đi qua nơi ở cũ, nhìn mái hiên chưa hề tay đổi, nhìn đầu thường mà mình từng bò qua, nhìn cây táo nhà hàng xóm mà mình từng hái trộm, phảng phất như quay lại thời trẻ con vậy, đế quân một đời cũng không khỏi ruột mềm trăm mối. Chuyện xưa vẫn như sờ sờ ở trước mắt, nhưng ông ta đã từ một người hán tử cô độc, cầm một cây gậy bước ra khỏi nhà lang bạt thiên hạ, biến thành cửu ngũ chí tôn, chủ của Trung Nguyên, vô số chúng thần vây quanh, thân ở đỉnh cao của nhân thế, nhưng trong lòng lại cảm thấy tịch mịch vô hạn. Đứng trong một ngõ hẻm, trầm ngâm một hồi lâu, Triệu Khuông Dận mỉm cười: "Ta nhớ là, lúc nhỏ từng có một nhận được một con ngựa đá nhỏ, quý như trân bảo, thường bị bạn chơi cùng trộm mất, cho nên chôn ở đây, không biết nó hiện tại có còn không?" Lập tức lại có đại hán cấm quân bước lên đào, ở gần nơi mà ông ta chỉ đào ra một cái lỗ lớn, quả nhiên tìm thấy một con ngựa đá nho nho, Triệu Khuông Dận nhận lấy cầm trong tay, cũng không để ý tới bùn đất bên trên, nhẹ nhàng vuốt ve, trên mặt lộ ra vẻ ấm áp vô hắn. Ông ta hít sâu một hơi, nói: "Đi thôi, đi thôi..." Bánh xe lộc cộc, vó ngựa rền vang, đại đột nhân mã lại biến mất trước phần mộ của phụ mẫu ông ta, chào tạm biết với hai ông bà. Sau khi khóc tế song thân xong, Triệu Khuông Dận lên vọng gác của nghĩa trang, nhìn ra xung quanh, chỉ thấy phía nam có núi non, phía đông có chòm sao Thanh Long, người đá, phía tây rừng dựa sông Lạc thủy, phía bắc nối Hoàng Hà. "Địa phương tốt như vậy, cho dù Quan Trung điêu linh, ít nhất cũng nên chọn nơi này làm đế đô của ta, nơi này, ta sẽ không bỏ qua đâu!" Ông ta bỗng gọi một thị vệ cấm quan tới, lấy kình cung của hắn, đặt một mũi tên lên, hướng tới phía Tây Bắc ra sức bắn một phát, cao giọng phân phó: "Điểm dừng của tên này sẽ lấy làm hoàng đường, ta ngàn năm sau sẽ táng ở đó!" Ông ta lấy ra con ngựa đó đó, lệnh cho người chôn ở nơi tên rơi làm ký hiệu, lập tức có đại tướng thân tín tới nhận ngựa dá, dẫn hơn trăm thị vệ vội vàng phi đi, tìm nơi tên rơi. Triệu Khuông Dận lại nhìn núi cao nước xanh, nói: "Đi, về Biện Lương!" Lúc này, Dương Hạo dang trên đường bắc hành, dẫn một ngàn tám trăm cấm quân, nghênh ngang tiến về phía bắc, tới thẳng Thượng kinh. Triều hội hôm qua, Tấn vương Triệu Quang Nghĩa đột nhiên báo bệnh, không thượng triều. Đây là chuyện bình thường, trời mới vào xuân, người rất dễ sinh bệnh. Các văn võ đại thần trong mấy ngày nay cũng không ít người bỗng dưng mắc bệnh vặt, không có ai để chuyện này ở trong lòng. Vốn cho rằng triều hội ngày hôm nay không có việc gì, khi đang muốn kết thúc lệ hành thì đột nhiên nhận được quân tình cấp báo, ngoài Nhạn Môn quan có bắc nhân cướp ngũ cốc, cướp phá phóng hỏa một ven, hại vô số bách tính, thủ quân Nhạn Môn đưa tin gấp tới, song phương đại chiến, ai cũng có tử thương. Bá quan văn võ xôn xao, Dương Hạo cũng rất kinh ngạc, hắn đang chuẩn bị phái người tới bên ngoài Nhạn Môn quan chế tạo xung đột, tạo cơ hội cho mình xuất sứ Khiết Đan, nhưng tin tức của Diệp đại thiếu vẫn chưa truyền ra, không thể là người của hắn làm. Hiện giờ tình hình của bắc quốc e rằng con rối loạn hơn Tống quốc, bọn chúng còn dám tới trêu chọc người Tống ư? Văn võ trong triều nhao nhao nghị luận, có người cho rằng Bắc nhân lúc này còn dám sinh sự, phải trừng phạt thật nặng, có vị lão thành cẩn trọng thì cho rằng triều ta chiến đấu nhiều lần, chinh nam phạt bắc, lúc này nên nghỉ ngơi dưỡng sức, tích góp quốc lực, chuyện này nói không chừng là một bộ lạc cùng khổ nào đào vào đầu xuân không có thực vật, cả tộc đều sắp chết đói, bất đắc dĩ nên mới đi cướp bóc, nên giải quyết một cách hòa bình. Dương Hạo nắm lấy cơ hội này, thỉnh cầu được xuất sứ Khiết Đan, dùng thủ đoạn ngoại giao giải quyết tranh chấp. Triệu Khuông Dận đang định sau khi về kinh sẽ phái hoàng tử đi phạt Bắc Hán quốc, đây là một quả đào nhất định phải giành tới tay, tuy dự liệu Khiết Đan đang có nội loạn, sẽ không phải binh cản trở, nếu có thể nhân chuyện tới phái sứ giải tới vỗ về Khiết Đan, rõ ràng là càng thỏa đáng hơn, thế là Dương Hạo nhất phách tức hòa, lập tức đáp ứng. Lúc triều hội, Triệu Khuông Dận bí mật triệu Dương Hạo, bảo hắn tùy cơ ứng biến, hai người nói chuyện một lúc lâu, hôm sau Triệu Khuông Dận lại tới bái tể lăng mộ tổ tông rồi về Biện Lương, còn Dương Hạo thì dẫn đội tới Khiết Đan. Lúc sắp xuất quan, Dương Hạo mang theo một phong quốc thư, phong quốc thư này là Triệu Khuông Dận tự tay viết, chứ không phải là hắn thảo. Trong quốc thư có cả mềm lẫn cứng, yêu cầu Khiết Đan đừng quản chuyện Hán quốc, nếu vậy Khiết Đan bình loạn, Tống quốc sẽ giúp đỡ, bên trong có lời lẽ rất hào hùng: "Hà Đông nghịch mệnh, đáng bị hỏi tội, nếu Bắc triều không giúp, thì vẫn thân như xưa. Nếu không, chỉ có chiến mà thôi!" Triệu Khuông Dận đúng là hào kiệt, vì ông, cũng vì huynh đệ của bản thân ta, ta sẽ mạo hiểm đối phó với vị Tấn vương thiên tuế đó. Có điều, chuyện này không phải là hiện tại có thề đồ mưu được, ta phải xuất sứ Khiết Đan đã. Lần đi này, trước tiên đón Đông Nhi mệnh khổ đã rồi hẵng nói. "Đông Nhi, Đông Nhi!" Dương Hạo lẩm bẩm danh tự này, nhớ lại tình cảnh hai người từ lúc quen nhau tới nay, hai mắt liền ươn ướt, nhẹ nhàng vuốt ve bức quốc thư ở trong lòng, nói: "Đông Nhi của ta, theo lý nên đưa về. nếu Tiêu hậu chu toàn chuyện này thì vạn sự đều tốt đẹp, nếu không, ta nhất định sẽ đại náo thượng kinh, khiến cho bà sứt đầu mẻ chán, không đón được kiều thê, thề không quay lại!" Tới Nhan Môn quan thì dừng lại nghỉ ngơi chỉnh đốn, mấy thiếp thân thị vệ bọn Mục Vũ sớm đã đợi ở đó liền tới hội hợp với Dương Hạo, đoàn người xuất quan tiến về phía Đông Bắc. Tái ngoại lúc này là một đế chế văn minh khác, nếu như nói Hung Nô, Tiên Ti, Đột Quyết trước đây đều bị Trung Nguyên chế giễu là man di, không có quy phạm quốc gia, cũng không có kết cấu tổ chức hoàn thiện, càng không có thể hệ tư tưởng chín muồi, cơ cấu tổ chức của họ chỉ là một liên minh các bộ lạc, nhưng bắt đầu từ khi Khiết Đan lập quốc, tình huống đã nảy sinh biến hóa. Khiết Đan bát bộ thống nhất, tiếp đó Thất Vi, Ô Cổ, Hồi Hột, Nữ Chân các loại bộ lạc cùng với các nước Bột Hải học, phế trừ thể chế bộ lạc, bắt chước Trung Nguyên xây dựng thể chế đế quốc, thiết lập thể chế quan lại phủ đài tể tướng, tam tỉnh lục bộ và đơn vị hành chính châu, quận, huyện, xây dựng một hệ thống quốc gia giống như đế quốc Hán Đường, ra sức chiêu nạp Hán dân, cổ vũ nông canh và công thương, thu nạp văn minh của người Hán, hưng kiến Khổng miếu. Một nước hai chế độ, lấy Hán nhân của U Vân mười sáu châu làm con dân, chứ không phải là làm nô đãi, loại đế chế văn minh này, chính là nhân tố quan trọng đưa các đế quốc cường đại như Khiết Đan, Tây Hạ, Nư Chân sau này có thể vượt qua các bộ tộc du mục trước kia, trở thành đối thủ cường đại nhất của dân tộc Hán. Khi Trung Nguyên vẫn đang chiến loạn không ngừng, quốc gia Khiết Đan này dần dần lớn mạnh, thảo nguyên phương bắc, Tây Vực, thế giới Ả Rập, thậm chí là Châu Âu cũng đều cảm nhận được sức ảnh hưởng của nền văn minh của đế quốc Khiết Đan, rất nhiều dân tộc phương tây đều hiểu lầm đế quốc Khiết Đan này chính là đế quốc Trung Hoa trong truyền thuyết. Song văn minh Trung Hoa dẫu sao cũng có mấy ngàn năm nền tảng, tuy trải qua trường kỳ hỗn loạn và chiến tranh, nhưng sau khi thống nhất nó lại, lập tức sẽ lại được trút vào sinh mệnh lực cường đại. Tống quốc cái sau vượt cái trước, hiện giờ đã có được năng lực ngang vai ngang vế với Khiết Đan, hơn nữa còn có xu thế vượt lên, bắt đầu dần dần đoạt lại địa vị đáng có của Trung Nguyên trong mắt thế giới. Dương Hạo trên đường đi, phát hiện bách tính nơi này đa phần lầm canh tác làm chủ, chăn thả là phụ, đại thể giống với biên dân ở cảnh nội Tống quốc, nếu tới gần nói chuyện, sẽ phát hiện bọn họ cũng mặc Hán phục, nói Hán ngữ, không khác gì người Trung Nguyên cả. Những người sinh hoạt ở đẫn, đại đa số vẫn là người Hán, ngươi cơ hồ nhìn không ra được bọn họ với người Hán ở quan nội có gì khác nhau. Chỉ có điều hơn năm mươi năm phân cách và sự thống trị của Khiết Đan, bởi vì ở giữa hai bên dựng một tấm chắn gắn cờ hiệu của Đại Tống, Dương Hạo không nhìn thấy hình ảnh mà Tống triều tuyên truyền tư liệu cho hậu nhân. Người Hán phương bắc không hề kích động rơi nước mắt, hoan hô chiêm ngưỡng sứ giá của tổ quốc mà bọn họ ngày đêm mong ngóng như trong tưởng tượng của Dương Hạo, mà ánh mắt của bọn họ xa cách và lạnh lùng, thậm chí còn mang theo một tia địch ý. Nhìn thấy bọn họ, ngươi liền minh bạch, ngăn cách giữa hai bên không phải là ngăn cách của trọng binh và quan ải, mà là tồn tại trong lòng bọn họ. Hơn năm mươi năm trước, chính là lúc các lộ chư hầu Trung Nguyên lấy thiên hạ bách tính làm thịt cá, tàn sát lẫn nhau. Bách tính của U Vân mười sáu châu lúc đó đã bị Khiết Đan thống trị, sau đó Trung Nguyên lại trải qua rất nhiều triều đại, mới có Tống quốc ngày hôm nay. Đối với Tống quốc, bách tính của U Vân mười sáu châu không hề có cảm giác trung thành và thân thiết gì cả, Tống quốc đối với bọn họ mà nói, là một quốc gia hoàn toàn xa lạ trong ký ức. Chín cửa ải thiên hạ, Nhạn môn quan dựa vào núi, hai bên đông tây, núi non mấp mô. Lưng núi trường thành, thế núi uyển chuyện, phía đông qua Bình Hình quan, Tử Kinh quan, Đảo Mã quan là có thể tới thẳng U Yên. Nếu như là từ Biện Lương trực tiếp đi ra, vậy thì ra thẳng Dung quan, qua Thạch Môn quan, nếu đi qua Hãn châu Phó Kê Minh sơn thì nhanh hơn một chút. Có điều là bọn họ đi từ Lạc Dương, người mà Dương Hạo phái đi trước lại đợi ở ngoài Nhạn Môn quan, cho nên Dương Hạo liền lấy cớ rằng trước tiên tới Nhạn Môn quan thăm dò tình hình một chút, nắm được thêm tình báo có lợi rồi mới từ đó tới thượng kinh, cho nên chọn con đường khác. Có điều khác đường cùng đích, sau cùng vẫn sẽ tới Hóa châu. Sau khi xuất quan, bọn họ đã liên hệ với thủ quân ở phía Khiết Đan, thủ quân Khiết Đan phái đội ngũ năm trăm người hộ tống bọn họ cùng lên đường, lại dùng khoái mã truyến tới Nam viện và Thượng kinh. Nhánh thủ quân này thuộc Nam viện, tám thành chiến sĩ trong quân đều là người Hán, thống lĩnh thủ quân được phái tới hộ tống cũng là người Hán, tên là Phùng Tất Vũ, trên vấn đề ngôn ngữ thì không có vấn đề gì với bọn họ. Trên đường đi, Dương Hạo và Phùng Tất Vũ thường tìm cơ hội để nói chuyện, thăm hỏi tin tức về các phương diện, biết được sau khi Thương kinh nội loạn, Nam viện tể tướng của Khiết Đan nghiêm khắc ước thủ sở bộ không được phát sinh xung đột với người Tống. Lần này biên trại người Tống bị quấy nhiễm, bọn họ cũng rất kinh ngạc, không biết là lộ nhân mã nào vi phạm cấm lệnh. Dương Hạo còn biết được rằng, Khánh vương sau khi bộ tộc của mình bị quan binh Nam viện tập kích, đã bỏ qua thành Thượng kinh đánh lâu mà không hạ được, di chuyển về phía khu vực của người Nữ Chân, nhưng đây chỉ là một giả vờ,, sau khi hấp dẫn binh của Cần vương đi về phía Nữ chân, bọn họ đã vứt bỏ những người già yếu, nhanh chóng chạy về hướng Tây. Tuy nói nơi này là phạm vi thống trị của Nam viện, nhưng bởi vì đất rộng người thưa, phạm vi có thể hoạt động càng lớn, hơn nữa không phải là hu vực hoạt động chuyên thống chủ lực của Khiết Đan, Nam viện lại không thể điều động đủ nhân mã để cản dường chúng, cho nên bọn chúng giống như mỗi một bộ lạc thảo nguyên mỗi khi tranh quyền thất bại, ý đồ vượt qua đại thảo nguyên, giết tới hướng Tây bắc nơi mà sức khống chế của Khiết Đan yếu nhất, ở đó xây dựng lãnh thổ cho mình. Nam viện tể tướng lần này phái thám mã dò xét lộ tuyến của bọn chúng khắp nơi, cố gắng hết sức để ngăn cản đám phản quân này. Dương Hạo nghe xong liền mừng thầm, Khiết Đan và Tống quốc đứng cùng một chỗ, giống như là một đại hán lam lũ mặt mày dữ tợn đứng cạnh một công tử cẩm y ngọc ***, nói tới tính xâm lược và tính uy hiếp, bọn họ rõ ràng là mạnh hơn bất kỳ ai khác, nếu nhánh nhân mã của Khánh vương có thể thành công đột phá trọng vậy, ở tây bắc xây dựng một chính quyền có thể đối kháng với Thượng kinh, thì có thể khiên chế cả quân đoàn Khiết Đan không có sức để nam hạ, vậy thì vô luận là đối với Hán nhân Trung Nguyên mà nói, hay là đối với tương lai hắn sinh tồn ở Tây bắc mà nói, rõ ràng càng có lợi hơn. Hắn hiện tại đã có chút chờ mong Khánh vương thành công. Những ngày này, vẫn đi tới tây kinh, phía trước dẫn dần là nơi hoang lương vắng bóng người. Phùng Tất Vũ dùng roi ngựa chỉ vào mảng cỏ xanh mượt ở bên đường, nói: "Dương đại nhân nhìn xem, loại cỏ này chính là cỏ nuôi súc vật mà ngựa của quan ngoại chúng ta thích ăn nhất, gọi là Tức Kê thảo, Tức Kê thảo rễ to mà lại béo, đối với ngựa mà nói thì là ngon nhất, chiến mã quan ngoại của chúng ta to béo chắc khỏe, phần lớn là nhờ vào cỏ này. Ngựa được cho ăn mười ngọn là no rồi." Dương Hạo nghe vậy liền dõi mắt nhìn, cỏ đó so với cỏ lau của quan nội thì có tám phần tương tự, không ngờ cỏ dại không hề bắt mắt này là lại thực liệu chủ yếu của chiến mã phương bắc. Dân tộc phương Bắc có đồng cỏ và nguồn nước dôi dào thích hợp làm bãi có với quy mô chăn thả lớn, bộ lạc du mục sinh trưởng trên mảng thảo nguyên này có năng lực cơ động cường đại có thể tùy thời nam hạ xâm lược Trung Nguyên, một khi gặp phải phản kích thì có thể lui về thủ sa mạc thảo nguyên, khiến người Hán kó mà xâm nhập được. Đợi khi người Hán binh phong giảm đi, lại trùng xuất giang hồ, cái này gọi là tiến lui tự nhiên. Giống ngựa Mông Cổ của bọn họ so với giống ngựa Ả Rập và giống ngựa Bắc Âu mà nói thì kém hơn nhiều, nhưng lại rất dễ sinh sôi nảy nở, dễ chăn nuôi, cho nên rất dễ dàng xây dựng được một đội ngũ kỵ binh với số lượng khổng lồ, nếu dân tộc Hán một khi mất đi nguồn ngựa có thể trông cậy, không thể xây dựng một quân đoàn kỵ binh cường hãn có thể đối kháng, chỉ dựa vào bộ binh, tác chiến chính diện rất khó thủ thắng, cho dù chiến thắng cũng rất khó truy kích để khoách đại chiến quả, chỉ có thể ngồi đợi bọn chúng tập kết rồi lại đánh ra, cho tới tận khi kiệt quệ mà bại thì mới thôi. Không biết binh khó làm được tướng, không trọng nông canh khó thành chủ nhân Trung Nguyên, mà hắn nếu muốn khống chế Tây Bắc, đối với ngành chăn nuôi không thể không trọng thị. Dương Hạo chỉ cần không ngại học hỏi kẻ dưới, tìm hiểu thêm một số tri thức về phương diện này. Đột nhiên trong không trúng có một tiếng gèo thét bén nhọn vụt qua, Phùng Tất Vũ ngây người, giục ngựa tiến về phía trước. Phùng Tất Vũ lao lên một sườn núi thấp ở phía trước, nhìn về phía xa một lát rồi quát lên: "Dừng tại chỗ, bảo vệ Tống sứ." Năm trăm kỵ binh Khiết Đan lập tức tản ra, hộ vệ một ngàn quân Tống ở giữa. Những binh lính Khiết Đan này chỉ có năm trăm người, nhưng lại bảo vệ bọn họ ở giữa như người già trẻ em, bọn họ cũng là anh hùng hán tử bên dưới có ngựa, trong tay có thương, há lại chúng để người ta khinh thường như vậy. Thống binh chỉ huy sứ Trường Đồng Chu lập tức giục ngựa, hô to với Dương Hạo: "Đại nhân, bọn họ chỉ có năm trăm người mà muốn bảo vệ chúng ta ư, đã có địch nhân lại không cho phép chúng ta động võ, khó tránh khỏi không coi ai ra gì quá!" Dương Hạo cười nói: "Trương chỉ huy chớ có nóng nảy, đây là chức trách của bọn họ, chúng ta là sứ giả triều đình, hiện giờ tình thế chưa rõ, tất nhiên không tiện động đao động thương rồi?" Hắn liếc Trương Đồng Chu một cái, mỉm cười nói: "Các ngươi ở nội tuyến bố trí thêm một đạo phòng ngự, cố gắng giữ an toàn là được." "Vâng!" Trương Đồng Chu nhận lệnh, lập tức lớn tiếng hạ lệnh, quân Tống hành động khẩn cấp, những binh sĩ đã được huấn luyện kỹ càng liền bố trí một trận tròn, cử chỉ tiến thoái đều chỉnh tề vô cùng, nhất thời đao thương san sát, cũng nỏ lên dây, sự chỉnh tề của quân dung hơn hẳn năm trăm binh lính Khiết Đan, đây đều là cấm quân tinh nhuệ, tuy chỉ có ngàn người, nhưng ngàn người như một, uy thế tất nhiên bất phàm, một chút hành động để lấy le này, lập tức dẫn tới sự chú ý của các binh sự Khiết Đan. "Xảy ra chuyện gì vậy?" Phùng Tất Vũ lớn tiếng quát, giục ngựa chạy ra sau hỏi. "Phùng đại nhân, phái trước có một toán nhân mã, ít nhất cũng trên dưới ngàn người, đang hướng về phía này, thuộc hạ liên tiếng hỏi mấy lần, nhưng bọn họ thế tới không giảm, ngược lại còn phi nhanh hơn, xem ra là không có ý tốt." "Ngươi tới có cờ hiệu gì không?" "Cờ hiệu màu sắc lòe loẹt, rất khó đoán lai lịch." Phùng Vũ nghe thấy vậy không khỏi nhíu mày, lúc này phía trước tiếng vó ngựa như sấm, một nhánh kỵ binh nhanh chóng phi tới, Phùng Tất Vũ quát lớn: "Cảnh cáo, không được dừng lại, nếu không dừng lại, báo rõ thân phận, cung tiễn sẽ tiếp đón!" Nhìn nhân mã ở phía trước, Phùng Tất Vũ quay đầu lại nói với Dương Hạo: "Dương đại nhân đừng lo lắng, người tới cờ hiệu tán loạn, đội hình không nghiêm chỉnh, nhìn thì hung hãn nhưng giữa hai bên rất khó phối hợp chiếu ứng, không thể là quân đội, cũng không thể là tộc binh của bộ tộc cường đại, nếu thật sự có ác ý, mỗ tất sẽ cho đám ô hợp này có đi mà không về!" Mắt thấy địch ở ngay phía trước, hắn lớn tiếng hạ lệnh, đội hình của binh lĩnh Khiết Đan lập tức có biến hóa, lai lại hai trăm người bảo vệ hai bên cánh của quân Tống, ba trăm người còn lại thì giục ngựa phi lên trước, bố thành một trận hình mũi tên sắc bén, kỵ sĩ trên lưng ngựa nhao nhao rút cung đặt tên, mũi tên giơ lên trước, chuẩn bị chiến đấu. Tên lệnh cảnh báo bắn ra, người đang lao tới ở phía tước không chậm lại một chút nào, ngược lại còn hô hoán bắt đầu chạy nước rút. Phùng Tất Vũ sắc mặt hơi biến đổi, nhìn đội ngũ đang nhe nanh múa vuốt đó, nghiến rằng cười gằn: "Là mã tặc, bọn chúng lớn gan thật, phóng tên!" Một loạt tên được bắn ra, đột ngũ mã tặc đang cuồn cuộn lao đến lập tức hỗn loạn, có tên cầm lá chắn ra để che, có tên thì nấp sau bàn đạp, có tên trúng tên rơi xuống ngựa, lập tức bọn chúng cũng trả đũa, vô số lợi tiễn bắn ra, binh sĩ quân Tống lập tức giơ thuẫn lên che thân. Dương Hạo từ trong hộ vệ giật lấy một chiến thuẫn da, chăm chú nhìn quân địch ở phía trước. Đối phương tuy đông, nhưng chẳng qua là mã tặc mà thôi, đối với với bộ lạc tầm thường hoặc là thương lữ thì tất nhiên là kiêu dũng, nhưng quân chinh quy của Phùng Tất Vũ thì không để bọn chúng vào trong mắt. Mắt thấy quân địch lao tới rất nhanh, chỉ bắn ra được ba loạt tên là đối phương đã ở ngay trước mặt, Phùng Tất Vũ lập tức quát to: "Xông lên trước, giết chết đám chó không có mắt này đi, giết sạch chúng cho ta!" Ba trăm chiến sĩ Khiết Đan lấp tức hò hét xông lên, khi song phương còn cách nhau không tới trăm bước, bọn họ đã dùng sống đao vỗ vào mông ngựa, hai chân đạp lên bàn đạp, mông tách khỏi yên ngựa, khoái mã như tên, cương đao sáng choang, nhìn thế tới, nếu bị bọn họ chém một đao, e rằng cả người và ngựa đều bị chẻ thành hai phần. Song phương rầm rầm đụng vào nhau, máu và xương cốt vỡ nát bắn lên không, binh lĩnh Khiết Đan giống như một thanh đao sắc bén, đâm xuyên đội ngũ của mã tặc. Kỵ binh phải trùng phong thật nhanh mới lộ ra được uy lực của bọn họ, cho dù giết vào địch trận thì ngựa cũng không dừng vó, quyết chí tiến thẳng về phía trước, nếu ghìm cương ngựa chiến đấu giằng co tại chỗ, song phương đều sẽ bị chôn sâu ở đây. Phùng Vũ Tất dẫn người vung cương đao chẻ mã tặc ra làm hai, giống như một mũi tên rời cung bắn về phía trước, bọn họ muốn xông qua đội ngũ của mã tặc, rồi lại quay lại trùng sát trở về, đội ngũ của mã tặc bị chia làm hai nữa cũng không dừng một giây nào, cùng bọn họ đan qua nhau, trên đường binh khí giao kích, leng keng lao về phía binh lĩnh Khiết Đang đang ở tại chỗ đợi lệnh và sở bộ của Dương Hạo. Mắt thấy bọn chúng xông tới trước, hai trăm binh Khiết Đan giống như là lang cẩu khiêu chiến, gầm gừ lao tới, đúng vào lúc này, tiếng kèn lệnh vang lên, vọng khắp cả bầu trời, từ phía sau có một nhánh đội ngũ giết ra, nhân số ít nhất cũng hơn ngàn người, ai ai cũng nhe nanh múa vuốt, gầm gừ lao tới. Nếu không thể phát huy ưu thế của kỵ binh phía mình, để mặc cho quân địch lao tới phía trước, vậy thì chỉ có thể để mặc cho người ta giết mổ. Trương Đồng Chu thấy vậy, lập tức ra lệnh cho hậu đội chuẩn bị, chuẩn bị đợi khi địch binh xông tới gần thì cũng sẽ xung phong giống như là binh lính Khiết Đan. Dương Hạo thấy vậy, trong lòng đột nhiên cảm thấy có chút bất diệu. Mã tặc chỉ muốn tài vật, tập kích mình làm cái gì? Nếu bọn chúng hiểu lầm mình là thương đội, lúc này nên nhận ra mà rút lui rồi chứ, vì sao vẫn liều mạng như vậy? Đặc biệt là đội ngũ mà tặc này không ngờ lại chia binh làm hai đường, tiến hành dẫn dụ binh Khiết Đan, kế đó đột kích bản bộ của mình, rõ ràng là có chuẩn bị mà tới, thậm chí ngay cả lộ tuyến hành tung, nhân số nhiều ít của bọn họ cũng bị dò la rõ ràng rồi, e rằng bọn chúng không phải đơn giản là mã tặc. Đúng vào lúc này, trong bụi Tức Kê thảo xanh mượt giống như cỏ lau đột nhiên có vô số mũi tên bắn ra, bắn ngã rất nhiều quân Tống đang nghiêm trận chờ đợi, sau đó một nhánh nhân mã đột nhiên giết ra, người đi phía trước trong tay cầm cương xoa sáng loáng, thân hình khôi ngô, một mắt bịt vải che mắt màu đen, chính là một tên độc nhãn long. Hắn vung vẩy cương xoa, từ đằng xa hét lớn: "Giết Tống sứ Dương Hạo, giết, giết, giết!" "Quả nhiên là vì ta mà tới! Người khác làm sứ tiết, đó là việc tốt, sao công việc mà ta tiếp nhận luôn không tránh được đánh giết thế nhỉ?" Dương Hạo thở dài một hơi, rút lợi kiếm ra, quát lớn một tiếng: "Toàn quân, giết!" Nói xong liền suất lĩnh quân mình, lao về phía trước. Hướng mà hắn xông tới không phải là hậu lộ, cũng không phải là bên cánh, mà là cỗ mã tặc ở phía tước đang giằng co với binh Khiết Đan.